Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niềm tin của nàng Ambapàli

05/04/201318:01(Xem: 5268)
Niềm tin của nàng Ambapàli


nangambapali_1
Niềm tin của nàng Ambapàli

Thích Nguyên Hùng

Nguồn: Thích Nguyên Hùng

Ambapàli (Am-ba-bà- lị) nguyên là một kỹ nữ hạng sang sống tại thành Tỳ-xá-li. Nàng sở hữu nhiều tài sản, trong đó có một khu vườn xoài nổi tiếng xinh đẹp nhất thành phô và cũng là trung tâm giải trí lớn nhất của tầng lớp thượng lưu.
Một lần nọ, Ambapàli nghe tin Đức Phật cùng các đệ tử du hành đến thành Tỳ-xá-li và nghỉ lại dưới những gốc cây xoài, nàng liền sửa soạn xe báu đi đến đảnh lễ Thế Tôn. Khi gần đến nơi, từ xa nàng đã thấy Đức Thế Tôn diện mạo đoan chánh, các căn đặc biệt khác thường, tướng tốt đầy đủ, như mặt trăng ở giữa những vì sao. Nàng rất hoan hỷ, xuống xe đi bộ lần tới chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi xuống một bên.
Rồi Thế Tôn theo thứ lớp thuyết pháp, khai giải, giáo huấn, khiến cho lợi ích, hoan hỷ. Nghe Phật thuyết pháp xong, Ambapàli phát tâm vui mừng, quỳ trước Đức Thế Tôn phát nguyện trọn đời quy y Tam bảo và giữ gìn năm giới. Sau đó, nàng thỉnh cầu Đức Phật cùng các Tỳ kheo ở lại khu vườn nổi tiếng của mình và dự lễ trai tăng vào ngày mai. Sự thỉnh cầu ấy được Phật hứa khả. Quá xúc động và sung sướng trước tấm lòng từ bi thương tưởng của Thế Tôn, nàng dong xe nhanh chóng trở về nhà để chuẩn bị cho buổi lễ cúng dường trai tăng sáng hôm sau. Do chạy xe quá nhanh nên nàng đã gây va quẹt với đoàn xe của năm trăm công tử Lệ-xa, cũng đang trên đường đến đảnh lễ Đức Phật. Các công tử Lệ-xa bắt nàng lại và hỏi vì lý do gì mà chạy xe nhanh thế, thì được biết nàng phải về nhà gấp để chuẩn bị lễ cúng dường Đức Phật và chúng Tăng. Các công tử Lệ-xa liền đề nghị nàng nhường cho họ được cúng dường Phật trước và họ sẽ trả cho nàng một trăm ngàn lượng vàng. Ambapàli không đồng ý. Các công tử Lệ-xa ra giá cao hơn, gấp mười sáu lần trăm ngàn lượng vàng, cho đến số tài bảo gia trị bằng một nửa vương quốc. Nhưng nàng Ambapàli đã thẳng thừng tuyên bố: “Giả sử đem tài sản và bảo vật của cả nước cấp cho tôi, tôi cũng không nhận. Vì sao? Vì Phật hiện ở tại vườn xoài của tôi, Ngài đã nhận lời tôi thỉnh trước. Việc ấy đã xong, không thể nhường được”.
Thật quá bất ngờ cho năm trăm công tử Lệ-xa, và cho cả chúng ta!
Xuất thân thấp hèn, đối với xã hội thời Đức Phật, và cả xã hội ngày nay, trong mắt mọi người, Ambapàli chỉ là một kỹ nữ, không hơn không kém. Cho dù một số ít người đã coi kỹ nữ cũng là một cái nghề, nhưng cái nghề đó không được xã hội đồng tình, nếu không muốn nói là bị nhiều người lên án, chỉ trích, mạ lị (nguyên văn trong kinh nói nàng là một dâm nữ-Pàli: kàmesu micchàcàro, hành vi tà vạy trong các dục lạc). Với nhiều người, Ambapàli có một lý lịch xuất thân không đàng hoàng, là người bỏ đi, là hạng người thấp hèn, nhơ nhuốc, đáng bị người đời khinh khi, phỉ nhổ. Thế nhưng, chỉ sau một lần diện kiến Đức Thế Tôn, Ambapàli đã trở thành một con người khác, khác hoàn toàn. Nàng đã rủ bỏ tập khí đã gây tạo từ trước, tiêu trừ những cấu uế và làm một con người mơi. Đây là sự mầu nhiệm của Phật pháp, nhưng cũng là sự mầu nhiệm của khả năng tự chuyển hóa nơi mỗi con người. Không ai có quyền lựa chọn điều kiện hay hoàn cảnh xuất thân của mình, nhưng mình hoàn toàn có quyền lựa chọn cách sống, lối sống cho chính mình, để đời sống của mình thăng hoa hay chìm xuống tận đáy của xã hội.
Ambapàli trở thành một kỹ nữ có lẽ vì hoàn cảnh gia đình, cũng có thể là vì xã hội đẩy đưa. Có cả trăm ngàn lý do. Va có biết bao nhiêu người lâm vào hoàn cảnh giống như nàng, tưởng chừng như không còn lối thoát. Ấy vậy mà nàng Ambapàli đã thoát được, chỉ sau một lần đi lễ Phật! Vậy thì những người khác, có hoàn cảnh như nàng hay tương tự nàng, tại sao lại đánh mất niềm hy vọng trong khi cửa chùa đang rộng mở? Chúng ta phải có niềm tin.
Chính niềm tin đã đánh thức tâm linh của Ambapàli, thức dậy niềm tịnh tín vào Tam bảo, ngay lần đầu tiên diện kiến Thế Tôn. Chỉ một lần để cơn mưa pháp tưới những hạt cam lồ vào tâm thức thì bông hoa hạnh phúc đã đâm chồi nảy lộc trong trái tim người kỹ nữ. Và niềm hạnh phúc đó, giờ đây đối với nàng là không có gì so sánh được, không có gì co thể mua được, không có gì đánh đổi được, dù là tài bảo của cả vương quốc. Nàng đã thành tựu tín căn kiên cố, hay nàng đã thành tựu được bốn niềm tin bất hoại (tứ bất hoại tín). Bấy giờ, ai còn dám khinh khi người kỹ nư ấy? Nàng đã vào địa vị bất thối!
Mỗi chúng ta đều hơn một lần tự hào và nhân danh Phật tử, tự cảm thấy hãnh diện rằng mình xuất thân trong gia đình nề nếp, có địa vị xã hội, có giáo dục trường lớp… Nhưng so với người ky nữ kia, niềm tin của chúng ta đối với Tam bảo như thế nào? Và thái độ của chúng ta đối với tiền tài danh vọng ra sao? Ambapàli, vốn là một kỹ nữ, người mà chúng ta hơn một lần không để mắt tới, hoặc để mắt tới với thái độ khinh miệt, vậy mà chỉ sau một lần đi lễ Phật, nghe pháp, dù được trao đổi giá trị tài sản của cả giang sơn, nàng cũng không nhường cái quyền phụng sự, cúng dường Tam bảo cho người khác. Trong khi đó, có biết bao nhiêu người nhân danh này nọ lại có thể sẵn sàng đánh đổi lý tưởng, đánh mất niềm tin của mình chỉ vì một chút hư danh, một chút tàn dư bả lợi. Điều này tưởng cũng cần suy gẫm lắm thay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2012(Xem: 7790)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
18/01/2012(Xem: 13286)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linhthiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng,ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại. Kinh điển Phật giáo có nhiều huyềnthoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắmcho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật, Phật hàng phục hỏa long,Long vương nghe kinh Thập thiện, Long nữ thành Phật…
18/01/2012(Xem: 6848)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
09/01/2012(Xem: 5729)
Thoáng chốc mà đã bamươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian vô hình vunvút. Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vàng lốm đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuân đã gặp nhau…
06/01/2012(Xem: 7709)
Hình ảnh các chú tiểu có mặt trên nhiều quốc gia đã sống lặng lẽ chẳng cần ai nhìn tới. Nhiều chú đã rơi rụng sau những hoàn cảnh khắc nghiệt của thời thế hay của tâm tình riêng; nhiều chú đã thành đạt sau bao nỗ lực phấn đấu cam go trong cửa thiền. Thất bại trong im lặng, thành công cũng trong im lặng. Chẳng cần bút mực nào ca tụng hay thương tiếc mà dòng tiếp nối đẹp đẽ của nhiều thế hệ quét lá đó vẫn chảy mãi, trôi mãi.
24/12/2011(Xem: 5850)
Có câu hỏi như sau: "Trong lễ Hồng Danh Sám Hối, chúng tôi niệm danh hiệu "Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật". Theo truyện Tây Du, sau khi cùng với Sư Phụ là thày Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh, ngài Tôn Ngộ Không được phong là Đấu Chiên Thắng Phật. Vậy Đấu Chiến Thắng Phật Tôn Ngộ Không này có phải chính là vị Phật trong kinh Hồng Danh Sám Hối không?" Đây là một câu hỏi rất đặc biệt. Nhân câu hỏi này, chúng ta sẽ có dịp thảo luận về một đề tài gây nhiều hiểu lầm trải dài nhiều thế kỷ và lan rộng tại nhiều vùng địa danh trên thế giới.
13/12/2011(Xem: 10414)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
29/11/2011(Xem: 6460)
Những truyện cổ Phật Giáo tuy giản dị nhưng rất thâm thúy, thường hàm chứa đầy đủ và sâu sắc về đạo đức, giáo dục, luân lý và triết học.
22/11/2011(Xem: 3742)
Một buổi chiều, khi sư Khánh Vân đang dạo bước ngắm hoa ở sân sau thì chợt nghe tiếng người ồn ào đâu phía trước. Chú tiểu Công Sơn từ ngoài đi vào lật đật lại gần sư thưa: - Bạch thầy, không biết ai đã đem một đứa bé trai bỏ trước cửa chùa. Nó đang khóc dữ quá. Cũng có một số thôn dân đang đứng quanh đấy bàn tán xôn xao, xin thầy ra xem thử. - Mô Phật, để đó thầy ra xem sao
17/11/2011(Xem: 4418)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]