Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lầm mà hóa hay

14/05/201317:43(Xem: 9870)
Lầm mà hóa hay
Chuyện Bình Thường


Lầm Mà Hóa Hay

Thích Chân Tính
Nguồn: Thích Chân Tính


Con đường từ thành phố về Hóc Môn chỉ khoảng hai chục cây số, quá gần đối với tôi trước đây thế mà hôm nay lại xa thăm thẳm. Mười năm về trước, cũng trên chiếc xe đạp này tôi đã vượt qua những chiếc xe đạp chạy cùng chiều với mình mà chẳng biết mệt nhọc là gì, trái lại càng thích thú hăng say thêm nữa. Nhìn những cô gái, những ông già đạp xe cà rì cà rề với dáng vẻ nặng nề tôi lấy làm quái lạ và cười thầm: Đạp xe gì mà như người đi bộ không khác! Vậy mà hôm nay, cũng trên chiếc xe đạp thuở ấy, cũng trên con đường mà tôi từng ngạo nghễ tự hào về thần tốc lực của mình, tôi lại đạp xe một cách nhọc mệt, hai chân nhức mỏi rã rời, xe thì nặng nề như có ai ghì lại, đường cứ thấy xa mãi ra. Càng mệt mỏi bao nhiêu tôi lại càng thấy thương những người mình coi khinh trước kia bấy nhiêu và càng thấm thía bài học nhân quả hơn nữa. Thấy những cô gái, những ông già lần lượt qua mặt mình, tôi chạm tự ái và cố dốc toàn bộ sức lực để vượt lên trên họ. Cố gắng được một lát thì đôi chân rã rời đạp hết nổi. Nhìn họ cứ xa dần, tôi tự an ủi: Ôi! Đi trước đi sau gì cũng đến nơi tội gì phải đạp nhanh cho mệt, cứ tà tà như vậy vừa khỏe lại vừa được ngắm cảnh nữa có phải thích hơn không?

Tuy vậy, trong cái rủi lại có cái may, nhờ đạp xe chậm chạp mà hôm nay tôi mới khám phá ra chân lý nhìn cảnh vật đúng “như thật” của nó. Mặc dù hiện tại ngoài những căn nhà mới xây, những hàng cây xanh tươi mới trồng, những công trình mới đang được xây dựng ra, còn lại toàn bộ những cảnh vật dọc theo hai bên lộ quá quen thuộc và tồn tại hàng chục năm nay, vậy mà bây giờ nhìn nó tôi cứ ngỡ là mới gặp lần đầu. Quả thật các Tổ ngày xưa vẫn cho mình là sống trong ảo tưởng chứ ít chịu sống thực là quá đúng. Ăn không biết mình ăn, đi trên con đường này hằng bao nhiêu chục lần rồi mà cứ tưởng như là chưa bao giờ đi. Tâm đắc ý này, tôi say sưa quan sát cảnh vật, lòng cảm thấy vui vui với những điều mình mới khám phá. Nhìn những thay đổi và phát triển của xã hội dọc theo suốt con đường, tôi nghĩ đến chùa mình cũng sẽ sung túc như vậy.

Sau hơn một giờ đồng hồ tôi mới về đến chùa. Ngừng xe trước cổng tôi cảm thấy như trút được tất cả gánh nặng trên vai. Bao nhiêu ồn ào náo nhiệt của thành phố đã tạm lắng dịu tại đây. Đưa mắt quan sát sơ một vòng chùa tôi hơi ngạc nhiên khi thấy cảnh vật có vẻ khác thường; chung quanh chùa xây tường kín mít, những cây điều bị chặt nằm ngổn ngang, đồ đạc không thấy bày biện như trước, các chậu cảnh quý cũng biến đâu mất, không khí có vẻ u buồn. Tôi dắt xe vào nhà khách mà lòng đầy nghi vấn. Vài ba con chó nhào ra chào tôi bằng những tiếng sủa dữ dội. Bác Tửu từ trong nhà khách bước ra lên tiếng la nó khi nhìn thấy tôi và lũ chó dần im tiếng. Tôi dựng xe đạp và tiến đến hỏi thăm:

- Bác Tửu, lúc này bác khỏe chứ?

- Cám ơn, tôi vẫn khỏe, sao lâu quá không thấy thầy về thăm chùa vậy?

Ông mừng rỡ bước ra đón tôi.

- Dạ, lúc này bận học quá bác ạ! Sư Cụ có khỏe không bác?

- Khỏe. Thầy ngồi dùng nước nghỉ ngơi một tí rồi hãy vào thăm Cụ.

Ông rót nước ra mời.

Ngồi nói chuyện với ông một lát, tôi đứng dậy bước ra lu nước rửa mặt. Nhìn chiếc lu bị xây dính trên nền gạch, tôi ngạc nhiên:

- Ủa, xây như vậy làm sao xúc lu?

- Đành chịu như vậy thôi thầy ạ! Mỗi lần xúc lu mình chịu khó múc nước ra hết.

- Mà xây làm chi vậy bác?

Ông thở dài:

- Khổ lắm thầy ơi! Lâu nay thầy không về nên không biết tình hình ở đây đó thôi. Lúc này trộm cắp nổi lên như nấm.

Nghe ông nói tôi mới rõ tại sao chùa lại xây tường kín mít, các chậu kiểng quý và đồ đạc đem cất hết. Nhìn chiếc lu tôi cười nói:

- Nó có lấy thì lấy những thứ gì đáng tiền chứ ba cái đồ sành đồ đất này lấy làm chi, đã nặng nhọc lại bán được bao nhiêu tiền?

- Thôi thầy ơi! Thầy không biết đó, chẳng một thứ gì mà nó chừa cả. Từ những cái nhỏ nhặt bằng mủ như ly, chậu đến cái cánh cổng bằng sắt lớn như vậy mà nó còn rinh được.

Ông đưa tay chỉ một cánh cổng còn lại.

- Trời ơi! Cánh cổng này cầu năm người lực lưỡng chưa chắc đã khiêng nổi.

- Ờ, vậy mà tụi nó đã lấy hết một chiếc rồi đó. Bây giờ bất cứ cái gì bán được tiền là nó ăn cắp. Mới hôm qua nó vào tận nhà bếp rinh cả nồi kho đang nấu đem đi.

- Ban ngày hay ban đêm?

- Ban ngày.

- Chu choa, làm gì mà loạn dữ vậy! Thế chùa không đi báo công an biết à?

- Có chứ! Nhưng thỉnh thoảng họ mới đảo qua thì ăn thua gì.

Nhìn toàn bộ đất đai rộng mênh mông nơi đây, tôi thông cảm và hiểu những khó khăn của chính quyền địa phương.

- Không phải vậy đâu bác! Vì từ chùa đến trụ sở Công an xã quá xa. Nếu tính đường chim bay cũng hơn cả cây số, còn đường xe chạy thì ba cây số. Do vậy mình không thể đòi hỏi họ phải túc trực canh gác tại đây được, vì họ còn việc của họ nữa. Điều hay nhất là mình làm sao kết hợp với dân phòng để bảo vệ thôi.

Ông lắc đầu và cười:

- Dân phòng cũng chẳng ăn thua gì đâu thầy ơi! Hôm trước chùa có nhờ họ giúp đỡ, tối họ cũng xách gậy gộc đi đến đảo đảo vài vòng rồi tìm chỗ làm một giấc đến sáng bét mới về.

Tôi bào chữa:

- Mình cũng thông cảm cho họ thôi. Thời buổi khó khăn này ai cũng phải bươn chải kiếm tiền sinh sống. Quần quật cả ngày, đêm lại phải đi gác thì sức lực đâu mà họ thức cho nổi.

Một con chó màu hung hung nâu, to mập, bộ lông tươi nhuận rất đẹp đến bên chân tôi liếm liếm. Tôi cũng làm quen đưa tay vuốt vuốt đầu nó:

- Thế mấy con chó này đành bất lực trước tụi trộm cắp à?

- Chùa mình rộng quá. Chó ở đầu này thì trộm lẻn vào đầu kia.

- Còn mấy cây điều kia sao chặt uổng vậy bác? Lúc này hạt điều đem đi xuất khẩu bán có giá lắm đó.

- Ấy, vì nó có giá nên tụi nó càng ăn cắp dữ. Cả ngày cả đêm hết tốp này đến tốp khác vào quấy phá la ngăn không nổi. Cuối cùng tôi phải chặt bỏ và chùa mới yên được thế này.

Tôi ngồi nói chuyện với ông một lát rồi lên chính điện lễ Phật. Sau đó vào thăm sư phụ.

Nhìn thầy vẫn hồng hào đẹp lão, tôi mừng thầm và đến bên ngài đảnh lễ. Thầy mỉm cười nhìn tôi, rồi bảo ngồi xuống đó.

- Bạch Sư Cụ vẫn khỏe chứ ạ?

Thầy tôi ngước mắt nhìn như hỏi lại. Biết tai thầy kém nên tôi nhắc lại câu ấy lớn hơn. Thầy tôi lắc đầu nói:

- Mệt!

- Sư Cụ vẫn ăn uống bình thường chứ?

Thầy tôi cũng không nghe rõ, tôi phải la tướng lên lần nữa. Giọng thều thào thầy đáp:

- Khi được, khi không.

Nhìn thầy có vẻ mệt, tôi không dám hỏi nữa, ngồi quạt cho ngài.

Tối đến tôi vào phòng nghỉ. Thấy phòng khóa tôi biết ông Tửu giữ chìa nên đi tìm ông.

Sau khi mở cửa, một con chó lẻn vào phòng trước. Ông Tửu thấy vậy liền la lên:

- Ra ngoài!

Con chó nghe la, cúp đuôi rón rén đi ra. Tôi nhìn kỹ đúng là con chó vừa nãy liếm chân mình.

- Con chó này có tật lạ lắm, hay chui vào phòng nằm. Mỗi lần cho nó ăn tôi phải tìm kiếm hết phòng này đến phòng khác.

- Thế tới giờ ăn nó không ra à?

- Không, nó đã vào phòng ai rồi là kiếm chỗ nằm trốn suốt ngày khỏi ăn cũng được.

Ông nói xong liền đi ra ngoài. Tôi vào phòng quét dọn.

¯
Trời tháng hai âm lịch thật oi ả. Tôi lên giường từ lúc mười giờ và đã nằm hơn một tiếng đồng hồ nhưng vẫn không chợp mắt được, tay cứ phe phẩy chiếc quạt mãi. Đã vậy nằm trên chiếc giường sắt được lót bởi hai tấm ván, mỗi lần tôi trở mình nó đều kêu ken két đến phát bực. Không chịu nổi sự oi bức, tôi định bỏ bớt quần áo ngoài ra ngủ cho thoáng mát, nhưng chợt nhớ đến bài kệ trong “Nghi luật tu trì thiết yếu” do Thầy tôi soạn cho chúng tôi học.

Dù trời nóng nực đến đâu
Cởi trần nằm ngủ ra mầu chẳng trinh
Trong luật ngăn cấm cho mình
Giữ gìn ngăn nắp, vô tình người chê.

Chà, kẹt ghê vậy đó! Nghĩ tới bài kệ này tôi chần chừ không dám hành động, nhưng vì trời nóng nực quá. Cuối cùng tôi đành phải ngụy biện: Thôi kệ, tất cả đều là phương tiện. Giới luật này áp dụng trong những trường hợp ngủ nơi công cộng hoặc chỗ tập thể. Hiện tại một mình một phòng, cửa đóng kín mít như vậy ai mà trông thấy. Giả dụ có người nào gõ cửa gọi thì mình cũng dư thời giờ để mặc quần áo mà! Thế là tôi quyết định mặc quần ngắn nằm ngủ. Tôi cũng không quên xếp bộ quần áo ngoài lại cẩn thận để nơi cuối giường. Quả thật, phương pháp này có hiệu nghiệm, chỉ vài phút sau tôi đã thiếp đi một cách dễ dàng...

Một giờ sau.........

- Kình, kình, kình .........

Đang thiu thiu ngủ tôi chợt nghe tiếng cậy cửa và giật mình thức giấc. Để xác minh thực hư thế nào, tôi nằm im lắng tai nghe:

- Kình, kình, kình .........

Đúng là trộm cậy cửa rồi! Nhưng sao nó lại bạo gan hành động như là không có ai trong phòng vậy? À, có lẽ nó đã do thám kỹ và biết lâu nay mình đi vắng nên mới lẻn vào cậy cửa đây. Tôi định nhào ra mở cửa tóm cổ nó, nhưng sực nhớ đến mình chỉ mặc có mỗi chiếc quần ngắn mà thôi. Nếu nhào ra thì phải la lớn để mọi người thức dậy tiếp sức với mình bắt trộm, mà thân mình thì lại trơ trọi với một bộ xương sống xương sườn nhô ra như vậy, lỡ bà con nhìn thấy thì còn gì là thẩm mỹ nữa! Thôi đành phải mặc quần áo ngoài vào rồi ra cũng còn kịp chán. Tôi nhè nhẹ ngồi dậy nhưng cái giường này bỗng kêu “két” một tiếng. Lúc đó bên ngoài cũng ngưng tiếng cậy cửa và tiếp theo là tiếng “rầm” vang lên. Biết trộm phát hiện ra mình trong phòng nên đã bỏ chạy, tôi mặc vội quần áo vào, nhảy xuống giường, nhào ra mở cửa và la lên:

- Ăn trộm! Ăn trộm!

Tôi vừa la vừa chạy đến chỗ công tắc bật đèn. Bên ngoài nhà khách, ông Tửu nghe tiếng tôi la liền đánh kẻng báo động. Tôi chạy tới chạy lui tìm kiếm và tin chắc nó còn nấp đâu đó, vì vách tường chung quanh cao gần hai thước không dễ gì tẩu thoát lẹ được. Mọi người trong chùa đều thức dậy và kéo ra. Tiếng kẻng báo động vẫn đánh liên hồi. Một phút sau tôi nghe tiếng người la ở phía ngoài:

- Trộm vào chùa bà con ơi! Bắt nó! Bắt nó!

Không mấy chốc, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, mỗi người một chiếc gậy kéo vào đầy cả chùa. Họ chia nhau đi tìm.

Năm phút sau, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy có ba anh công an và một anh tổ trưởng an ninh xuất hiện. Họ hỏi thăm lý do và tôi đã thuật lại đầu đuôi sự việc trộm cậy cửa khi nãy. Thế rồi họ cũng tham gia tìm kiếm giúp.

Lục soát gần nửa giờ mà không thấy trộm đâu, mọi người dần tan. Nơi nhà khách mấy anh công an vẫn còn ngồi nói chuyện với bác Tửu.

Tôi trở về phòng và lên giường nằm. Nghĩ đến sự việc vừa xảy ra, tôi nhủ thầm: Phải chi mình đừng coi thường giới luật thì hay biết mấy!

¯
Nửa tháng sau, tôi trở về thăm chùa. Vừa đến nhà khách, ông Tửu gặp tôi mừng rỡ khoe:

- Chùa lúc này tạm yên rồi thầy ạ!

- Vậy hả bác?

- Ờ, nhờ thầy đó.

Tôi mỉm cười. Thấy tôi không tin, ông khẳng định:

- Thật mà! Thầy còn nhớ mấy anh công an không?

- Công an nào?

- Cái đêm mà xảy ra vụ trộm cậy cửa đó.

- À, nhớ rồi!

- Thầy có biết tại sao họ lại có mặt đúng lúc không?

Tôi lắc đầu.

- Thực ra đêm hôm ấy họ đi kiểm tra hộ khẩu những nhà dân gần đó và nghe tiếng kẻng báo động của chùa nên kéo nhau vào. May sao trong ba anh công an đó có một anh là công an huyện. Chứng kiến sự việc và lại được nghe tôi trình bày về tình hình trộm cắp lộng hành ở đây, anh công an huyện hứa là sẽ có biện pháp khắc phục. Vài hôm sau họ cho người đến chùa theo dõi thường xuyên và chỉ hơn một tuần là họ hốt sạch tụi trộm cắp. Từ đó tới nay chùa không còn bị quấy phá và mất cắp gì cả.

- Ồ, vậy thì hay quá!

- Nè, hôm nay tôi mới nói thật cho thầy biết, đêm đó không phải trộm cậy cửa đâu. Chính là con chó mà thầy khen đẹp cậy cửa đó.

- Không, tôi nghe rõ người cậy cửa mà.

Tôi liền thuật lại cặn kẽ sự việc đêm đó cho ông nghe, ông mỉm cười nói:

- Chó tôi nuôi mà tôi không biết tính nó hay sao. Thầy cứ ngủ ở đây vài đêm sẽ rõ.

Tôi trầm ngâm một lát thấy có lý rồi gật gù nói thầm:

- Kể ra lầm mà hóa hay!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/10/2014(Xem: 4793)
Hai kẻ thù đã lâu đời, hai chàng trai trẻ nhất thuộc hai dòng tộc võ sĩ đạo lâm chiến, đang rình rập nhau trong vùng hẻm núi dưới mé sông trong lúc bà con dòng họ đôi bên đang chém giết lẫn nhau trên phía đồng bằng. Mối hận thù nẩy sinh giữa hai chàng sâu đậm đến độ như muốn lộn mửa, và khi trông thấy nhau, mỗi chàng đều nguyện cầu: “Lạy Trời nếu con phải chết, xin cho con gây ra tử thương cho kẻ oán thù trước khi con lìa đời.”
18/10/2014(Xem: 43906)
Uống trà là một nét đẹp văn hóa truyền thống của Á Đông theo phương châm“Bình minh nhất trản trà". Cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết đến trà như một loại nước uống mang lại sự sảng khoái, thanh khiết cho tinh thần, là cách để khai tâm mở trí. Người ta xem chén trà là đầu câu chuyện, là gợi mở tâm linh, là giao thoa văn hóa và kết nối lòng người.
10/10/2014(Xem: 4485)
Từ lâu, người ta tin rằng có một cái “bản ngã” thường hằng, bất biến, tồn tại độc lập trong vạn pháp. Trước sự nhầm lẫn tai hại đó, Phật Thích Ca bèn nói thuyết “Vô ngã” để chúng sinh phá chấp. “Vô ngã” không phải không có gì hết mà là không có tự tánh, không có tự thể riêng biệt. Đây là một trong ba Pháp ấn trong hệ thống giáo lý của Phật giáo (hai pháp ấn kia là Khổ và Vô thường). Gọi là Pháp ấn có nghĩa là trong tám mươi bốn ngàn pháp môn của đạo Phật nếu có pháp môn nào không có một trong ba khái niệm Khổ, Vô thường và Vô ngã thì không phải giáo lý đạo Phật.
03/10/2014(Xem: 4410)
Học sinh thường cho rằng, các thầy cô chỉ nhớ tên học sinh giỏi, học sinh đẹp hoặc hoạt động hiệu đoàn... Cho nên mỗi lần nếu tôi gặp lại một em học sinh không có gì xuất sắc ngày xưa mà tôi còn nhớ tên, thì đó là một niềm vui to lớn của em là được thầy cô còn nhớ mặt và nhớ tên của mình. Sau khi cuộc chiến lan tràn trên quê hương thầy trò phân tán, tôi đi cùng nam cực bắc, đi xa nửa trái địa cầu, rải rác khắp nơi, tôi vẫn gặp lại những em học sinh Đồng Khánh cũ. Và nhờ cố gắng nhớ mặt, nhớ tên các em, nên hầu như ở đâu tôi cũng gieo được chút niềm vui cho những người đang phập phồng chờ được gọi đích danh sau một câu mở đầu công thức: „Cô còn nhớ em không?“. Những con người ấy, những học sinh Đồng Khánh tha phương - xa trường, xa thầy bạn cũ đã xưa rất xưa, mà chính bản thân khi soi gương cũng không còn bắt được hình bóng mình ngày ấy..., bất giác còn được gọi tên, còn được nhớ, còn được nhắc nhở đến bao kỷ niệm của một thời. Ôi! Vui biết bao nhiêu, ấm áp ngọt ngào biết bao nhiêu
02/10/2014(Xem: 4327)
Ra đến bến xe trời hãy còn khuya khoắt, trông cảnh nhộn nhịp ì xèo rộn lên từ những gian hàng ăn uống ở một góc gần bên, và tiếng nói cười lăng xăng của hành khách đi lại lẫn với tiếng những người bán hàng rong mời mọc. Nhìn sang quầy bán vé bây giờ không giống như những ngày tháng sau năm 1975, bề mặt thoáng mát rộng rãi trang trí bởi những bảng quảng cáo, những hoa văn sắc màu, những hàng ghế để khách ngồi chờ trông lịch sự. Khách mua vé rất nhanh khỏe hơn xưa, không còn cảnh chen lấn xếp hàng cả buổi trời như trước đây, lại có thêm nhiều loại xe phục vụ trên các tuyến, việc nầy còn tùy thuộc vào túi tiền của hành khách, ai có tiền nhiều thì đi loại xe chất lượng cao, còn ai ít tiền thì đi loại xe bình dân hơn. Nói vậy chứ còn khá hơn trước Đây, bởi ba chiếc xe car cũ kỹ hoặc xe chạy bằng than đá trên những tuyến Miền Đông, Miền Tây vào những năm 1975 - 1990.
24/09/2014(Xem: 6456)
Xưa có một người quyết tâm học đạo, theo một vị thiền sư sống trong một cái cốc nhỏ, sống đạm bạc, quyết chí tu hành. Một này kia, có công việc, vị thiền sư phải đi xa, dặn đệ tử ở lại phải lo chăm chỉ tu hành, luôn luôn giữ lối sống đạm bạc và tâm hồn thanh tịnh. Người đệ tử này chỉ có một chiếc khố che thân. Đêm tới khi ngủ, máng khố trên vách, thường bị chuột chui ra cắn rách, phải xin bá tánh chút vải thừa thay khố nhiều lần.
03/09/2014(Xem: 4746)
Lúc đó tôi được 13 tuổi. Trước đó một năm gia đình tôi đã chuyển từ Bắc Florida đến miền Nam California. Tôi dễ hận thù khi vừa đến tuổi vị thành niên. Tôi rất nóng nảy và hay cãi lại đối với bất cứ chuyện gì dù nhỏ mà ba mẹ đề cập tới, đặc biệt là nếu nó liên quan đến tôi. Cũng giống như nhiều đứa trẻ lứa tuổi thiếu niên, tôi khó chấp nhận bất cứ điều gì đi ngược lại với quan điểm của mình về thế giới chung quanh. Một đứa bé “thông minh không cần dạy bảo”. Tôi phản đối bất cứ biểu lộ nào của tình thương. Thật sự, tôi dễ giận dữ khi đề cập đến cái từ “thương yêu”.
26/08/2014(Xem: 4168)
Ở ven bờ bể Mễ Tây Cơ, có một làng nhỏ chuyên sống nghề đánh cá, một chiếc thuyền con lướt sóng nhẹ vào bờ, đem về vài con cá khá to. Một ông khách Mỹ đứng trên bờ, khen ngợi nghề đánh cá tài giỏi của anh chàng Mễ Tây Cơ và hỏi anh ta mất bao nhiêu thì giờ mới được chừng đó cá. _ “ Không lâu lắm đâu !” anh Mễ Tây Cơ trả lời.
17/08/2014(Xem: 25587)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà. Đến tảng sáng, có hai vị tăng lạ mặt đến thăm, bảo cha ngài rằng: “Khuya nay ông vừa sinh quý tử, chúng tôi đến đây là để đặt tên cho cháu bé. Ông nên đặt trước là chữ Huệ, sau là chữ Năng.”
17/08/2014(Xem: 24429)
Nhân quả báo ứng là một tập truyện của Trung Quốc, có vẽ tranh minh họa rất sinh động. Tập truyện này trước do ngài Văn Xương Đế Quân đời nhà Tấn sưu tập những truyện nói về nhân quả và sự báo ứng qua nhiều triều đại ở Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]