Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thay lời Tựa

26/04/201312:56(Xem: 10023)
Thay lời Tựa
Sakya_Muni_2a

Ánh Đạo Vàng


Thay Lời Tựa

Võ Đình Cường


KÍNH bạch đức Thế Tôn! Như một đứa bé khát sữa được nút vú mẹ, như một kẻ bộ hành sắp bị cháy nắng trong sa mạc được hụp xuống giữa khe nước mát, con đã say sưa tìm lại dấu vết của đời Ngài qua các sách sử. Và từ bao năm tháng, con mân mê cái mộng cao xa là được ca ngợi đời Ngài trên mặt giấy.

Nhưng đời Ngài lộng lẫy thế kia, huyền diệu thế kia, nguy nga thế kia chỉ làm cho con ngây ngất say mê đứng nhìn, và càng nhìn con lại càng nhận thấy ý định của mình quá táo bạo trước nhiều nỗi khó khăn.

Từ ngày Ngài xuất hiện đến nay, trên hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua bao nhiêu lớp người trồi sụp, bãi bể nương dâu đã mấy lần thay đổi: những vết tích đã xoá nhoà trong trí nhớ của người đời, những nét chữ đã lu mờ trong sách sử. Di tích của Ngài tuy được giừ gìn trong các đền chùa tháp điện, cũng không khỏi lấm màu sắc thời gian. Tài liệu bị mất mát, sai lạc nhiều. Cho nên làm sống lại đời Ngài, thời đại xa xưa của Ngài, những tục lệ lễ nghi, cách ăn nói giống hệt thời ấy, là những việc không bao giờ con dám cả quyết. Lại thêm, mọi sử gia đều đứng về một phương diện khi viết đời Ngài. Tuy những điểm chính thì không ai có thể làm sai chạy, đổỉ thay đi được, nhưng những chi tiết thì mỗi người thấy mỗi cách, theo mỗi quan điểm của họ.

Bạch Thế Tôn, con đến quá chậm: Ngài nhập diệt lâu rồi, và mỗi người trưng bày mỗi cách hình ảnh của Ngài theo tầm mắt và sự hiểu biết của họ. Con lựa hình ảnh nào đây cho giống Ngài nhất? Theo nhà tâm lý chăng? Ôi! Nhiều "vì trạng thái tâm hồn... thế này thế kia; nhiều "vì hoàn cảnh thế này, thế khác" quá!. Theo nhà khảo cổ chăng?

– Ồ, khô khan! Tên người, tên xứ, tên núi, tên sông! "Cái bia ấy dựng lên từ lúc nào? Cây bồ-đề kia có lẽ mới trồng lại?"

Nhưng con cũng không muốn giới thiệu đời Ngài với một ngôn ngữ trừu tượng, với nhiều ẩn dụ, nhiều huyền thoại kỳ bí có thể làm độc giả có ấn tượng sai lạc về bản chất của Ngài. "Đất chuyển động ba lần khi Ngài xuất thế", "con rắn thần đến quấn quanh Ngài bảy vòng để bảo vệ Ngài trong trận bão tố lớn dưới gốc cây bồ-đề trước lúc Ngài thành đạo, v.v..." Như thế là nghĩa làm sao? Bị thôi miên bởi uy lực của danh từ, hình tướng, người ta khó tìm thấy được cái ý nghĩa thâm sâu ẩn giấu trong mỗi sự việc. Và do đó, có thể có một số độc giả tưởng rằng đức Phật là một thần linh từ trời cao rơi xuống, hay cho rằng đây là một "chuyện hoang đường" không có thật!

Vì sợ hai chữ hoang đường của độc giả, con để vào đây rất ít tượng trưng và kỳ bí–có rất nhiều trong các sách khác. Và như thế, nghĩa là đã giảm bớt rất nhiều linh diệu, cao thâm, lộng lẫy của đời Ngài. Con đã để đời Ngài ra ngoài vòng hào quang huyền diệu đáng lẽ phải bao phủ lấy Ngài. Và để lấp bớt cái khuyết điểm lớn lao ấy, con thế vào một chút văn chương, một chút nghệ thuật: ở đây một làn hương, ở kia một điệu nhạc, ở nơi khác một tia nắng nhạt hay một cánh bướm vàng...

Nhưng văn chương nghệ thuật dầu sao cũng có giới hạn của nó! Ngài là bậc Siêu phàm, hiện thân của Cao cả, của Thuần tuý, của Linh diệu. Con, một kẻ phàm tục, nương mình lên không khỏi đất, mắt loà trong bụi đỏ, làm sao thấy rõ được những cảnh tượng huyền vi? Lưỡi con ngắn quá, chỉ bập bẹ lại những pháp âm mà xưa Ngài đã phát ra từ ấn Độ và bây giờ còn vang dội mãi trên hoàn cầu; tay con vụng về thế này thì làm sao tung ra được những luồng ánh sáng? Bạch Thế Tôn, đời Ngài là một biển cả, mà múc nước con chỉ có hai bàn tay!

Cho nên mục đích của con khi viết quyển sách này rất ngắn ngủi. Không phải làm sống dậy cái xứ Ấn Độ 2500 năm trước: không phải diễn tả đúng theo từng ly, từng tí đời của Ngài; không làm việc của một nhà khảo cổ, hay nhà tâm lý học ; không phải đứng trong phạm vi hẹp hòi của một kẻ mê tín đầy thành kiến. Con chỉ là một kẻ thấy đời đẹp đẽ, cao thượng của Ngài mà sùng mộ, và muốn đem giới thiệu với mọi người đời Ngài mà mỗi ý tưởng là một ánh sáng chói ngời, mỗi lời nói là một bài học quý báu, mỗi cử chỉ là một ý nghĩa cao thâm. Nếu độc giả sau khi đã đọc xong quyển sách này, hay khi đứng trước tượng Ngài, cảm nhận được đấy là hình ảnh của lòng Từ bi rộng lớn, hiện thân của ý chí dũng mãnh, của Trí tuệ sáng suốt, thì con đã đạt được mục đích.

Hôm nay công việc đã xong xuôi, đốt nén hương tín thành, con đến quỳ trước điện Ngài, xin dâng quyển sách này lên Ngài chứng giám. Đây là tất cả trí óc của con. Để phô bày trong muôn một tâm hồn thâm diệu của Ngài, con đã đặt tất cả tâm hồn con vào đó. Con đã nhỏ những giọt nước mắt nóng trên trang giấy khi con tưởng tượng lại những giọt nước mắt của Ngài đã nhỏ trên vết thương của nhân loại: con đã vui sướng– dầu chỉ là một nỗi vui sướng thô kệch– theo với nỗi vui sướng tinh khiết của Ngài, khi Ngài tìm ra được ánh sáng dưới gốc bồ-đề...

Bạch Thế Tôn, vì bao nhiêu tâm huyết và lòng thành thực của con, xin Ngài hãy lượng xét mà xoá bỏ một ít những lỗi lầm và vụng dại mà con có thể mắc phải khi viết quyển sách này.

Kính dâng,
VÕ ĐÌNH CƯỜNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 3010)
Hằng Nga trong cung trăng: Theo sách của Hoài Nam Tử, Hậu Nghệ xin thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ uống trộm...
27/10/2010(Xem: 20295)
Mục đích của chúng tôi trong khi sưu tập những mẫu chuyện kể này là để mọi người thưởng thức những tinh hoa hay đẹp của giáo – lý qua những câu chuyện tươi sáng đẹp đẽ. Nếu công việc sưu tập ca – dao là một việc khó thì công việc sưu tập và trình bày những mẩu chuyện cổ của đạo Phật cũng là một việc khó khăn và đòi hỏi sự hợp lực của nhiều người. Hàng chục ngàn mẫu chuyện đạo, nào thuộc loại tiền thân, nào thuộc loại lịch sử, nào thuộc loại thí dụ, nào thuộc loại triết lý. . . những câu chuyện đó thật là phong phú và chứa đựng những tinh hoa của giáo - lý, từ - bi và trí tuệ. . . Ðọc những mẫu chuyện đạo ấy, không ai thấy chán nản cả. Các em thiếu nhi thích đã đành, người lớn chúng ta cũng vẫn thích và hơn thế nữa, lắm lúc cũng phải suy nghĩ nhiều để có thể hiểu được triết – lý của một câu chuyện. Chúng tôi sức lực không bao lăm thành thử trông mong rất nhiều ở các vị học giả thâm uyên và dày công nghiên cứu. Chúng tôi chỉ muốn làm công việc nói lên những nguyện vọng, và tr
22/10/2010(Xem: 3868)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng, có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời. Bà sống nhờ một thửa đất nhỏ trồng những hạt ngũ cốc. Vì cuộc đời đã trải qua nhiều gian truân từ nhỏ, bà lão cảm thấy nghiệp chướng trong người rất nặng nên đã cố công tìm hỏi những người chung quanh phương pháp chuộc tội để cầu xin cho tâm hồn được bình yên.
21/10/2010(Xem: 8394)
Bị xổng một lần trong khóa tu học kỳ 6 tại Bỉ, vì chọn ngày hè trật đường rầy (hãng tôi làm việc phải chọn hè từ đầu tháng 2); năm sau, tôi quyết tâm canh ngày giờ cho đúng để tham dự cho bằng được khóa tu học kỳ 7 tại Đan Mạch, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu tổ chức.
19/10/2010(Xem: 7966)
Khi xe chúng tôi đến nơi, đồng hồ chỉ đúng 12 giờ khuya. Phòng ốc dành cho 300 giường đã không còn chỗ trống. Ban Tổ Chức đành trưng dụng phòng họp, phòng học - một cho phái nữ, một cho phái nam - với các tấm nệm lót dưới đất cho chúng tôi ngủ tạm. Giải quyết một lúc cho phái đoàn Thụy Sĩ 30 người - chưa kể các nước khác - đâu phải dễ. Vả lại đi chùa thì phải chấp nhận "ăn chay nằm đất". Nằm "đất" còn phải chịu, lựa là nằm "nệm", nên chúng tôi vui vẻ nhận lời, không than van gì cả. Mà than van nỗi gì được khi đã hiểu giáo lý (dù chút chút) của đạo Phật. Mọi sự phải do "duyên" mà có. Và "duyên" này khởi từ "nhân" chiều nay.
17/10/2010(Xem: 9469)
Hơn 6 tiếng xe lửa từ Aschaffenburg, tôi trở về đến nhà gần 10 giới tối. Lục đục tắm rửa, ăn chén súp nóng (do chồng nấu cho) huyên thuyên kể chuyện, rồi đánh răng... mãi gần 12 giờ khuya tôi mới lên giường đi ngủ. Sáng sớm hôm sau 6 giờ thức dậy sửa soạn đi... cày. Công việc ứ đọng của 2 ngày thứ 5, thứ 6 (lấy hè, cộng với công việc của thứ 2 đầy ắp trên bàn. Tôi một mình chịu trách nhiệm một phòng không ai thay thế). Ông xếp trước khi về văn phòng còn đứng đó chờ đợi, vẻ lo âu. Tôi trấn an ông:
17/10/2010(Xem: 4733)
Tết Trung Thu ăn vào ngày rằm tháng 8. Nguyên cuối đời nhà Tây Hán (206 trước 23 sau D.L.), Vương Mãng nhân được cầm giữ chính quyền...
17/10/2010(Xem: 2921)
Một vị thương gia lập nghiệp từ tay trắng, sau kiếm được rất nhiều tiền nhưng vì buôn bán trong thời kinh tế không ổn định, khiến anh ta trở nên phá sản, nợ nần chồng chất. Nghĩ mãi không tìm ra cách giải quyết, anh ta bèn ra bờ sông tự tử. Vào lúc canh ba một đêm nọ, anh ta đến trước bờ sông, bỗng nhiên nhìn thấy một thiếu nữ đang ngồi khóc thảm thiết, anh bèn đến hỏi cô gái: - Có chuyện gì mà đêm hôm khuya khoắt cô ngồi khóc một mình ở đây?
16/10/2010(Xem: 4075)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Vốn là vùng rừng núi bạc ngàn nằm trên nóc nhà thế giới, Hy Mã Lạp Sơn là nơi thâm u bí hiểm với sơn lam chướng khí trùng trùng và vô số loài thú dữ cư ngụ sẵn sàng lấy mạng người để làm thức ăn. Thời đó, thổ dân Dravidian không có đủ vũ khí hùng mạnh để chống cự với các loài mãnh thú và tự bảo vệ mình. Từng người vào rừng săn tìm thức ăn đã không thấy trở về. Độc địa nhất không phải chỉ là những hổ, cọp, gấu, beo nằm lồ lộ chờ mồi bên bờ suối, dưới gốc cây hay trong khe đá, mà ngay bên dưới lớp lá khô mục của đường rừng là những loài rắn nguy hiểm chực chờ bước chân người.
16/10/2010(Xem: 3740)
Trong thiền không có đầu đuôi, khúc chiết, lý luận. Nó đập vỡ lý luận. Đó là thế giới lý tưởng của câu thơ lớp ba mồ côi luận lý. Thế giới của những câu cuối lấc cấc, mẹ gà con vịt. Đừng bắt tôi giải thích; hãy lang thang với tôi trong câu cuối của dăm ba chuyện thiền nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]