Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổng Luận

02/05/201320:07(Xem: 9395)
Tổng Luận
Bàn Về Tư Tưởng Phật Học Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung


Tổng Luận

Thích Chơn Thiện
Nguồn: Thích Chơn Thiện


Nét văn hóa Phật giáo trong "Hiệp Khách Hành"

I - Khái quát

- Câu truyện là một chuỗi vận hành của nhân duyên:

Cẩu Tạp Chủng rời núi Hùng Nhĩ đi tìm mẹ - Gặp Huyền Thiết Lệnh và quái nhân Tạ Yên Khách - Gặp Đại bi lão nhân tặng pho tượng La hán là bí kíp nội công " La hán phục ma thần công " do các thần Tăng Thiếu Lâm sáng tạo - Theo Tạ Yên Khách đến sống ở Ma Thiên Lãnh, luyện nội công " La hán phục ma " - bị bắt về Trường Lạc Bang làm bang chủ. Truyện tiếp tục theo bước chân của Cẩu Tạp Chủng ghi lại các chuyện xẩy đến chung quanh chàng thiếu hiệp trên chốn giang hồ, và những diễn biến của tâm thức chàng như là hương hoa Phật giáo để lại trên một vùng văn hóa rộng: Núi Hùng Nhĩ, Ma Thiên Lãnh, Quan Đông, Lăng Tiêu, Hiệp Khách đảo. Đó là lộ trình tu tập để chuyển đổi tâm lý qua nhiều giai đoạn:

- Tu tập hạnh đức: chuyển đổi tâm lý vị kỷ thành vị tha, từ cấu uế đến thiện.

- Tu tập tâm đức: phát triển từ thiện tâm đến các tâm thiền định thuộc Sắc giới, Vô sắc giới, vượt qua các sầu, bi, khổ, ưu não.

- Tu tập tuệ đức: từ định tâm, hành thiền quán để vào Diệt thọ tưởng định phát sinh trí tuệ giải thoát thể nhập sự thật, dập tắt khổ đau.

Con đường chuyển đổi tâm lý cá nhân ấy là cơ sở để xây dựng văn hóa xã hội dưới hai hình thức:

- Hình thức tiêu cực: cá nhân sống lương thiện, không gây ra các rối ren cho tha nhân và xã hội.

- Hình thức tích cực: hành hiệp giúp đời.

II. Xây dựng Hạnh đức

Cẩu Tạp Chủng bẩm tính thuần lương, chân thật, vị tha và thông sáng, lớn lên trong môi trường văn hóa tự nhiên của núi rừng Khô Thảo Lãnh và Ma Thiên Lãnh, ở ngoài vòng tiêm nhiễm của thị phi, được mất, hơn thua, khen chê, dối gạt, hận thù, đố kỵ, ganh ghét, tâm lý phát triển theo hướng thiện lương.

Với các cá nhân khác trong xã hội, thì công phu huấn luyện phải kiểm soát, chế ngự được năm loại tâm lý vốn là tác nhân sinh ra các tâm lý bất thiện khác, là:

- Tâm lý trạo cử: tâm thiếu tập trung, không ổn định, dao động.
- Tâm lý hôn trầm: tâm lý mệt mỏi, thụ động, lười biếng.
- Tâm lý tham dục: ham muốn hưởng thụ sắc, thanh, hương vị, và xúc.
- Tâm lý sân hận: vội vã, nóng nảy, tức bực.
- Tâm lý nghi ngờ: tánh phân vân, mê mờ, chấp ngã, tà kiến.

III. Xây dựng Tâm đức

- Thời gian Cẩu Tạp Chủng tập luyện nội công theo các huyệt đạo, kinh mạch được chỉ dẫn trên 18 tượng đất là thời gian tu tập Tâm đức. Thành tựu bước luyện công nầy là thành tựu Tâm đức phát sinh các tâm lý khinh an, hỷ, lạc; rời khỏi các tham, ưu ở đời.

Đây là công phu Thiền chỉ (Samatha) của Thiền định Phật giáo.

- Thời gian Cẩu Tạp Chủng vận khí theo các đường kinh mạch trên 18 tượng gỗ là thời gian hành thiền quán (Vipassana), hay Chỉ, Quán song hành, dẫn đến kết quả tâm thanh tịnh và thấy biết đúng theo sự thật của sự vật hiện hữu. Kim Dung gọi kết quả này là thành tựu rực rỡ " La hán phục ma thần công ".

IV. Xây dựng Tuệ đức

- Công phu nầy hiện rõ từ thời điểm Cẩu Tạp Chủng biết rõ âm mưu của Bối Hải Thạch và các Hương chủ Trường Lạc Bang mà vẫn khởi đại từ tâm chấp nhận làm bang chủ bang Trường Lạc để đi vào hiểm nguy: dự hội yến Lạp Bát.

- Công phu Chỉ - Quán song hành trên đảo Hiệp Khách: Chú tâm tỉnh giác vào các đồ hình trên vách đá của 24 thạch động cho đến thời điểm giải ngộ bài cổ thi " Hiệp Khách Hành " là công phu xây dựng Tuệ đức.

Tại động 24, Cẩu Tạp Chủng nhiếp phục hoàn toàn các cảm thọ và các niệm tưởng - Nghĩa là hoàn toàn kiểm soát, chế ngự năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức - đi vào định cao nhất: Diệt Thọ Tưởng định. Trí tuệ giải thoát thấy rõ sự thật Duyên sinh, Vô ngã của con người và thế giới bừng tỏa từ định nầy.

V. Xây dựng các Tâm giải thoát

1. Tâm đại từ đại bi

- Bản tâm của Cẩu Tạp Chủng vốn đã thiểu dục vị tha. Các cảnh khổ hoạn trên giang hồ đã giúp chàng mở rộng từ tâm và bi tâm, không quản ngại gian khó, đi vào cứu giúp tha nhân như cứu Sử bà bà, A Tú, Bạch Vạn Kiếm, Đại bi lão nhân, Tứ đại bang chủ ở Quan Đông, Bạch Tự Tại, kiếm phái Tuyết Sơn, bang Trường Lạc, Thạch Trung Ngọc, và cả hai sứ giả "Thưởng thiện Phạt ác" tại Thiết Xoa Hội.

Tâm đại từ, đại bi có tác dụng mở lớn tâm thức hành giả để cảm nhận hạnh phúc thanh khiết vô bờ, vừa làm lắng dịu hận thù trong xã hội, tỏa sáng tình người, tỏa sáng nền văn hóa nhân bản.

2. Tâm không cố chấp (Không chấp thủ)

Cẩu Tạp Chủng sống hồn nhiên với thái độ tâm lý không thấy gì là ta, là của ta, dễ dàng chia xẻ với các người chung quanh mà không nệ hơn, thiệt. Chàng ngạc nhiên thấy các người khác hại nhau vì lợi lộc và quyền thế. Tâm không chấp thủ ấy là đối trọng của tâm lý vì ngã nhan nhản trên võ lâm, giang hồ.

Đây là điều đáng quan tâm của các nhà văn hóa thời đại mới.

3. Hiểu mình và hiểu thế giới

Câu hỏi mà Cẩu Tạp Chủng liên miệng hỏi " Ta là ai? " không chỉ liên hệ ý nghĩa "má má ta là ai? ", " gia gia ta là ai? ", ta là người đã lớn lên ở núi Hùng Nhĩ chăng? mà còn gợi lên ý nghĩa rằng: ta là thân thể vật lý ư? là tâm lý? sinh lý? tình cảm? tư duy - hiểu biết? hay ta làøbao gồm tất cả các thứ ấy? Có cái ta riêng lẻ để phục vụ không?
Đấy là các câu hỏi đeo đẳng mãi với con người cho đến thời điểm chứng nhập chân lý.

Kim Dung đã nhẹ nhàng hình dung ra câu trả lời là toàn bộ quá trình phát triển tâm lý của Cẩu Tạp Chủng, giữa khi các hàng cao thủ thì vướng vào tranh cãi chỉ một cái ta vật lý của chàng. Tác giả đã cho thấy sự sống không phải là các câu hỏi và trả lời về cái ta; mà là thực tại của mối tương quan nhân duyên không cùng tận đang giàn trải chung quanh ta. Chỉ có một sự thật rõ ràng nhất mà con người phải thường xuyên đối mặt là giải quyết các phiền não, khổ đau, và khát vọng hạnh phúc không khi nào vơi.

Theo giáo lý nhà Phật, con người hiện tượng là tập hợp không cách ly của năm nhóm:
- Thân thể vật lý, hay sắc uẩn (gồm cả thế giới vật lý);
- Các cảm thọ khổ, lạc, không khổ không lạc, hay thọ uẩn;
- Các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, hay tưởng uẩn;
- Các tư duy, tư niệm về sắc, thinh, hương, vị xúc, và pháp, hay hành uẩn;
- Các thấy biết, nhận thức đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, hay thức uẩn.

Cái gọi là Ta do năm nhóm trên tập hợp thành rõ ràng là liên hệ chặt chẽ với tha nhân, xã hội và môi sinh: tách khỏi tha nhân, xã hội và môi sinh thì cái ta không thể có mặt.

Trong tập hợp năm nhóm ấy có thể phát hiện trí tuệ giải thoát và tâm lý giải thoát mà Kim Dung tin tưởng, đã đưa đến sự giải ngộ qua 24 thạch động.

Thấy rõ sự thật ở tự thân, hay ở ngoại cảnh, đều cùng lúc thấy rõ sự thật của thế giới, bởi chân lý không thể có hai. Sau khi kinh nghiệm về sự thật vô ngã ấy, các hiệp khách vong ngã một cách tự nhiên, và hành hiệp một cách tự nhiên, bởi bằng con đường hành hiệp, các hiệp khách có nhiều nhân duyên để tiếp cận nguồn hạnh phúc không tên và không giới hạn. Nếu hành động khác đi, nghĩa là nuôi dưỡng tự ngã (cái ta) và dục vọng thì sẽ đẩy mình và người vào rối ren, khổ não như đã từng kinh nghiệm.

" Hiệp Khách Hành " đã gián tiếp giới thiệu với độc giả các cái ta lạc lõng, bi thương trải khắp toàn truyện, như:
- Cái ta tự cao tự đại thành cuồng của Bạch Tự Tại;
- Cái ta si tình của Mai Phương Cô, Đinh Bất Tứ;
- Cái ta ác loạn của Đinh Bất Tam;
- Cái ta phóng đãng của Thạch Trung Ngọc, Đinh Đang;
- Cái ta cố chấp của Tạ Yên Khách, Sử bà bà;
- Cái ta ước lệ hẹp hòi của Bạch Vạn Kiếm;
- Cái ta của giá trị văn hóa cổ xưa của bốn đại môn chủ ở Quan Đông;
- Cái ta trung chính của Thạch Thanh, Mẫn Nhu;
- Cái ta hiền hậu rất nhân thế của A Tú;
- Cái ta rất hào hiệp và có phần chấp thủ của Trương Tam, Lý Tứ;
- Cái ta vô dục, vô chấp, vị tha của Cẩu Tạp Chủng v.v... (đây là cái ta duy nhất của niềm tin của văn hóa trí tuệ và nhân ái)

4. Sống hạnh phúc:

- Sống là đi tìm hạnh phúc là sự hiển nhiên.

Người ta sinh ra không phải để khổ đau. Thế nên, giới thiệu các thái độ sống đem lại các cảm nhận hạnh phúc cho cá nhân và tập thể là sứ mệnh của văn hóa.

" Hiệp Khách Hành ", hầu như đặt niềm tin giáp mặt chân lý và hạnh phúc vào con đường thiền định và trí tuệ của Phật giáo - Nói của Phật giáo mà một cách nói; thật ra đó là con đường tâm thức của mọi người -. Con đường đó đã đươc phản ảnh ở Bồ tát Quán Thế Âm trong phẩm kinh Phổ Môn (Cách cửa vào sự thật của thế giới), Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, như đoạn kệ giới thiệu dưới đây:

Chân quán, thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán,
Bi quán cập từ quán,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.
Vô cấu thanh tịnh quang
Huệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Bi thể, giới lôi chấn,
Từ ý, diệu đại vân
Chú cam lồ pháp vũ
Diệt trừ phiền não diệm "

Dịch nghĩa:

Hãy nhìn thấy sự thật duyên sinh,
Vô ngã của các pháp,
Nhìn với trí huệ lớn,
Nhìn với tâm đại từ, đại bi
Hãy thường tư duy, niệm tưởng như vậy,
Ánh sáng vô cấu của tâm thức sẽ xuất hiện
Trí tuệ, như mặt trời, sẽ phá tan hôn ám
Xua tan các tai nạn
Chiếu sáng khắp thế gian.
Tâm bi như kéo về sấm chớp,
Tâm từ như mây lớn bủa ra
Cho xuống cơn mưa pháp thanh lương
Dập tắt lửa phiền não.

Cái nhìn đầy đủ sức mạnh của trí tuệ và từ bi ấy hệt như cái nhìn tập chú của Cẩu Tạp Chủng dán chặt vào 24 đồ hình và chữ nghĩa trên vách đá của 24 thạch động (chàng nhìn với tâm tuệ và tâm từ của chàng), tỏa sáng sự giải ngộ bí kíp mà Long, Mộc nhị vị đảo chúa đã phải chờ đợi suốt 40 năm, phải chăng?

- Hạnh phúc, phải chăng có mặt trong cái nhìn ấy, cái nhìn không dính mắc vào bất cứ gì ở đời, đã bùng vỡ trong tiếng la đầy niềm hoan lạc của Thạch Phá Thiên và Long Mộc đảo chúa vào thời điểm cuối của thạch động thứ 24:" Thật là tuyệt vời!" và " Quả thật là tuyệt vời! "? Cái nhìn tương tự kinh Kim Cương Bát Nhã diễn đạt: " Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm " (hãy khởi lên cái tâm lý không dính mắc).

Với tâm lý " không dinh mắc vào bất cứ gì " ấy, các hiệp khách dễ dàng đối mặt với các vô thường, hiểm nguy ở đời. Bấy giờ bốn mùa vẫn vận hành như từng vận hành, nhưng vắng bóng các ngã niệm, các sầu ưu. Bấy giờ, ở đó, là điểm hẹn của ba đại hiệp khách: Trương Tam, Lý Tứ và Thạch Phá Thiên tiếp nối gieo vãi các hạt giống tỉnh thức với thái độ của Châu Hợi, Hầu Doanh ngày trước:

" Việc xong rũ áo ra đi ;
Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm "
(" Sự liễu bất y khứ ;
Thâm tàng thân dữ danh ")




Viết xong ngày 25/9/2003
Chùa Tường Vân, Huế
Tỷ kheo Thích Chơn Thìện

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2017(Xem: 4369)
Hôm nay ngày 1.11 tôi viết bài này chỉ nhằm kể một câu chuyện thực tế lịch sử; vì đâu, nguyên nhân, tôi xin miễn đào sâu vì cũng không có đủ hiểu biết, thời gian và cũng không phải mục đích tôi muốn chia sẻ ở đây! Ba mẹ tôi đều sinh ra và lớn lên tại Huế, học xong tú tài ở trường Khải Định năm 1955 (tên lúc bấy giờ của trường Quốc Học Huế). Giai đoạn đó đất nước vừa chia đôi, TT Ngô Đình Diệm vừa chấp chính. Ông Diệm xuất thân từ gia đình quan lại, bản thân ông cũng từng đỗ đạt ra làm thượng thư như cha của ông là Ngô Đình Khả, anh là Ngô Đình Khôi, nên rất trọng bằng cấp, học vấn như lối suy nghĩ của tầng lớp trí thức nho học thời bấy giờ. Vì vậy ông Diệm rất ưu tiên cho ngành giáo dục, đặc biệt trong giai đoạn sau 1954 khi người Pháp rời khỏi VN, cần xây dựng một nền giáo dục bản xứ thay thế cho nền giáo dục thuộc địa của Pháp.
19/10/2017(Xem: 14122)
Truyện thơ: Hoàng Tử Khéo Nói và Con Thủy Quái, (thi hóa, phỏng dịch theo bản văn xuôi PRINCE GOODSPEAKER AND THE WATER DEMON của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson) , Ngày xưa có một ông vua Trị vì đất nước rất ư công bằng Cạnh bên hoàng hậu đoan trang Vua yêu, vua quý, chứa chan hương tình. Thế rồi hoàng hậu hạ sinh Một trai kháu khỉnh đẹp xinh vô cùng Nhà vua sung sướng vui mừng Nghĩ suy chọn lựa tìm đường đặt tên Mong cho con lúc lớn lên Vẻ vang ngôi vị, êm đềm tương lai Vua bèn đặt tên con trai Hoàng tử Khéo Nói, nhiều tài mai sau.
06/09/2017(Xem: 7436)
Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn
31/08/2017(Xem: 5080)
Vào một buổi tối mùa đông cách đây hơn 30 năm, tại thủ đô Washington của nước Mỹ, một quý bà không may đánh rơi chiếc cặp tài liệu trong bệnh viện. Chồng của quý bà là một thương nhân giàu có. Ông đã vội vã quay lại bệnh viện giữa đêm hôm để tìm kiếm, bởi vì trong chiếc cặp không chỉ là rất nhiều tiền mà còn có cả một tập tài liệu mang thông tin mật của thị trường tài chính. Vị thương nhân đang đảo mắt tìm kiếm thì thấy một đứa trẻ rách rưới đứng ở hành lang bệnh viện. Cô bé đứng dựa vào tường, người vẫn còn co rúm trong bộ quần áo mỏng manh. Và trên tay cô bé chính là chiếc cặp mà vợ ông đánh mất.
29/08/2017(Xem: 6805)
Khi tôi 26 tuổi, tôi hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. George có mái tóc đen, mắt xanh và cặp lông nheo dài tôi chưa bao giờ thấy ai có được như vậy. Cu cậu bắt đầu nói khi được chín tháng, đi được khi được mười tháng và có thể bay nhảy khi được hai tuổi. Cậu bé là niềm vui của tôi, và tôi yêu thương thằng bé hơn cả tình thương mà tôi có. Đứa Con Trai Hoàn Hảo, Sharon Drew Morgan, Quảng Tịnh dịch
21/08/2017(Xem: 4696)
Tại Sao Tôi Đi Tu ? Thích Từ Lực và Trần Mạnh Toàn, Thường ngày, cảm giác của người bị phong tỏa, rình rập và đe dọa từng giây từng phút khiến anh thấy như quên mất con người riêng của mình. Nỗi buồn, vui, rung động trước ngọn gió cuối năm như đã xa rời anh. Tiếng súng và trọng pháo vắng hẳn trong buổi chiều hưu chiến. Anh không nghĩ có thể tạm quên được sự nguy hiểm, báo động thường xuyên nhưng sự vắng lặng của chiều cuối năm khiến cho những xúc động trong lòng dậy lên như âm binh được điều động. Ngọn gió nơi chân đồi bỗng làm anh thấy gờn gợn đôi tay trần. Ngọn gió y hệt như lúc vi vu bên hàng chè trước nhà vào chiều ba mươi tết, lúc mà anh giúp mẹ đặt nồi bánh chưng lên bếp lửa. “Tết ni được no rồi.” Bấy giờ, anh chẳng để ý để hiểu hết câu nói của mẹ, vừa nói, đôi tay chai sạn vừa đẩy mấy gộc tre vào lòng bếp.
09/08/2017(Xem: 4289)
Tôi về ở trong appartement này đã hơn 20 năm, một khoảng thời gian dài đủ để chứng kiến bao cảnh tang thương biến đổi của cuộc đời. Bóng xế hoàng hôn ảm đạm dàn xuống chung cư này nhiều hơn là ánh sáng rực rỡ của những buổi bình minh... Những năm đầu khi tôi mới đến, vợ chồng ông Damhart ở tầng 1 là một cặp vợ chồng đã được nhiều người yêu mến về tính tình cởi mở, luôn luôn hòa nhã với mọi người. Bà rất siêng năng mẫu mực, làm việc nhà không biết mỏi mệt, lúc nào cũng mang sẵn một cái tablier trước ngực. Tôi có cảm tưởng như công việc nhà của Bà làm không bao giờ hết được. Và gặp ai cũng vui vẻ dừng lại, hỏi thăm đôi ba câu rồi mới chịu đi. Ông chồng lại rất vui tính với nụ cười hiền hòa thật dễ thương. Rồi dần dà, Bà bị đau, không còn nhớ gì, đi gõ cửa hết nhà này đến nhà khác, có khi quên cả lối về! Cuối cùng thì không còn đi được n
28/07/2017(Xem: 4446)
Sau những cơn nắng luộc da vào Hạ, trời Hà Nội có vẻ dịu hẳn, phố phừng dập dìu xe cộ. Căn nhà nằm sâu trong đoạn đường vừa khai phóng, đối diện với một cao ốc, tầng dưới là siêu thị đơn điệu vài mặt hàng không đủ cho khách vãng lai dán mắt nhìn. Căn nhà của cô Chung, trưởng đoàn từ thiện, là cứ điểm để nhóm Từ Tâm - Hiểu và Thương hàng năm vê đây làm nơi phát xuất chuyến lữ hành mãi tận vùng Tây Bắc, cận biên Việt-Trung. Gia Lâm là một huyện ngoại thành phía đông của thành phố Hà Nội, cách trung tâm thành phố 8 km. Đây là cửa ngõ để đi sang các tỉnh thành phía Đông như Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên...
04/07/2017(Xem: 10536)
Từ hai ba tháng qua, hầu như ngày nào tôi cũng dành thì giờ ôn lại các bài học của Bụt Thích Ca trong tập phim Buddha, do nhà sản xuất Modi đưa lên mạng Youtube từ năm 2016. Khi được bạn bè giới thiệu cuốn phim này, tôi coi mấy đoạn đầu, rồi nhảy cách tới đoạn Buddha thành đạo (tập 34), và coi tiếp sau đó tập 41 tả cảnh Buddha về thánh Ca Tỳ La Vệ thăm gia đình. Đoạn 41 này rất hay, đạo diễn và tài tử đều diễn tảđược tình cảm của Buddha và bà vợ mà ông rất thương yêu trước khi đi tu.
02/07/2017(Xem: 5866)
Tống Văn đời Đường được bổ nhiệm làm tri phủ Tô Châu. Là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực nhưng lại trọng Nho, khinh Thích. Khi về trấn nhậm Tô Châu nghe nói sự cụ Chùa Hàn Sơn là bậc tu hành đắc đạo nhưng không tin. Tống Văn lý luận rằng: Tụng kinh gõ mõ, lóc cóc leng keng ai làm chẳng được. Người tu hành không quyền thế, không binh lính trong tay, không hiền lành thì hung dữ với ai. Lại nữa, có tỏ ra hiền lành thì thập phương mới cúng kiếng chứ hung dữ thì chỉ có nước bỏ chùa đi ăn mày…cho nên tìm cách thử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]