Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 1

14/05/201320:12(Xem: 15132)
Phần 1

Kinh Bách Dụ

Phần 1

Thích Nữ Như Huyền

Nguồn: Thích Nữ Như Huyền

1. Người ngu ăn muối

Thuở xưa có một người ngu đến nhà bạn thăm, chủ nhà mời ở lại dùng bữa cơm đạm bạc. Chàng chê canh lạt không ngon. Chũ nhà bèn thêm một chút muối, chàng ăn cảm thấy ngon lành.

Chàng tự nghĩ:

- Canh ngon là nhờ muối thêm vào, dùng ít còn vậy, nếu dùng nhiều chắc chắn ngon đặc biệt.

Thế rồi, chàng xin chủ nhà một chén muối bỏ trong miệng nuốt hết! Vì chất muối mặn kinh hồn, chàng cảm thấy gần như sắp chết, bèn vội vàng móc họng cho mữa muối ra.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phàm người tu hành phải tiết chế sự ăn uống cho vừa phải, biết đủ muốn vừa, thì đối với thân thể và sự tu hành đều có ích lợi. Nhưng có bọn ngoại đạo sai lạc tuyên truyền, uốn cong thành ngay quá mức, để xướng lên thuyết không cần ăn uống, nhận cho là phương pháp có thể đắc đạo. Do dậy có người đoạn thực bẩy ngày, mười lăm ngày, kết quả là ảnh hưởng đến thân thể đói khát mà chết, và đối với công hạnh không có một điểm lợi ích; đó chỉ là hành động sai lầm.

Người hành pháp như thế cùng người ăn muối kia đều là cử động ngu xuẩn đáng chê cười cả.

2. Để dành sửa

Thuở xưa có một người dự định tháng sau đãi khách, cần có số nhiều sữa bò, do đó phải dự trù trước đến lúc ấy mới khỏi thiếu hụt.

Người kia tự nghĩ:

- Mỗi ngày mình nặn sữa để dành, cần phải có cái thùng cây rất lớn; xét kỹ ra sữa để trong thùng cây lâu ngày đễ hư hoại, chi bằng để trong vú bò, đến ngày đãi khách hãy nặn ra một thể, đã ít tốn công lại được sữa mới, chẳng phải đó là phương pháp tuyệt ư?

Thế rồi chàng dắt bò mẹ nhốt riêng, bò nghé nhốt riêng chổ khác, và không nặn sửa mỗi ngày.

Qua tháng sau đến ngày đải khách, chàng dắt bò mẹ ra nặn lấy sữa tươi đãi khách, nhưng dùng hết sức nặn mà một giọt cũng không có, làm cho khách dự tiệc không thể nín cười.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người muốn làm hành bố thí mà đợi đến khi nhiều tiền mới làm việc cứu giúp kẽ khốn cùng. Nghĩ thế rất lầm. Chúng ta phải nên tranh thủ thời gian kịp thời làm hạnh bố thí, chẳng vậy thì cùng với người ngu để dành sữa trong vú bò không khác.

3. Khoanh tay chịu đòn

Thuở xưa có một anh ngốc sói đầu; ngày nó có người thấy đầu anh không có tóc bèn dùng trái lê đánh lên, đầu anh bị đánh nhiều lần, máu ra lên láng.

Tuy bị đánh, anh ngốc vẫn đứng im lặng chịu đòn, không kháng cự, không trốn tránh.

Bây giờ có người thấy thế trong lòng bất nhẫn liền bảo anh rằng:

- Vì sao danh cứ đứng trơ ra mà chịu đánh? Nếu không đánh lại, thì nên tránh đi mới phải. Kìa xem, đầu anh đầy cả máu không sợ đau à?

Anh ngốc đáp rằng:

- Ôi! Người ngu nầy rất xấc láo, nó không hiểu gì cả. Vì thấy đầu ta không tóc, nó tưởng là viên đá xinh xắn mới tùy tiện dùng trái lê đánh lên, không biết đó là đầu ta. Nó đánh ta đến nổi máu ra lênh láng. Ông ơi! Đối với hạng người vô trí thức ấy, ta chẳng biết tính làm sao được.

Người kia nghe rồi rất giận, liền mắng trách anh ngốc rằng:

- Anh thật là đáng thương, người ta đánh đến nổi đầu bị thương, máu ra dường ấy, mà vẫn đứng chưn không lay động, như thế chẳng phải ngu si chứ là gì?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một số ít các vị Ty kheo, không thể chân thật giữ giới, tu định, học huệ, chỉ gõ ép oai nghi bên ngoài để mong được người cúng dường cung kính. Kết quả tự mình chịu khổ vô cùng.

Bậc tu hành thế nầy và người ngốc kia đều là hạng ngu si cả.

4. Giả chết dối chống

Thuở xưa có anh chàng cưới người vợ rất đẹp, nhưng tánh tình không được đứng đắn, chàng thương yêu vợ vô cùng; nhưng trái lại nàng chẳng yêu chàng, vì thế mà nàng có tình nhân khác, thường có ý muốn bỏ chồng để kết duyên với người nàng thích.

Thừa dịp chồng đi vắng, nàng tìm một bà già rồi kín đáo dặn rằng:

- Sau khi tôi đi khỏi nhà, xin bà tìm thay một cô gái khác để vào đây, chông tôi có trở về, bà cho chàng biết là tôi đã chết.

Ba già đã làm y như lời nàng dặn.

Khi trở về nhà, người chồng nghe thấy tin thật rất buồn rầu, đau đớn, kề bên thi hài khóc lóc rất lâu, rồi mới đem thi hài người con gái ấy hỏa táng, đem tro xương đựng trong cái đẩy, ngày đêm mang theo mình để kỹ niệm mảnh tình quá khứ.

Còn vợ chàng lúc ấy đã kết duyên cầm sắt với tình nhân.

Nhưng trải qua nhiều ngày, biết được tình nhân đã nhàm chán, phụ rẫy nàng, lòng nàng lại tưởng nhớ đến người chồng cũ, bèn vội vã trở về thưa với chàng rằng:

- Tôi là vợ chàng, nay đã trỡ về.

Người chồng bảo:

- Vợ tôi chết đã lâu! Cô là ai đến đây nói dối là vợ tôi để làm gì?

Mặc dù nàng biện bạch đôi ba phen, yêu cầu chàng thừa nhận, nhưng chàng quyết tin chắc vợ chàng đã chết, nên không nhận nàng là vợ.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đã bị thành kiến làm chũ rồi, thì rất khó cải dối. Như bọn ngoại dao nghe lời ngụy tà, tâm sanh mê hoặc, chấp trước cho là chân thật, vỉnh viển không thể hoàn cải hồi tâm, dù nghe giáo pháp chân chánh cũng không chịu tin tưởng thọ trì.

5. Khát không uống nước

Thuở xưa có một người đi đường rất khát nước, muốn tìm nước uống để giải khát. Xem thấy sương mù tận đằng xa, y tưởng là nước. Sau lại kiếm đông, tìm tây, gặp được giòng sông nước, trong leo lẻo, chảy thao thao không ngừng, anh chỉ đứng xem không chịu uống.

Có người thấy thế lấy làm quái lạ, hỏi rằng:

- Anh vì khát đi tìm nước để uống, hiện tại tìm được nước rồi, tại sao không uống?

Anh trả lời phi thường quái lạ:

- Nước nhiều như thế này, anh uống hết được không? Tự xét thấy, uống hết được tôi mới uống. Đã biết uống không sao hết được, nên tôi không uống, có thế thôi.

Ai nấy nghe xong đều chê cười anh.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có một ít người lý luận bướng bỉnh, chấp chặt cho kiến giải của mình, không gần được chân lý, cho là giới luật của Phật dạy rất rộng lớn, nghiêm ngặt một thời không thể toàn bộ thọ trì, bèn bỏ không thọ. Do đấy, họ cứ y nhiên trôi lẳn trong vòng sanh tử chịu khổ vô cùng, trọn đời không có hy vọng đắc đạo. Hành động như vậy thật đáng chê cười mà cũng đáng thương xót.

6. Giết con thành gánh

Thuở xưa, có người nuôi bảy đứa con, trong số ấy có một đứa chết, anh để thi hài trong nhà rồi tự mình và cả gia đình bỏ nhà đi nơi khác.

Người láng giềng thấy thế hỏi rằng:

- Sao anh không đem đức con đã chết của anh ra ngoài mai táng, lại bỏ nhà đem nhau đi ra ngoài? Hành vi như thế rất là dại dột.

Anh nghe xong, trả lời:

- Người chết phải đem ra ngoài mai táng, đúng hay sai chẳng cần, vậy có thể bảo cho tôi biết phải làm cách nào không? Than ôi! Chỉ có cách là giết thêm một đứa nửa, mới có thể thành gánh, gánh đi chôn.

Kết quả anh giết một đứa con nữa để cùng đứa con đã chết, rồi chất thành một gánh, gánh lên chôn trên núi cao.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Tỳ kheo phạm một điều giới luật, không chịu sám hối, ăn năn, trở lại muốn tìm cách che giấu sự thật, làm bộ như người trí giới thành tịnh tranh nghiêm.

Người khác thấy thế, vạch bày chỉ trích:

- Người xuất gia giữ giới phải như giữ gìn ngọc minh châu, tại sao đã tái phạm mà không chịu sám hối?

- Tỳ kheo ấy cứ ngang nhiên làm nhiều việc ác, phá giới để rồi sám hối một lúc cho tiện luôn. Tỳ kheo phá giới như thế cùng với người giết con thành gánh như kia đều là hạng ngu xuẩn vô trí cả.

7. Nhận người làm anh

Thuở xưa, có người nhà rất giàu, cử chỉ đứng đắn lại thông minh, vì thế kẻ xa người gần đều thán phục, ái mộ. Bấy giờ có một người đến nhận làm anh mình, thường thuờng qua lại thân thích phi thường. Chàng nẩy nhận người nhà giàu làm anh để chi thể? Mục đích chỉ vì muốn lợi dụng tiền bạc.

Sau đó, người nhà giàu kia sa sút khống cùng, vỡ nợ, chàng ta trở mặt lành đạm và nói thẳng với người nhà giàu kia rằng:

- Ngươi không phải là anh ta.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có bọn ngoại đạo lợi dụng và trộm cấp một bộ phận ngụ ngôn, phương pháp và nghi thức của Phật pháp, đem lãm giáo pháp cũa bọn họ thường dùng. Nhưng hoàn toàn không có thật tâm tinh tưởng, phụng trì, chỉ muốn ngăn che âm mưu tội ác của bọn họ, tuy thể giáo pháp của Phật không bao giờ bị bọn lừa đảo, lợi dụng.

8. Trộm áo nhà vua

Thuở xưa, có người nhà quê, lẻn vào kho áo của vua lấy trộm một bộ y phục, rồi lén chạy đến một phương xa.

Sau khi vụ mất trộm bị phát giác, nhà vua bèn phái nhiều binh lính đến các nơi tra tìm, cuối cùng bắt được tên ăn trộm đưa về tòa án. Khi bị thẩm vấn, y không thừa nhận y phục nầy là đã lấy trộm của vua, còn nói là di sản của tổ phụ lưu truyền lại. Vua mới bảo y lấy y phục ấy mặc thử.

Y không biết cách mặc, đem món đang mặc trên cánh tay mà mặc dưới chân, đem món đang mặc ngang lưng bụng mà mặc lên trên đầu.

Vua thấy thế phán rằng:

- Ngươi mặc lộn như vậy, chứng tỏ y phục đấy chẳng phải của tổ phụ ngươi lưu truyền. Huống nữa y phục nầy là của vua và các quan mặc, tổ phụ ngươi làm gì có thứ nầy?

Tên ăn trộm cứng họng, không thể trả lời được, đành phải cúi đầu thừa nhận.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo ăn trộm giáo nghĩa của Phật pháp làm của mình; nhưng vì không hiểu rõ chánh nghĩa Phật pháp; ăn trộm rồi để đó chứ không dùng được chuyện gì, chỉ được cái điên đảo tạp nhạp không thứ tự, lớp lang. Kết quả không khỏi bộc lộ bản chất của bọn họ.

9. Kẻ ngốc khen cha

Thuở xưa có một người hay khen ngợi đức hạnh của cha mình trước mặt nhiều người khác: Nào là cha anh lòng rất nhân từ, không bao giờ làm tổn hại ai cả, nào là cha anh không bao giờ cướp giựt, lừa gạt tài vật của ai, nào là đối đải với mọi người rất công bình chánh trực, không bao giờ nói dối mà lại hay giúp đở người trong khi nguy khốn v.v...

Lúc ấy có một người ngu thấy thế tự nghĩ: "Mình cũng nên khen cha mình một phen".

Nghĩ xong, anh bèn hỏi:

- Đức hạnh của cha tôi còn hơn đức hạnh phụ thân ông!

Người chung quanh bèn hỏi:

- Đức hạnh ông thân anh như thế nào?

Người ngu liền đáp:

- Cha tôi từ nhỏ tuyệt đường dâm dục, chẳng hề biết gì về việc ấy.

Ai nấy nghe cũng đều bật cười mà nói: Nếu quả thật cha anh từ nhỏ đoạn dục thì làm sao sanh được anh?

Nghe hỏi anh nọ đừ người ra chẳng biết phải trả lời làm sao.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Khen chỗ tốt của người cần phải phù hợp với thực tế. Nếu có bịa lời khen giả dối, chẳng những không hiệu quả gì, mà lại làm cho người khinh bỉ. Do đó trong năm giới của Phật Giáo cấm vọng ngữ là một.

10. Phú ông cất lầu

Thuở xưa có một người nhà giàu rất ngu si, không biết việc gì cả. Một hôm chàng đi đến nhà một phủ ông khác, đó là một nhà lầu ba tầng, xinh đẹp không đâu bằng, lòng chàng rất ham thích và tự nghĩ:

- Tiền của ta ít hơn người nầy, nhưng lẽ nào không cất được 1 trong 3 tầng ấy sao?

Đoạn chàng về nhà liền cho mời một nhà kiến trúc đến hỏi rằng:

- Ông có thể cất lầu ba tầng không?

Nhà kiến trúc đáp:

- Được, tôi đã làm nhiều nơi rồi.

Chàng nói:

- Tốt lắm, ông nên làm ngay cho tôi một tòa lầu ba tầng, giống như của bạn tôi.

Nhà kiến trúc đem công nhân khởi sự ban đất, đắp nền, xây đá, lên tường.

Cách ít hôm, anh chàng nhà giàu đến xem xét, không thấy tầng lầu thứ ba, bèn hỏi nhà kiến trúc:

- Hiện tại ông đang là gì đó?

Nhà kiến trúc trả lời:

- Tôi làm nhà lầu ba tầng cho ông đây.

Chàng lại hỏi:

- Tại sao cất tầng lầu ba mà lo xây tầng dưới, không chịu cất nơi tầng trên cho tôi?

Nhà kiến trúc trả lời:

- Phải cất từ tầng lên, không cất hai tầng dưới làm sao có thể cất được tầng thứ ba?

Không suy nghĩ kỹ, lập tức chàng ngăn răng:

- Không, không, tôi không cần làm hai tầng dưới, tôi chỉ muốn làm nơi tầng thứ ba thôi, ông nên làm cho tôi một tầng chót trên cho mau chóng.

Nhà kiến trúc nghe xong cười to, đôi ba phen giảng rõ cho chàng nghe, nhưng chàng quá cố chấp, kiên quyết yêu cầu nhà kiến trúc chỉ làm tầng thứ ba.

Nhà kiến trúc không có cách gì làm cho chàng hiểu rõ được, đành phải đình công việc cất nhà.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Đệ tử của Phật không chịu cung kính thừa sự tam bảo, thiết thật tu: "giới, định, huệ" nền tảng tam học khởi tu, chỉ giải đải, biếng nhác, tưởng lầm là không cần phải trải qua tam quả: Sơ quả Tụ Đà Hoàn, nhị quả Tu Đà Hàm, tam quả A Na Hàm, mà muốn lập tức chứng quả thứ tư là quả A La Hán, đệ tự ấy cùng với phủ ông muốn cất tầng thừ ba đều là hạng ngu si không tướng!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/07/2010(Xem: 10781)
Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, tất cả mọi hành động bằng thân, lời và ý đều xuất phát từ hai tiêu chuẩn đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và tha nhân. Đây là những đức tính rất cơ bản để phát triển về Giới-Định-Tuệ mà một người muốn thăng tiến về mặt tâm linh thì cần phải quan tâm và thực hiện một cách triệt để.
17/07/2010(Xem: 4883)
Đêm qua con nghe bài pháp “Vượt qua oan gia trái chủ”của thầy Thích Tâm Đại, cảm thấy bàng hoàng, sửng sốt, mồ hôi ướt lạnh. Hóa ra, trong quá khứ, con đã tạo vô lượng tội, gieo vô lượng oán thù, oan gia trái chủ.
25/06/2010(Xem: 5201)
Vì không biết sự vận hành nội tại nên hầu hết mọi người trên thế gian không ai nhận ra chính mình và cũng không đồng ý với chính mình. Có người nương vào thể chất như thân thể cao lớn, mạnh khỏe, sắc diện đẹp đẻ, sáng sủa thù thắng …và cho đó là ta. Có vị lấy tri thức như bằng cấp học vị là mình như tiến sĩ, bác sĩ hay kỹ sư v.v. Có vị lấy danh vọng chức tước như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng v.v.làm ta.
25/06/2010(Xem: 9994)
Cô Sue Dixon, một Phật tử người Úc, vướng phải căn bệnh hiểm nghèo, ung thư ngực, trong lúc dường như phải bó tay và hoàn toàn tuyệt vọng thì các Tăng sĩ Tây Tạng đã hướng dẫn phương pháp Thiền quán. Tuyệt vời thay, không lâu sau đó, cô bình phục và khỏe mạnh như xưa. Bài viết dưới đây, cô sẽ kể cho đọc giả biết quá trình loại bỏ bệnh ung thư như thế nào
02/06/2010(Xem: 3903)
Đó là ngày 26 Tháng 10 năm 1967. Tôi đang bay ngay trên bầu trời trung tâm Hà Nội đan chéo đầy hỏa tiễn trong phi vụ thứ 23 của mình, thì bị một hỏa tiễn Nga kích thước cỡ cột điện thoại bắn tung cánh phải chiếc Skyhawk ném bom tôi bay. Phi cơ bổ nhào từ cao độ khoảng 4,500 feet xuống đất, bị đảo ngược lại, gần như chúi thẳng đầu xuống đất. Tôi kéo cần bung dù thoát hiểm. Lực phóng làm tôi bị bất tỉnh vì tốc độ gió đâu khoảng 500 knot (chú thích người dịch: 926 km/giờ). Lúc đó tôi không nhận thức được, nhưng chân phải ngay quanh đầu gối và ba nơi trên cánh tay phải cùng cánh tay trái của tôi đã bị gãy. Tôi tỉnh lại ngay trước khi cánh dù của tôi rơi xuống một hồ nước ngay một góc của Hà Nội, một trong những hồ họ gọi là Hồ Tây. Mũ phi công và mặt nạ dưỡng khí của tôi đã bị thổi bay đâu mất. Tôi chạm mặt nước và bị chìm xuống đáy. Tôi nghĩ rằng hồ sâu khoảng 15 feet, cũng có thể 20. Tôi chòi chân phía dưới để nổi lên mặt nước. Lúc đó tôi không cảm thấy bất kỳ đau đớn nào. Tôi hít một
03/04/2010(Xem: 4063)
Đạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố. Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Đan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Định Huệ Minh Quang Phật ĐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy. Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hàn
21/02/2010(Xem: 6182)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]