Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Ðeo mắt kính

03/05/201311:13(Xem: 9203)
5. Ðeo mắt kính
Bằng Tất Cả Tấm Lòng


5. Đeo Mắt Kính

Thích Chân Tính
Nguồn: Thích Chân Tính

Nếu tôi không lầm, mắt kính được sáng chế ra nhằm mục đích giúp cho những người mà cặp mắt bị sự cố. Dần dần nó đã chuyển thành công cụ bảo vệ đôi mắt, rồi tiến đến tạo mốt cho gương mặt. Do vậy đã có bao nhiêu kiểu kính ra đời. Có những cặp tạo cho gương mặt thêm dễ thương, nhưng cũng không ít loại xem càng dị dạng. Nhìn một người đeo mắt kính, nếu không phải là cận thị, tôi đều nghĩ ngay anh hay chị đang làm duyên đây! Do đã có thành kiến như vậy nên việc đeo kính của tôi bây giờ chẳng dễ dàng chút nào.

Trong đợt hội diễn vòng sơ kết văn nghệ Phật giáo nghiệp dư, do Tổ công tác Văn hóa Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh tổ chức tại giảng đường chùa Xá Lợi, tôi phụ trách hướng dẫn nhóm Phật tử huyện Hóc Môn lên tham dự. Buổi chiều đi dự thì sáng hôm đó tôi bị đau mắt đỏ. Để khích lệ tinh thần các em Phật tử, mặc dù đau mắt tôi vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy có người cho mượn mắt kính đeo để tránh gió bụi khi đi đường, tôi vẫn thấy ngài ngại và cầm nó trong tay nhiều hơn là đeo! Sau buổi hội diễn trở về chùa mắt tôi bị sưng đỏ lên. Các Phật tử đổ lỗi tại tôi không đeo kính, đi ra phố nhiều, tiếp xúc với nữ giới v.v... Để mau khỏi bệnh, từ hôm đó tôi tập đeo kính trước công chúng. Tuy việc đeo kính là do đau mắt chứ không phải làm duyên như tôi vẫn thường quan niệm trước đây, nhưng khi gặp ai tôi cũng giới thiệu cho họ biết trước là mình bị đau mắt đỏ!

Do Phật sự, tôi đi lại từ thành phố về Hóc Môn bằng xe Honda rất thường xuyên. Lần nào về đến chùa, mắt tôi cũng “sản xuất” ra hai cục bụi ghèn! Có hôm, tôi bị những con vật li ti bay vào mắt làm cay xé, không thể mở mắt ra được, tôi phải dừng xe lại dụi mắt, đợi cho êm êm mới dám đi tiếp. Từ những sự thật trên khiến tôi phải xét lại quan niệm xấu về việc đeo kính của mình trước đây. Và khi nhận rõ sự lợi ích của nó rồi, tôi mong mình có được cặp kính để đeo.

Quả là Trời cao có mắt. Lòng mong ước đã được cảm ứng. Một hôm, mở gói quà nhân dịp lễ Vu Lan, tôi ngạc nhiên khi thấy cặp kính trong đó. Lòng thầm vui, tôi cứ ngắm nhìn nó mãi.

Mặc dù đã biết rõ lợi ích của mắt kính rồi, nhưng cái tư tưởng đeo kính để làm duyên chưa bị “loại khỏi vòng chiến” hoàn toàn, nên tuy có kính trong tay tôi vẫn coi như là không. Một hôm tôi đánh bạo đem ra xài thử khi đang trên đường đi từ thành phố về Hóc Môn, nhưng chẳng đơn giản chút nào. Tôi phải giấu nó vào trong túi xách đợi đi cách thật xa chùa mới lấy ra đeo và khi về gần đến nơi lại tháo ra cất vào túi. Nhất là trong lúc đi đường tôi cảm thấy mất tự nhiên về cặp kính nơi gương mặt của mình. Mọi lần, có khi nào tôi quan tâm đến người đi đường đâu? Thế mà hôm nay tôi thấy dường như ai ai cũng nhìn tôi đến là lạ. Chẳng may gặp người quen là tôi tháo vội kính ra và giấu ngay lập tức.

Nghĩ cũng lạ, có những cái không ai chê trách, chẳng giới luật nào ngăn cấm, vậy mà chỉ vì một chút lo ngại cỏn con đã làm mất đi sự tự tại trong hành động. Thú thật, cái câu “Tâm vô quái ngại, vô quái ngại, cố vô hữu khủng bố” trong Kinh Bát Nhã tôi đã thuộc làu hơn mười mấy năm rồi. Ấy thế, cho đến nay tôi vẫn đọc như két chứ chưa ứng dụng trọn vẹn câu kinh ấy trong cuộc sống thường nhật của mình. Do vậy việc đeo mắt kính của tôi chẳng biết sẽ còn bị “khủng bố” đến bao giờ?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3020)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20332)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3886)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8413)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7987)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9483)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4741)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4079)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]