Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 7

02/05/201311:59(Xem: 10859)
Phần 7
Ánh Đạo Vàng


Phần 7

Võ Đình Cường
Nguồn: Võ Đình Cường


Từng năm qua, từng năm qua, phong sương phủ dầy một lớp trên da người vương giả. Chiếc gậy của kẻ tầm đạo đã mòn một khúc trên đá sỏi đường rừng. Nghe ở đâu có một đấng tu hành đắc đạo là Ngài tìm tới. A-la-già, Ca-lan... đều biết mặt người xuất thế. Nhưng đến đâu, Ngài cũng thấy đạo của họ còn thấp kém, hẹp hòi, không đủ làm cho Ngài thoả mãn.

Sau cùng, không tìm đâu thấy cái đạo Giải thoát như ý Ngài muốn, Ngài nghĩ: “Cái đạo ấy có lẽ tự ta tìm thấy trong ta mà thôi”. Từ đấy Ngài không đi hỏi đạo đâu khác hơn là tự hỏi trí tuệ sáng suốt, tinh anh của Ngài.

Xứ Phật-đà-gia-da có một dải rừng gọi là Ưu-lâu tần-loa, cây cỏ sum suê, đường đi hiểm trở, đức Thích-ca đến đấy, đêm ngày nghiền ngẫm theo đạo vô thượng của Ngài, quên ăn, quên ngủ, lấy tuyết sương làm màn, cỏ hoa làm chiếu.

Mỗi ngày từ đứng bóng, Ngài bắt đầu tham thiền. Ngài ngồi xếp bằng tròn, mình thẳng, yên lặng như một tượng đá. Thỉnh thoảng, một con sóc nhảy lên vế Ngài, vài con chim nhỏ, đến đậu trên miệng bình bát để bên cạnh Ngài, chúi mỏ xuống mổ những hạt cơm Ngài để dành cho chúng. Ngài ngồi như thế, không quan tâm đến chung quanh, điềm nhiên, mặc cho gió nực luồn lách trong lá, những nhành cây rên răng rắc dưới ngọn nắng thiêu.

Rồi mặt trời dần lặn, đỏ rực một phía rừng; rồi đêm xuống, sao chong đèn bạc cho giấc ngủ được êm lành. Ngài vẫn ngồi yên, phân dần những mối manh rối beng của tư tưởng, giữa những hình ma bóng chết, giữa những vùng u tịch của đêm rừng mà thỉnh thoảng tiếng gầm thét của bọn ác thú, đang cấu xé nhau trong bóng tối làm tăng thêm hãi hùng ghê rợn.

Đến quá nửa đêm, Ngài mới đặt lưng xuống ngủ để rồi lại trỗi dậy trước ánh bình minh. Ngài đến ngồi bên sườn núi, nhìn xuống cảnh đời xa xa đang ngủ dưới chân Ngài, duỗi mình trên những cánh đồng bao la còn đắm chìm trong bóng tối. Thế rồi trời sáng dần... Từ chân mây xa đưa lại vài luồng gió mai phẩy nhẹ, như hơi thở của mặt trời sắp lên. Bóng sao mai mờ dần trong ánh sáng, vạn vật trỗi dậy với mặt trời hồng. Sắc màu tươi thắm lại. Tiếng chim vui hoà lẫn trong cành. Ngài chứng kiến mỗi buổi bình minh sự trở về của ánh sáng, và liên tưởng đến một buổi mai kia, khi ánh sáng của đạo Ngài cùng bừng chiếu với ánh mặt trời, thì ôi! Cuộc đời sẽ vui thêm biết mấy!

Tắm rửa xong, Ngài lần theo đường dê đi xuống núi khất thực. Bình bát mang bên mình, Ngài dừng bước trước mọi nhà với vẻ uy nghi của một người sắp sáng đạo. Các bà mẹ vội bảo con đem sữa bánh ra dâng. Ngài nhận lãnh lòng sốt sắng của mọi người với một nụ cười hiền trên môi, hay một lời cảm ơn rất êm dịu. Những cô thiếu nữ nhìn Ngài với những cặp mắt đen nháy, ngạc nhiên khi thấy người trai trong mộng hiển hiện ở hình Ngài. Lũ trẻ chạy nâng áo Ngài lên, đặt môi xuống đấy, tỏ hết lòng kính mến và sùng bái, như đối với một vị thần hộ mệnh.

Ngài sống từng năm như thế. Nhưng nhiều lúc say mê trong việc nhập định tham thiền, Ngài ngồi luôn từ trưa này cho đến trưa kia; khi sực nhớ đến bình bát thì chỉ thấy một bình không! Giờ khất thực đã qua, Ngài phải đi kiếm trái cây ăn qua loa cho đỡ đói. Lòng khao khát tìm cho mau ra ánh sáng, sự chuyện chú của tinh thần, những đêm quên ngủ, những ngày quên ăn, và nắng lửa, và gió băng, và bao nhiêu nhọc nhằn khác làm cho thân hình Ngài mỗi ngày mỗi tiều tuỵ sức lực mỗi ngày mỗi mòn yếu, những tướng tốt của Ngài lu mờ dần... Rồi một buổi trưa, Ngài nằm lịm trên mặt đất, mê man không còn biết gì nữa.

Một người chăn cừu đi qua, thấy Ngài nằm bất tỉnh trên vũng nắng vàng cháy, liền bẻ một nhánh cây che cho Ngài, rồi lấy sữa đựng trong bao da đổ vào miệng Ngài. Ngài tỉnh dậy, sắc mặt hồng hào, tươi thắm như xưa, những tướng tốt hiện rõ như trước. Người chăn cừu tưởng gặp thần núi, sụp xuống lạy, rồi đứng lùi lại rất xa. Ngài bảo đến gần, rót cho Ngài một chén sữa. Nhưng người đó vẫn đứng xa thưa lại:

– Kính lạy Ngài, tôi không thể đến gần Ngài vì tôi là một đứa Ba-li-a; sự gần gũi của tôi sẽ làm Ngài mất tinh khiết.

Đức Thích-ca dịu dàng bảo:

Tình thương và sự nhu cầu là những dây liên hiệp để đoàn kết mọi người. Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ như nhau, không có giai cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Mỗi người khi mới sanh ra không phải có sẵn dấu Ti-ca trên trán , không đeo sẵn dây chuyền trong cổ (những người thuộc dòng quý phái Ấn Độ đều có dấu ấn Ti-ca giữa hai chân mày và mang dây chuyền ở cổ). Trước toà án nhân quả, mỗi người đều phải trả đúng giá những nghiệp mình làm. Người hãy cho ta uống đi, không can gì mà sợ.

Người chăn cừu sung sướng đến bên Ngài, rót sữa vào chén, dâng Ngài uống.

Một buổi mai, một đoàn ca vũ đến làm lễ ở một đền nào, đi ngang qua rừng Ngài tu. Họ vui vẻ đổ xuống đồi, chạy loanh quanh theo con đường mòn đỏ sỏi. Những khăn quàng dài và rộng bay lui ra sau, chập chờn như những cánh bướm. Những chuỗi lục đạc đồng quấn trong chân thon, những chiếc vòng bạc đeo trong tay hồng, cùng nhau rung lên những tiếng đồng và tiếng bạc. Họ hát như sau:

“Lên cho chúng tôi một dây đàn đừng quá cao cũng đừng quá thấp, chúng tôi sẽ nhảy theo tiếng đàn và tim mọi người sẽ nhảy theo chân chúng tôi.

Dây đàn quá căng sẽ đứt và nhạc sẽ câm.
Dây đàn quá chùng nhạc sẽ không lên tiếng.
Lên cho chúng tôi một dây đàn đừng quá cao cũng đừng quá thấp!”

Tiếng hát vô tư của mấy nàng ca nhi không ngờ đã lọt vào tai Người tầm đạo. Ngài ngước đầu lên nhìn. Bóng dáng hoa hoè của họ thấp thoáng hiện giữa những khoảng cây thưa. Tiếng hát của họ mỗi lúc mỗi tan dần trong gió. Ngài mỉm cười, tự nhủ: “Không ngờ các người ấy cũng có được nhiều ý tưởng hay. Ừ, có lẽ trong việc tìm điệu nhạc cứu thế, ta đã lên quá cao dây đàn, không khéo nó sẽ đứt mất trong khi ta đang cần đến nó. Ta phải bồi bổ lại thân thể mới được.”

Ở bên bờ sông Ni-liên-thuyền gần khóm rừng Ngài tu có một làng lấy tên người điền chủ giàu nhất làng: Xờ-na-ni (Senani). Chàng ở đấy với vợ, nàng Tu-xà-đa (Soujata), hiền lành như bồ câu và đức hạnh như thánh nữ. Nàng sống những ngày êm ả bên cạnh chồng, nuôi một ước vọng tha thiết : có con trai.

Nàng đã nhiều lần khấn vái nữ thần Lúc-mích (Nữ thần thường phò hộ cho dân gian được giàu có, phồn vinh) và những đêm trăng, nàng thường đội một khay hoa quả đến bên tượng Lanh-gam (tượng đá hình tròn và dài, tượng trưng cho sự sanh sản) đi quanh chín vòng để cầu mong sanh được một đứa bé. Nàng nguyện sẽ đem dâng rất nhiều lễ vật, nếu điều mong ước của nàng được thực hiện. Nàng đã được như nguyện. Sau mấy tháng cầu xin, nàng thụ thai và sinh được một trai. Con nàng bây giờ đã được ba tuổi. Một hôm, nàng bế con, đội một khay hoa quả và một bình nê-hồ vào rừng tạ thần núi.

Nàng sai con thị tỳ Ra-đa (Radha) vào trước trong rừng, sửa soạn một nơi để làm lễ. Nhưng một chốc, Ra-đa chạy ra, hớn hở báo với nàng:

– Cô ơi! Thần núi hiện ra ở dưới gốc cây kia; Người đang ngồi xếp bằng, hai tay để trên hai vế, mặt phương phi lắm cô ạ. Thật phúc đức cho chúng ta lắm, vì mấy khi mà được Ngài hiện ra như thế.

Nàng Tu-xà-đa đi đến, kính cẩn và run rẩy sụp xuống lạy, úp mặt sát đất, khấn:

– Lạy Ngài cao cả đã ban phước cho chúng con, xin Ngài hãy nhận lễ mọn này tự tay con làm lấy với tất cả lòng thành kính và biết ơn của con.

Lạy xong, nàng đến đổ trên tay đứe Thích-ca một thứ nước hoa đựng trong bình thuỷ tinh và để bình bát đựng nê-hồ trước mặt Ngài. Đức Thích-ca lặng lẽ ngồi thọ trai, trong lúc người thiếu phụ, lòng tràn sung sướng, đứng hầu bên cạnh. Thọ trai xong, Ngài nghe trong mình tỉnh táo lạ thường. Sức lực trở lại trong Ngài; nguồn sống chạy rần rần trong huyết quản. Ngài cảm nghe như những đêm quên ngủ, những ngày quên ăn chỉ là một giấc mê mà bát nê-hồ đã đuổi tan trong chốc lát. Trí não Ngài trở nên sáng suốt như gương, nhẹ nhàng như có cánh, mạnh mẽ như Hy-mã-lạp-sơn.

Nàng Tu-xà-đa nâng đứa bé trên tay, nhỏ nhẹ thưa:

– Thưa Ngài, chẳng hay cái lễ mọn của con có làm vui lòng Ngài chăng?

Đức Thích-ca không trả lời thẳng câu của thiếu phụ, hỏi lại:

– Người đã cúng dường cho ta thứ gì mà ngon lành đến thế?

Người thiếu phụ, vẻ hân hoan lộ ra trong đôi mắt sáng, quỳ xuống bên Ngài kể lể:

– Hỡi Lượng cao cả đã ban ân cho con! Con lấy sữa của 25 con bò cái nuôi 12 con bò trắng, lấy sữa của 12 con bò này nuôi 6 con bò mập mạp nhất trong chuồng. Con lấy sữa những con bò này đổ vào bình bạc nấu với thứ gạo tốt nhất mà con đã chọn lựa rất công phu trong những thứ gạo tốt. Con lại cho thêm vào bình bạc những thứ lá thơm, hoa quý tự tay con hái lấy trong vườn. Ôi! Nhưng bao nhiêu lòng thành kính, bao nhiêu công phu của con, con biết không làm sao sánh được trong muôn một lượng cả của Ngài. Đây đứa bé, hòn ngọc, lẽ sống mà Ngài đã ban cho gia đình con!

Nàng duỗi hai cánh tay, đưa đứa bé ra phía trước. Ngài vén mảnh lưới hồng che trên mặt đứa bé, để bàn tay cứu thế trên trán nó và nói với người mẹ:

– Ta mong cho hạnh phúc của người và gia đình người được dài lâu. Ta mong cho gánh đời của con người sau này sẽ không đè nặng trên vai nó. Ta không phải là một vị thần nào cả. Ta chỉ là một người như mọi người khác. Xưa kia ta là một Thái tử. Bây giờ ta chỉ là một kẻ không nhà, ròng rã trong 6 năm trời đi tìm ánh đạo để soi sáng cho chúng sanh đang sống trong bóng tối mà họ không hay. Ta tin sẽ tìm ra ánh sáng ấy, vì nhiều lúc ta thấy nó thoáng hiện ra trước mắt ta. Nhưng ta không đón giữ nó lại được, có lẽ vì sức lực ta đã mòn mỏi. Hôm nay ta nhờ bát cháo sữa của người mà được mạnh khoẻ như xưa, công ơn ấy ta biết lấy gì đền đáp lại cho người?

Nàng Tu-xà-đa thoái thác:

– Ôi! Lòng con là một đoá hoa lan nhỏ bé, chỉ vài giọt sương mai là đã tươi thắm rồi. Con không mong ước tham cầu gì nữa. Đời con êm trôi giữa ánh sáng dịu dàng của gia đình: chồng con, mạnh mẽ như một cây đại thọ, con con, nụ cười tươi sáng như hoa xuân, con không còn ước mong gì khác. Con sống không đòi hỏi cũng không từ chối: thản nhiên nhận lấy mọi việc không may xảy đến cho con, không oán trách cũng không tránh trút. Nhưng bao giờ con cũng tin chắc rằng những điều xảy đến ngày mai sẽ tốt đẹp hơn ngày hôm nay, vì như con thường thấy, những việc ác gây hoạ, cũng như những việc thiện gây phúc. Một hạt lúa giống tốt sẽ mang một chuỗi hạt vàng. Luật sống của con chỉ tóm tắt trong hai điều này: bớt dục vọng và thêm tình thương.

Đức Thích-ca mỉm cười phán bảo:

– Người dạy những bài học rất đích đáng cho những bậc thầy của người. Sự hiểu biết của người không cần kinh sách. Người đi trúng đường không cần ai chỉ bảo như con bồ câu bay trúng hướng một cách tự nhiên. Nhưng trong nhân loại, đếm được mấy người hiểu và sống như thế? Và biết bao người cần phải có kẻ chỉ dẫn! Chính vì thế mà ta đi tìm đạo. Thôi người hãy về đi. Ta chúc người làm tròn phận sự làm mẹ và làm vợ. Còn ta, ta sẽ làm tròn phận sự của kẻ đi tìm phương giải thoát cho nhân loại.

Nàng Tu-xà-đa cáo từ Ngài, rồi nhẹ nhàng đi ra khỏi rừng.

Đức Thích-ca đứng dậy, đến tắm ở bên bờ sông Ni-liên-thuyền. Tắm xong, Ngài nghe trong mình khoan khoái lạ thường. Ngài bước từng bước chắc chắn đến phía cây bồ-đề, cây bồ-đề cao to nhất trong những cây rừng ở thế giới, có từng lớp mái lá xanh, từng nhành duỗi rộng, có những rễ phụ chôn xuống đất như những hàng cột lớn.

Cây bồ-đề mạnh mẽ và vững chắc mà thời gian không thể tàn phá, gió mưa chỉ làm tốt tươi thêm.

Đức Thích-ca đến đấy, và mọi vật cảm thấy trước một điềm lành, hội nhau mừng rỡ. Gió đưa ngào ngạt từng loạt hương sen mọc bên bờ sông Ni-liên-thuyền. Từng đàn bướm vàng bay; từng hồi, chim chuyền tin mừng cho nhau qua kẻ lá. Và Đấng-sắp-giải-thoát nghe vang lừng một điệu hát ở mấy từng không:

“Hỡi người con rất anh linh của vũ trụ, đấng vương giả, mà xa hoa không thể ràng buộc, muôn ngàn dục vọng không thể làm mù quáng! Ngài đã đem ý chí mạnh mẽ như thác đổ, vững chắc như núi đồi, để thắng vượt những nỗi ràng rịt của xác thịt và nhất là tình cảm. Ngài đã đem trí tuệ sáng như mặt trời để tìm con đường giải thoát. Ngài sắp đến đích!

Nhanh lên! Còn phải thắng trong một cuộc chiến đấu cuối cùng nữa, và công đức của Ngài sẽ trọn vẹn! Nhanh lên! Bóng tối từ muôn vạn đời của trời đất đang đợi Ngài rọi ánh sáng vào đấy!”

Đức Thích-ca đến ngồi kiết-già cạnh gốc bồ-đề tự bảo: “Dù máu ta có khô, xương ta có mục, ta cũng không rời khỏi chỗ này, nếu ta chưa tìm ra được Đạo.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/12/2015(Xem: 7076)
Mỗi chuyến đi đều có mỗi nhân duyên khác biệt. Chuyến đi Ai Lao lần nầy của ba huynh đệ: tôi, thầy Hạnh Giới và chú Hạnh Tuệ cũng có nhân duyên thật là đặc biệt. Thông thường chương trình của Thượng Tọa Phương Trượng được sắp đặt trước một năm, năm nay chúng tôi sang Úc với Thượng Toạ thời gian ba tháng, từ đầu tháng 10 đến đầu tháng 1 năm 2004. Chuyến đi nầy sẽ ghé Bồ đề Đạo tràng, vì thương quý thầy cô học tăng Việt nam, sinh viên trường Đại học Delhi, Thượng Toạ sang thăm Ấn độ mỗi năm một lần, để quý vị có cơ duyên được gần gũi, được nghe những lời huấn từ của Thượng Toạ và được tu tập bù lại phần lớn thời gian sống đời lưu học sinh, không chùa, phải ở ký túc xá sinh viên hoặc ở nhà trọ.
17/12/2015(Xem: 4744)
Ai cũng có những câu chuyện trong cuộc đời của mình. Có câu chuyện theo thời gian ta đã quên, nhưng cũng có câu chuyện làm cho ta nhớ mãi. Và khi ta kể ra, có người cho đó là vớ vẫn nhưng nó lại làm ta thay đổi cách nhìn, cách sống của mình. Câu chuyện cuộc đời của cậu bé Lucky đã trở thành một trong những câu chuyện huyền thoại của cuộc đời tôi. Vào một buổi sáng mùa đông lạnh giá, đó là ngày thứ 4, tôi ra mở cửa để đón chào ngày mới. Hôm nay ngày mới chào đón tôi bằng một chú mèo con mới sinh mà mẹ nó bỏ rơi trước cổng nhà đứa cháu. Dù đã được báo trước nhưng tôi không khỏi ngỡ ngàng trước hình dáng của một chú mèo sơ sinh. Người ướt sũng và tím tái. Chú được đựng trong một chiếc hộp giày và quấn trong một chiếc chăn. Tôi vội vàng đi lấy thêm những chiếc khăn khác để cuốn vào người cho bé.
17/12/2015(Xem: 14111)
Trong khu rừng kia có một con khỉ rất hạnh phúc. Nó tìm ăn những trái cây ngọt lịm khi đói và nằm nghỉ ngơi khi mệt. Một ngày, con khỉ đang lang thang bìa rừng thì thấy một ngôi nhà… Trong ngôi nhà nhỏ bé đó, nó thấy một cái bát to đựng toàn táo, những quả táo tuyệt đẹp. Con khỉ liền trộm lấy một quả và chạy thật nhanh trở lại khu rừng.
16/12/2015(Xem: 3604)
"Ta sẽ không khi nào quên được con đâu," ông lão nói lầm bầm. Mấy giọt nước mắt chảy xuống lăn trên đôi gò má đầy nếp nhăn của ông. "Ta già mất rồi. Ta nào còn có thể lo gì cho con được nữa!" Chú chó nghiêng đầu qua một bên và ngước mắt nhìn lên ông chủ. Chú chó khẽ sủa: "Gâu gâu! Gâu gâu!" Chú ngoe nguẩy cái đuôi, chú muốn biết xem ông chủ của chú đang tính làm chuyện gì đây. "Ta không thể lo được cho chính bản thân ta, làm sao mà ta còn lo chi nổi cho con nữa!" Ông lão ôm ngực lên cơn ho liên tục. Ông rút ra một chiếc khăn tay và đưa lên mũi hỷ thật mạnh. "Ta sắp phải tới xin ở trong nhà dưỡng lão mất rồi, đâu có thể đem con theo được. Con biết đó ở trong cái nhà người già này người ta có cho nuôi chó đâu!"
15/12/2015(Xem: 5396)
Một vị thiền sư và một trong những đệ tử ưu tú nhất phải trở về một thiền viện ở trong núi lúc đêm khuya đã trễ lại gặp một cơn bão mùa đông dữ dội nổi lên trên con đường hiểm hóc. Dừng lại thời sẽ chết giữa đồng hoang; tiếp tục đi thời có thể nguy hiểm đến mất mạng vì rơi xuống những bờ giốc trơn trợt. Chỉ có cách lần bước đi tới là nhờ những lằn chớp loé lên soi sáng con đường phía trước mặt. Hai người chậm chạp lê dần từng bước tới phía trước trong gió thét gầm và mưa quất xối xả.
12/12/2015(Xem: 4180)
Đi mãi rồi cũng phải đến, mặt trời đã lên cao làm người tôi muốn bốc hỏa. Khi xe chúng tôi luồn lách một cách khó khăn qua các ngõ hẻm chỉ vừa đủ chiều ngang một chiếc xe, thì mọi người đã quy tụ đầy đủ ngoài sân. Một thiếu sót kỹ thuật đáng kể trong buổi phát xe tại Ninh Bình. Chẳng là phái đoàn bận ra Đà Nẵng nên không nhận được danh sách người nhận xe, để viết sẵn bảng tên ở nhà. Đến nơi Sư Cô Như Giác mới giao cho tôi viết, làm sao viết kịp, nhờ các Thầy của Chùa viết hộ họ lại viết sai. Các bệnh nhân khuyết tật chờ lâu cũng mệt, người nhà họ thấy xe lăn để mời mọc, bèn bế họ lên ngồi tạm. Phát sinh ra cảnh "Râu ông nọ cắm cằm bà kia", thành xe tên người này, bảng cầm tên người khác. Họ cãi nhau chí chóe, đã lỡ ngồi lên xe rồi không ai muốn đổi nữa!
03/12/2015(Xem: 8829)
Báo chí thế giới hiện đang đồng loạt đưa tin về việc người sáng lập ra mạng xã hội Facebook - Mark Zuckerberg - tuyên bố sẽ hiến tặng 99% cổ phần Facebook để phục vụ cho các mục đích từ thiện. Tuyên bố này được đưa ra khi vào ngày thứ 3 vừa qua, Zuckerberg và vợ - cô Priscilla Chan đã đón con gái đầu lòng - Max. Tổng trị giá số cổ phần mà Zuckerberg dự kiến hiến tặng hiện có trị giá vào khoảng 45 tỉ đô la. Tất cả những điều này họ làm vì sự ra đời của cô con gái nhỏ - Max. Một lá thư xúc động đã được ông chủ Facebook đăng tải lên trang cá nhân với một tiêu đề giản dị: “Lá thư gửi tới cho con gái của chúng tôi”:
27/11/2015(Xem: 4540)
- Tên họ cháu là gì? - Tony Nguyễn. - Vậy cháu là người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American) ? - Không, tôi là người Mỹ (American). - Không có ai là người Mỹ “ròng” tại xứ Hoa Kỳ nầy cả. Chỉ có người Da Đỏ thường được xem là người Mỹ Nguyên Gốc (Native American) ở đây thôi. Nhưng thực ra họ cũng là người xứ khác đến đây sớm nhất mà thôi. Đây là đất nước hợp chủng nên mỗi dân tộc trước khi thành người công dân Mỹ đều có tên xứ gốc của mình đứng ở đằng trước như người Mỹ gốc Nhật, người Mỹ gốc Hoa, người Mỹ gốc châu Phi, người Mỹ gốc Anglo... - Tôi không cần biết chuyện của người khác. Tôi chỉ biết tôi là người Mỹ.
27/11/2015(Xem: 4699)
Một nữ công-nhân làm việc tại một xí-nghiệp chế-biến thịt đông lạnh. Một buổi chiều, khi đã hoàn-thành công-việc, như thường-lệ cô đi vào kho đông lạnh để kiểm-tra một chút. Đột-nhiên, cửa phòng lại bị đóng và khóa lại! Cô bị nhốt ở bên trong mà không một ai biết!!! Cô vừa hét khản cổ họng, vừa đập cửa với hy-vọng có người nghe được tiếng mình mà đến cứu! Nhưng vẫn không có ai nghe thấy!!! Lúc này, tất-cả công-nhân đã tan ca! Toàn bộ nhà máy đều yên-tĩnh!!! Sau 6 giờ chiều hôm ấy, công-nhân lạnh cóng người, tuyệt-vọng và đau-khổ! Đang lúc cô tưởng như không chịu đựng được nữa!!! Thì bất-ngờ được người bảo-vệ đến mở cửa cứu ra ngoài!!!
26/11/2015(Xem: 4586)
Tại thành phố Berlin thủ đô của nước Đức, có một ngôi chùa mang tên một ngọn núi thiêng, nơi Đức Phật ngày xưa hay thuyết Pháp, đó là chùa Linh Thứu. Vị trụ trì hiện nay mang một cái tên là Diệu Phước, nên các thiện nam tín nữ đổ xô về chùa lễ bái rất đông vì tin rằng chùa này rất “linh“ và cầu xin gì cũng được nhiều “phước“. Quả thật thế! Một số đại gia đến chùa làm công quả, lúc đầu chỉ có một nhà hàng cơ sở làm ăn, sau vài năm ôi thôi cửa tiệm mọc ra như nấm, tiền thu vào đếm không xuể. Thế là họ lại càng tin tưởng vào phước đức của ngôi chùa, từ đấy ngôi chùa Linh Thứu đã đi vào huyền thoại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]