Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời cuối của người dịch

28/05/201319:34(Xem: 10517)
Lời cuối của người dịch
Con Đường Mây Trắng


Lời Cuối Của Người Dịch

Nguyễn Tường Bách
Nguồn: Anagarika Govinda. Nguyễn Tường Bách dịch


Hẳn có nhiều độc giả muốn biết dòng đời tiếp theo của tác giả và số phận của tu viện Tsaparang, vì thế mà có phần này.

Sau khi vượt đèo về lại Ấn Độ khoảng tháng 7.1949 Govinda và Li Gotami đến Simla, một thành phố phía Bắc Ấn. Đó là nơi hai ông bà gặp lại đời sống đô thị, thấy lại ô tô trên đường phố, ăn kem lạnh. Khoảng năm 1950 hai ông bà định cư tại Deolali gần Nasik, một thành phố phía Tây Ấn Độ cách Bombay quê quán của Li Gotami, khoảng hơn 100km. Suốt 10 năm sau đó hai ông bà ở tại miền đồng bằng này, dạy học, viết sách. Năm 1952 Govinda thành lập hội Arya Maitreya Mandala. Cũng trong thời gian này Govinda liên hệ mật thiết với một học giả lừng danh khác, Evans-Wentz, thảo luận và bổ túc thêm cho cuốn Tử Thư (Bardo Thodol) do vị này xuất bản.

Khoảng năm 1960 Govinda nhận lời của Evans-Wentz đến Kasar Devi, gần Almora thuộc miền Bắc Ấn, khá gần biên giới Tây Tạng và Nepal và sống tại đó gần 15 năm. Đó là một căn nhà nhỏ của Evans-Wentz, nơi cuốn Con đường mây trắng này, bản tiếng Anh và tiếng Đức ra đời. Đây cũng là thời gian Govinda viết các tác phẩm quan trọng khác như Grundlagen tibetscher Mystik (Cơ sở mật tông Tây Tạng), Logic and Synbol in the Multi-Dimensional Conception of the Universe (Ý nghĩa và biểu tượng trong nhận thức nhiều chiều về vũ tru)…

Sau khi các tác phẩm này được sự chào đón nồng hậu, Govinda và Li Gotami đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Tháng 7.1975, nhận lời mời cả một lạt ma tại Mỹ, Govinda và Li Gotami sang định cư tại California.

Khoảng năm 1978 sức khỏe của Govinda bắt đầu giảm nhưng ông vẫn làm việc tiếp tục. Năm 1979 hơn 30 năm sau khi đi Tsaparang, Li Gotami cho ra đời tác phẩm Tibet in pictures (Hình ảnh Tây Tạng). Năm 1981 Govinda viết xong và xuất bản cuốn Die innere Struktur des I Ging (Cấu trúc nội tại của Kinh Dịch), trong đó ông khẳng định sự tương thích rõ rệt giữa Phật giáo và Kinh dịch.

Tháng giêng năm 1985 Govinda từ trần sau một cơn đau tim, chết yên lành trong tay người vợ và là người bạn đồng hành tuyệt vời Li Gotami, thọ 87 tuổi. Vài tháng sau Li Gotami trở về quê hương Ấn Độ và từ trần trong tháng 8.1988.

Còn tu viện Tsaparang, cũng như số phận của các tu viện chùa chiền tại Trung Quốc và Tây Tạng, phải chịu sự hủy phá do con người gây ra trong cuối những năm 60 của thế kỷ này dưới một chiến dịch mang tên là "Cách mạng văn hóa". Tại đất nước Trung Quốc mênh mông với một nền văn hóa thâm hậu này, những hồng vệ binh trẻ tuổi đã phá hủy vô số đền đài tranh tượng do tiền nhân của họ để lại. Thế nhưng, ngày nay người ta biết hồi đó nếu không có Thủ tướng Chu Ân Lai ra tay can thiệp thì qui mô tàn phá còn ghê gớm hơn nữa.

Sau khi bị phá phách, tu viện Tsaparang phải đóng cửa mãi cho đến năm 1985. Ngay sau khi Tsaparang được chính quyền cho phép viếng thăm lại, có hai người Đức tên là H.Weyer và J.C.Aschoff đến đây trong tháng 5.1986. hai ông đã chụp hình màu các đền thờ màu đỏ, màu trắng và các tranh tượng trong đó mà Govinda và Gotami đã khổ công sao chép gần 40 năm trước. Những hình này hẳn phải là hình màu đầu tiên của tu viện vô song này.

H.Weyer và J.C.Aschoff đã tập hợp các hình này và cho xuất bản trong tập sách mang tên "Tsaparang - Tibets grosser Gehimnis" (Tsaparang - Chốn ẩn mật của Tây Tạng). Qua tập sách này ta thấy nhiều tranh tượng mà Govinda mô tả này đã mất hẳn, một số khác bị hư hại. Phần lớn các bích họa còn nguyên vẹn và màu sắc còn hết sức đậm đà. Ngược lại, các tượng Phật đã bị hủy hoại nhiều, tượng nào cũng bị mổ ngực, mổ bụng vì người ta hy vọng tìm thấy vàng bạc trong đó.

Người dịch tình cờ tìm thấy tập sách này sau khi đã hoàn thành bản dịch Con đường mây trắng và cho rằng đây là một nhân duyên to lớn nên lấy một hình của tập sách để độc giả tham khảo. Bức tượng này trình bày Đại Nhật Phật, còn có tên là Tì-lô-giá-na (Vairocana) trong đền thờ màu trắng của Tsaparang. Đây là bức tượng bốn mặt của vị Phật tượng trưng cho Pháp thân, đã bị con người mổ ngực tìm vàng (tr.15). Hình tượng này một mặt biểu hiện trình độ nghệ thuật xuất sắc của nghệ nhân Tây Tạng ngày xưa, mặt khác cho thấy sự thô bạo của con người thời nay.

Ngày nay du khách có thể đến thăm Tsaparang và ta thấy đã có đường xe hơi chạy ngang Ngân Sơn, giữa hai hồ Manasavar và Rakastal cũng như đường dẫn đi Tsaparang và các tranh tượng vô giá trong đó vẫn còn đời sống với thời gian, đúng như linh ảnh của Govinda được mô tả trong chương đầu tiên của cuốn sách này.

NGUYỄN TƯỜNG BÁCH
Tháng 10.1999
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4674)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43795)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4390)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4338)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4246)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6354)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4634)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4051)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 24952)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24042)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]