Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 4

14/05/201320:13(Xem: 14739)
Phần 4

Kinh Bách Dụ

Phần 4

Thích Nữ Như Huyền

Nguồn: Thích Nữ Như Huyền

31. Mua lừa

Thuở xưa có một số tín đồ của đạo Bà La Môn cử hành cuộc đại hội, họ cần dùng nhiều chén bạc. Vị giáo chủ của họ bảo đệ tử lên chợ mời một người thợ đồ sứ về làm. Đệ tử vâng lệnh đi tìm thợ. Đi giữa đường bọn họ gặp người thợ đang dắt một con lừa, trên lưng chở rất nhiều đồ sứ đem ra chợ bán. Lừa sẩy chơn té quỵ xuống, bao nhiêu đồ sứ trên lưng đều rớt xuống đất và bể tan tành. Người thợ đồ sứ buồn rầu khóc lóc mãi. Bọn họ thấy thế lấy làm lạ hỏi rằng:

- Tại sao anh khóc buồn bã thế?

Người thợ trả lời:

- Tài nào tôi không khóc, bao nhiêu đồ sứ công phu làm trong một năm, nay định chở đem ra chợ bán nào ngờ con lừa bị sảy chân, trong khoảng khắc bể nát cả, như thế không đáng rầu rĩ ư!

Bọn họ nghe thế mừng thầm và nghĩ rằng:

- Con lừa nầy giỏi quá, công khó người thợ làm một năm, chỉ trong nháy mắt nó có thể làm tiêu tan hết.

Bây giờ bọn họ mới thương lượng với người thợ để mua con lừa. Người thợ đang tức giận muốn tống cổ nó đi, nghe có người mua nó, vội vã bán ngay.

Bọn họ cưỡi lừa về ra mắt giáo chủ, vị giáo chủ hỏi rằng:

- Tại sao không tìm thỉnh người thợ đồ sứ, mà lại mua lừa đem về?

Bọn đệ tử trả lời:

- Bản lảnh con lừa nầy, lớn hơn người thợ đồ sứ, vì người thợ làm trong một năm mới thành một số đồ, mà chỉ trong giây phút một mình nó, nó phá tan.

Vị giáo chủ lắc đầu lia lịa và nói rằng:

- Sao các con dại dột thế? Con lừa nầy, trong khoảnh khắc có thể làm bề bao nhiêu đồ sứ, nhưng dù trải trăm năm, nó cũng không thể làm ra được một cái.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ở đời có nhiều người thọ ân của người khác giúp đỡ, chẳng những họ không thù đáp lại, mà thường hay trả oán. Hạng người vong ân bội nghĩa như thế, chúng ta không nên gần gũi, vì chỉ có hại chứ không ích lợi gì.

32. Trôm vàng

Thuở xưa có hai người thương gia cùng ở một chỗ, một người buôn vàng, một người buôn bông vải. Có người đến mua vàng, để vàng vào lửa thử xem thiệt hay giả. Người buôn bông vải kia lén trộm một cục, sợ thấy, bèn đem giấu trong bông. Vàng đang cháy nóng đỏ làm cho bao nhiêu bông vải cháy sạch sành sanh, công việv bại lộ. Người kia chẳng những không trộm vàng được, mà còn bị cháy hết bao nhiêu là bông vải.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo ăn cắp giáo lý của đạo Phật đem làm của mình, nhưng vì họ không rõ nguyên lý, không khéo xử dụng, chẳng những không hiểu Phật pháp, việc làm không đi đến đâu, mà lại làm cho giáo pháp của họ bị pha trộn. Chung kết cơ mưu bị bại lộ, làm trò cười cho kẻ bàng quan.

33. Chặt cây tìm trái

Thuở xưa trong vườn một ông vua, có trồng một thứ trái cây rất tốt, tàng nhánh sum xê, sanh trái ngon ngọt lạ thường, không chỗ nào có.

Ngày nọ có người khách ngoại quốc đến chơi, vua đưa đi xem cây ấy và nói rằng:

- Cây nầy sanh một thứ trái ngon vô song, chẳng nơi nào có cả.

Khách hỏi:

- Quả thật có trái ngon, vậy cho tôi một trái ăn thử được không?

Vua bằng lòng, bèn gọi người đốn cây ngã xuống để tìm trái, nhưng tìm không được trái nào. Sau đó, vua báo người đem cây đã chặt trồng lại, rồi tìm đủ biện pháp, cũng không thể nào làm cho nó đâm chồi nẫy tược như xưa. Cây ấy chết tuyệt, không còn sanh trái nữa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Đức Thích Tôn đã từng chỉ cho chúng ta công đức trì giới, giống như cây đại thụ, có thể sanh các thứ trái thần thông, trí tuệ, từ bi, thiền định ngon lành. Chúng ta muốn có những thứ trái cây ấy, thì trước tiên phải trì giới tu hành, dùng nhiều công đức pháp lành bón tươi, mới mong kết quả tốt đẹp hoàn toàn. Nhưng có một ít người không hiểu phương pháp ấy, buông lung hủy phạm giới luật oai nghi, mà còn mong cầu thần thông, định, huệ, khác nào người chặt cây tìm trái như trên, chẳng những trái không tìm được, mà cây quí từ nay đã chết khô. Hạng người hành động như thế thật đáng thương xót.

34. Thâu ngắn đuờng đi

Thuở xưa có một thôn cách kinh thành một trăm dặm, nơi ấy có một cái giếng nước rất trong và ngon ngọt, lạ thường. Vua hạ lệnh cho dân làng, mỗi ngày phải chở nước về kinh thành cho vua uống.

Dân làng ngày ngày tới lui mệt mỏi không chịu được, bèn rủ nhau trốn đến phương xa. Việc nầy thôn trưởng biết được, mới triệu tập một cuộc đại hội thôn dân, vị thôn trưởng đứng ra tuyên bố:

- Các anh em chớ đi đâu hết, tôi sẽ yêu cầu nhà vua thâu ngắn con đường một trăm dặm thành sáu mươi dậm tức khắc. Các anh em đi lại sẽ gần hơn, không nổi mệt mỏi như trước.

Hội nghị bế mạc, vị thôn trưởng vội vã vào kinh yêu cầu vua như thế. Vua phê chuẩn lời thỉnh cầu, và hạ lệnh cho sở lục lộ thâu ngắn con đường một trăm dặm còn sáu mươi dặm. Dân làng được tin ấy đều vui mừng và tự cảm thấy gần hơn trước. Từ đấy họ càng tin tưởng lời vua, họ đồng lòng tỏ không dời đi đâu cả.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời phát tâm tu học chánh pháp mong cầu thoát ly sanh tử, luân hồi, nhưng vì thời gian tu học dài dăng dẳng, nên càng thấy mỏi mệt, nửa đường thối tám không muốn tiến tới.

Đức Như Lai có đủ phương tiện, đem pháp nhất thừa phương tiện nói ba thừa, khiến cho hàng căn tánh kém cỏi, trí huệ cạn gần, nghe xong cho là Phật pháp dễ tu, dễ chứng, mới mạnh mẻ nổ lực tiến tu pháp lành công đúc, hầu thoát ly sanh tử luân hồi. Sau khi bọn họ chứng quả vị tiểu thừa xong, Phật trở lại chỉ trích họ. Ngài thuyết minh: Phật pháp xưa nay chỉ có nhứt thừa chớ không có hai hay ba thừa, nghĩa là: "Sự thật chỉ có một, hể có hai cái tương đối thì không phài là chơn". Bây giờ bọn họ càng tin tưởng lời Phật, có thể hồi tiểu quả hướng đến đại thừa, tin thế không nghi, an nhiên tiến tu đạo đại thừa Bồ Tát.

35. Thấy bóng trong gương

Thuở xưa có một người rất nghèo khổ, mắc nợ quá nhiều, không có biện pháp để trả nợ, chỉ còn có cách là đi trốn.

Ngày nọ, y đi đến cánh đồng bao la bát ngát, chợt thấy một cái rương, bèn mở ra xem thử, thấy đầy một rương ngọc ngà, châu báu, có đậy một miếng kiếng lên trên. Bây giờ y vui mừng không xiết, bèn thò tay vào lấy những của báu ấy. Nhưng y thấy trong rương hiện ra một người (tức là bóng của y) có vẻ dọa nạt y, y hoảng sợ dừng tay lại, trong tâm lo sợ không an, bèn nói với người trong gương:

- Ta cho là trong cái rương trong nầy, không có phương hướng, tưởng đâu là không có người, nào dè thấy có người trong đó, quái lạ chưa?

Nói xong y vội vàng chạy đi nơi khác.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời thường bị vô lượng phiền não ràng buộc, làm cho khốn đốn, khổ nảo, không có phúc đức, duyên lành, lại thường bị sống chết quay cuồng "ma vuông, trái chủ" áp bức khổ sở, nên muốn cầu giải thoát khỏi vòng thống khổ, đau thương mà tu học Phật pháp.

Bọn họ có công vun bồi cỏi phúc giống lành, dụ như cái rương đầy của báu, rồi lại thường bị "thân kiến ngã chấp" làm mờ, cho nên ở trong vô thường, vô ngã vọng chấp có ngã thường còn. "Thân kiến", "ngã chấp" dụ như bóng hiện trong gương, bọn họ lầm cho là chân thật, do đây mà không thể tu hành thiền định, đạo phẩm, chứng thành công đức vô lậu. Hành vi của bọn họ cùng với cử chỉ của người đã đến rương báu mà không lấy được vật gì, đồng nhau không khác.

36. Lầm móc con mắt

Thuở xưa có một người tu trên núi, học được pháp thuật, có thể khám phá tất cả ngọc ngà, châu báu chôn dưới đất lâu năm. Chuyện nầy thấu đến tai vua, vua rất mừng rỡ, bảo quần thần rằng:

- Ta muốn mời nhà nghệ thuật ấy ở luôn trong nước để giúp ta tìm của báu đã bị chôn vùi, nước chúng ta sẽ trở nên đại phú cường tức khắc.

Bây giờ có vị đại thần lảnh sứ mạng đi tìm nhà nghệ thuật. Vị đại thần quả nhiên tìm được người ấy, nhưng không chịu thỉnh về nước, mà lại móc cặp mắt của người, đem về dâng cho vua và nói:

- Hạ thần đã móc mắt của nhà nghệ thuật rồi, họ sẽ không thể đi khỏi nước được.

- Vua nghe xong lấy làm bất mãn nói rằng:

- Ngươi thật là dại dột, sở dĩ ta muốn thỉnh người là vì người có cặp mắt, có thể khám phá được của báu bị mai táng. Nay ngươi hủy hoại cặp mắt của người rồi thì người ấy còn dùng vào việc gì được nữa!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật giáo do nhận thấy các bậc đại đức cao tăng khắc khổ thanh tu trong rừng núi, phi thường cung kính rước về nhà cúng dường, không biết rằng làm thể chỉ ngăn ngại sự tu khắc khổ thanh đạm của các ngài, thậm chí làm cho các ngài hủy phá giới hạnh, lui sụt pháp lành, không thể thành công đắc quả.

Phật tử tại gia thường hay mắc bệnh mủ quáng và lầm lớn. Hộ pháp không biết pháp, cúng dường không đúng pháp hoặc đem tình đời làm lem ố giới, định thanh cao của các bậc đại đức xuất gia, làm thế mình và người đều bị hại, gây nên tội lỗi không vừa.

37. Giết trâu

Xưa có một người nuôi 250 con trâu, thường thả ra đồng ăn cỏ.

Một hôm, có con cọp vồ lấy một con ăn thịt. Người kia thấy thế, tự nghĩ thầm: "Trâu ta mất một con, không đụ số, ta còn dùng bầy trâu đây làm gì?" bèn đuổi cả bầy trâu xuông hố, chúng chết tuyệt không còn lấy một con.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật tử xuất gia thọ trì "Giới cụ túc" hai trăm năm mươi rất hoàn hảo. Sau đó bất cẩn lỡ phạm một điều, đã không biết xấu hổ, ăn năn, sám hối cho trở lại thanh tịnh như xưa; mà lại lầm tưởng: "Ta đã phá một giới rồi, thì giới hạnh đã kém khuyết, dù có ăn năn giữ kỹ các giới cũng chẳng ích gì". Rồi từ đây ngang nhiên phạm giới không biết kiêng sợ, bỏ cả giới luật không hành trì. Người tu hành như thế cùng với người giết trâu như kia đều là hạng ngu si đáng thương cả.

38. Bảo nước đừng chảy

Thuở xưa có một người đi đường rất khát nước, xem thấy bên đường có cái hang, giòng suối từ trong ấy chảy ra nước trong leo lẻo, kế bên có cái thùng hứng nước đầy tràn. Người kia bèn kê miệng uống. Sau khi uống đở khát rồi, y chỉ cái thùng và nói:

- Ta uống đở khát rồi, vậy nước ơi! Đừng chảy ra nữa.

Nhưng nước vẫn y nhiên chảy mãi không ngừng. Người kia tức mình quá, đứng bên cái thùng chữi rủa om sòm. Mọi người thấy thế cười và trách anh ta rằng:

- Anh cần gì làm thế, hãy lánh đi nơi khác đi, hà tất phải bảo nước đừng chảy nữa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời thường say đắm trong biển sanh tử tham ái, uống nước ngủ dục tanh hôi, đôi khi cũng cảm thấy chán chê, ước mong con ma ngủ dục lạc đừng đến quấy rầy, nhưng nào được như ý. Muốn thế ta cần phải đề phòng các giác quan, tự kiểm thảo lấy mình cho cẩn thận: Tạm đừng dính líu duyên trần, ý đừng vọng tưởng sự thế. Chớ nếu chẳng dụng công xá bỏ bợn nhợ nơi lòng, mà chỉ mong muốn ngăn cảnh ngủ dục bên ngoài đừng đến quấy nhiểu, thì chẳng những không thể ngàn được miếng mồi ngủ dục (I), mà lại hằng bị nó lôi cuốn vào đường trụy lạc đau thương, mãi quay cuồng trong hố sâu tội lỗi, chẳng hy vọng ngày nào giải thoát được phiền não, mê lầm. Hành động như thế chỉ luống công vô ích.

(I) Ngủ dục: Tài, sắc, danh, ăn ,ngủ; hoặc là sắc, hương, thinh, vị, xúc, cảnh giới đây thường thường làm cho con người điên đảo, mê hoặc.

39. Sơn tường

Thuở xưa có một người, y đến chơi nhà người bạn, thầy vách tường nhà bạn sơn bóng loáng, ráo khô, sạch sẽ, mới hỏi rằng:

- Anh dùnh thứ chi sơn quét vách tường đẹp thế?

Người bạn trả lời:

- Tôi dùng cám trộn với bùn và nước.

Người kia làm tường: Dùng cám mà còn tốt như vậy, nếu dùng nguyên lúa trộn với bùn mà sơn tường, thì chắc tốt hơn thế nữa.

Y bèn trở về nhà, dùng rất nhiều lúa trộn với bùn sơn lên vách. Kết quả chẳng những hoang phí một số lúa mà còn làm cho vách tường trở nên chỗ lồi, chỗ lõm không bằng, nhiều nơi sứt mẻ.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Một số người hiều lầm Phật pháp, hoặc tự cho mình là thông minh, tu bướng theo ức kiến của mình, rồi xa chánh pháp, thường thường mắc bệnh khổ công tu hành mà chỉ tổn hại không ích. Thí như phàm phu nghe Thánh nhân thuyết pháp rằng: Tu các pháp lành, sau khi chết sẽ được sanh thiên, hoặc được giải thoát; rồi họ tự lầm lộn giết chết thân mình mong được sanh thiên hưởng phước báo. Kết quả chỉ luống hủy thân, đối với sự tu hành không được chi cả. Họ với người kia đều là hạng ngu si.

40. Người sói đầu tìm thuốc.

Thuở xưa có một người đầu sói không có một sợi tóc, về tuyết đông lạnh vô cùng, mùa hạ nóng không thể tả, lại bị muỗi mòng bu cắn rất là đau đớn. Chẳng nghe đồn có vị lương y có thể trị hết bệnh sói và bất cứ bệnh gì, khó trị cách mấy ông cũng đều trị lành.

Người bèn đến nơi thưa hỏi:

- Tôi có bệnh sói đầu rất đau đớn, nghe đồn ngài có thể trị lành bệnh tôi, cúi xin thương xót chữa cho tôi khỏi bệnh.

Lập tức vị lương y lột nón của mình ra đưa đầu sói cho xem và nói:

- Thấy chăng, ta tự mắc bệnh ấy và đau khổ vô cùng. Giả sử ta có thể trị được bệnh sói, thì ta đã tự chữa cho ta khỏi bệnh rồi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời mắc chứng bệnh: Sanh, già, bệnh, chết rất khổ não; muốn cầu đạo trường sanh bất tử mà không chịu đến với Phật, Bồ tát là những bậc Thánh nhân siêu trần để cầu học đạo thoát ly, mà trở lại tự mình mù quáng, đến bốn ngoại đạo thỉnh cầu, dầu biết bọn ngoại đạo tự mình vẫn bị trôi lăn trong vòng sanh tử, luân hồi, không có pháp giải thoát, làm sao cứu được người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2015(Xem: 4678)
Một trong tôn giáo cổ xưa Có thầy tu nọ rất ưa tế thần Tuy ông nổi tiếng xa gần Nhưng mà mê muội tâm thần nhiều thay. Một hôm ông chọn dê này Cho rằng thích hợp, giết ngay tế thần Nghĩ suy lầm lạc vô ngần:
25/01/2015(Xem: 6598)
Tác phẩm Một Đóa Sen, được diễn nói về vận hành tầm sư học đạo của Sư bà Thích Nữ Diệu Từ, thật là gian truân trăm bề, được thấy từ khi mới vào “Thiền Môn Ni Tự” ở các cấp Khu Ô Sa Di, Hình Đồng Sa Di, ứng Pháp Sa Di và Tỳ Kheo Ni ở tuổi thanh niên mười (10) hạ lạp rồi, mà vẫn còn gian nan trên bước đường hành hoạt đạo Pháp. Nhưng Sư bà vẫn định tâm, nhẫn nhục , tinh tấn Ba la mật mà tiến bước lên ngôi vị Tăng Tài PGVN ở hai lãnh vực văn hóa quốc gia và Phật Giáo Việt Nam một cách khoa bảng. Nếu không nói rằng; tác phẩm “Một Đóa Sen và Pháp thân” của Sư bà Diệu Từ, là cái gương soi cho giới Ni PGVN VN hiện tại và hậu lai noi theo…
24/01/2015(Xem: 4833)
Mỗi sáng sớm khi sương còn mù mịt trên sông, chiếc thuyền con của lão già đã là đà rẽ nước, hướng về bờ – lúc thì bờ đông, lúc thì bờ tây, nơi những ngôi nhà tranh và những chiếc ghe nhỏ tụ tập. Mái chèo khua nhè nhẹ như thể sợ động giấc ngủ của thế nhân. Chẳng ai biết chắc lão có gia đình, nhà cửa ở đâu hay không. Nhưng người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó. Trên thuyền không còn ai khác. Ban đêm, thuyền của lão neo ở đâu không ai biết, nhưng sáng sớm thì thấy lù lù xuất hiện trên sông hoặc nơi bờ cát. Lão già đến và đi, một mình. Mỗi ngày xách cái túi nhỏ rời thuyền, thường là đi hái thuốc trên núi, ven rừng, bờ suối, có khi vào làng chữa bệnh cho bá tánh rồi ghé chợ mua vài thứ lĩnh kĩnh.
21/01/2015(Xem: 10080)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
16/01/2015(Xem: 3620)
Sau 30-4-75, tất cả giáo chức chúng tôi đều phải đi học tập chính trị trong suốt 3 tháng hè mà họ gọi nôm na là "bồi dưỡng nghiệp vụ". Một buổi chiều sau mấy ngày "bồi dưỡng", tôi đạp xe lang thang qua vùng Trương minh Giảng, tình cờ gặp Báu - một người học trò năm xưa, rất xưa, đang ngơ ngẩn đứng trước cửa nhà. Dừng xe đạp, tôi chào: - Báu hả? Phải em là Trương thị Báu không? Có nhớ ra cô không? Báu giương mắt nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại rồi nghiêng đầu lại nhìn...Em không nhớ nổi... Tôi đã thoáng thấy được một tâm thần bất thường qua thần sắc cũng như qua đôi mắt trống rỗng vô hồn!
16/01/2015(Xem: 4819)
Năm 1954 ông Thiện khăn gói đùm đề đưa mẹ, vợ và hai đứa con gái xuống con tàu há mồm vào Nam.Trên bờ, Thụ, người em trai của ông còn đưa tay vẫy vẫy. Đêm hôm qua, ông và người em trai bàn rất nhiều về chuyến ra đi này.Người em nói: - Đất nước đã hòa bình, độc lập, anh nên ở lại, dù gì cũng là nơi chôn nhau cắt rốn.Vào Nam xứ lạ quê người, chân ướt chân ráo trăm bề khổ sở... Ông Thiện đã trả lời em:
15/01/2015(Xem: 5049)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui. Hôm nay là sinh nhật của thằng Alexander con một của anh chị.
14/01/2015(Xem: 7507)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
09/01/2015(Xem: 4217)
Tháng 10 năm 1962, TT Chủ Tịch Ủy Ban Liên Phái… nhờ Tôi đi công tác Vũng Tàu, Tôi đi chuyến xe đò lúc 8g30 sáng, xe chạy vừa khỏi hãng xi-man Hà Tiên, thì có 3 người đón xe. Anh tài xế nói với tôi : “Thầy vui lòng xuống hàng ghế phía dưới để cho “mấy cha”ngồi, vui nghen Thầy”! Tôi lách mình qua khoản trống thì có 2 vị đưa tay đón và đở nhường chỗ ngồi còn nói lớn: “Ngộ ha, cha quí hơn Thầy “! Tôi sợ gây chuyện không vui, nên đưa tay và lắc đầu xin yên lặng. Vì đương thời bấy giờ bóng dáng của các áo đen có nhiều sát khí thế lực! Nhưng, Mộc dục tịnh, nhi phong bất đình 木欲淨而風不亭.Xe chạy êm ả, gió lùa mát rượi.
26/12/2014(Xem: 13442)
Phât tử Chơn Huy ở Hoa Kỳ về có đem theo tập tự truyện dày của Tỳ Kheo Yogavacara Rahula. Cô nói truyện rất hay, khuyên tôi đọc và nhờ tôi dịch ra Việt ngữ để phổ biến trong giới Phật tử Việt Nam. Câu chuyện rất lý thú, nói về đời của một chàng trai Mỹ đi từ chỗ lang bạt giang hồ đến thiền môn. Truyện tựa đề "ONE NIGHT'S SHELTER (From Home to Homelessness)--The Autobiography of an American Buddhist Monk". Tôi đọc đi rồi muốn đọc lại để thấu đáo chi tiết trung thực của một đoạn đời, đời Thầy Yogavacara Rahula. Nhưng thay vì đọc lại, tôi quyết định dịch vì biết rằng dịch thuật là phương pháp hay nhứt để hiểu tác giả một cách trọn vẹn. Vả lại, nếu dịch được ra tiếng Việt, nhiều Phật tử Việt Nam sẽ có cơ duyên chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Thầy Rahula hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]