Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ẩn Sĩ Khổ Hạnh - 5. Học theo loài rắn

26/04/201311:06(Xem: 9065)
Ẩn Sĩ Khổ Hạnh - 5. Học theo loài rắn
Ẩn Sĩ Khổ Hạnh


5. Học Theo Loài Rắn

Tâm Minh Ngô Tầng Giao
Nguồn: Tâm Minh Ngô Tầng Giao


Ba La Nại thuở xa xưa
Nhà vua có một tế sư giúp mình
Đóng vai cố vấn triều đình
Giỏi giang tột bực, thông minh vô cùng
Gia đình danh giá trong vùng
Tính ông rộng lượng, hay thương mọi người
Thường xuyên bố thí giúp đời
Cho nên ông được khắp nơi nể vì
“Năm điều giới cấm” uy nghi
Ông theo tu tập rất chi chuyên cần
“Sát sinh, trộm cắp, tà dâm
Say sưa, dối trá” ông luôn giữ gìn
Không dám phạm, chẳng hề quên
Đời ông là bậc thánh hiền nêu gương
Nhà vua do đó tán dương
Ông là người tốt trăm đường đáng khen.

*

Lòng tò mò chợt nổi lên
Tế sư bỗng muốn biết thêm một điều:
“Nhà vua kính trọng mình nhiều
Là vì vua đã dựa theo tài mình
Hay mình dòng dõi nổi danh
Hay mình tài sản gia đình giàu sang
Hay do giới đức vẻ vang
Khi mình theo ánh đạo vàng tu thân?”
Suy tư, thắc mắc, phân vân
Nên ông muốn thử một lần xem sao.
Rời hoàng cung ngày hôm sau
Tế sư đâu chịu lẽ nào về ngay
Cố tình ông ghé vào đây
Là nơi tiền bạc hàng ngày đúc ra
Ông bèn làm bộ gian tà
Thò tay lấy trộm thật là lặng yên
Một đồng vàng, cất giấu liền
Nhân viên xưởng đúc lặng im nể vì
Không hề dám nói năng chi
Mọi người kính trọng ông thì đã lâu.
Thế rồi lại tới hôm sau
Diễn ra đúng vậy thấy sao lạ lùng
Lần này ông lấy hai đồng
Nhân viên xưởng đúc cũng không than phiền.
Hôm sau nữa lại lấy tiền
Lần này lấy một nắm liền đầy tay
Ba lần gian xảo kiểu này
Chẳng coi luật pháp tại đây ra gì
Nhân viên họ hết nể vì
Bắt ông tại chỗ, miệng thì la lên:
“Đây là kẻ ba lần liền
Gian manh trộm cắp bạc tiền của vua.”
Và rồi cả đám reo hò:
“Kẻ này đạo đức giả đò mà thôi
Làm như lành tốt hơn người.”
Họ bèn đánh, trói ông rồi giải đi
Không còn kính trọng chút chi
Giải vào vua xử mọi bề công minh.
Trên đường đi tới triều đình
Thấy nhiều người đứng vây quanh chốn này
Người nuôi rắn đứng trong đây
Đang lo biểu diễn trò hay kiếm tiền
Những trò nguy hiểm vô biên
Để cho rắn độc quấn trên cổ mình
Hổ mang ngóc dậy vờn quanh
Lắc lư theo những âm thanh của kèn
Người nuôi rắn muốn khách xem
Tỏ lòng thán phục và khen can trường.
Tế sư khuyên họ: “Coi chừng!
Chớ nên nắm cổ, cũng đừng nắm đuôi
Không nên quấn rắn quanh người
Hổ mang cực độc, cắn thời chết ngay.”
Người nuôi rắn mắng: “Ngu thay!
Ông nào có biết rắn đây lành hiền
Từ lâu huấn luyện đã quen
Nào đâu có xấu, có hèn như ông
Ông là kẻ trộm trong cung
Vô cùng xảo trá, vô cùng gian manh
Chi nên bị trói thân mình
Còn như rắn nọ tốt lành từ lâu
Đâu cần trói buộc lại đâu.”
Tế sư nghe nói cúi đầu nghĩ suy:
“Ngay như rắn độc hại kia
Nếu không cắn bậy còn chi quý bằng
Được coi tốt đẹp hiền lương
Mới hay giới đức người thường cầu mong
Coi như tối thượng vô song
Người ta quý trọng nhất trong cõi trần.”

*

Khi mọi người giải tội nhân
Tới vua phán xét xử phân tội tình
Mọi người thuật chuyện ngọn ngành
Tế sư trộm cắp gian manh tiền vàng
Vua nghe xong thoạt ngỡ ngàng
Rồi truyền lệnh phạt kẻ gian tức thì
Phạt theo luật để thị uy.
Tế sư lúc đó còn gì giấu đâu
Ông bèn lên tiếng trình tâu
Ý mình muốn thử từ đầu tới nay
Để xem giới đức tại đây
Có còn được trọng vọng hay suy đồi:
“Bây giờ mọi chuyện rõ rồi
Chỉ vì giả bộ trộm nơi cung vàng
Mà tôi không được nể nang
Bị coi là kẻ thuộc hàng xấu xa
Mới hay giới đức suy ra
Quả là tuyệt diệu, quả là tối cao.
Hổ mang rắn độc biết bao
Khi không gây hại ai nào trách chê
Được người yêu mến mọi bề
Quả là giới đức còn chi quý bằng.”
Vua nghe tâu thật rõ ràng
Bèn truyền tha tội trộm vàng của vua
Truyền tha cho vị tế sư,
Nhưng ông sau đó chẳng ưa quyền hành
Thỉnh cầu vua cho phép mình
Giã từ chức vụ triều đình từ lâu
Trở thành tu sĩ rừng sâu
Nhà vua từ chối có đâu thuận lòng
Tế sư cứ mãi cầu mong
Nhà vua thấy vậy cuối cùng chuẩn y.
Tế sư hoan hỉ ra đi
Giã từ cõi tục, tìm về nẻo thơm
Lánh vào Hy Mã Lạp Sơn
Chuyên tâm thiền định bình an tuyệt vời
Đến khi mãn kiếp lìa đời
Tái sinh thiên giới, cõi trời tối cao.
(phỏng dịch theo bản văn xuôi
A LESSON FROM A SNAKE
của Ven. Kurunegoda Piyatissa & Tod Anderson)
(còn tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2011(Xem: 4406)
Tôi có ý nghĩ viết thành tập sách này vào đầu năm nay 97, nhân kỷ niệm mười năm tôi được xuất gia học đạo. Mười năm thường là cái mốc thời gian đáng nhớ cho những sự cố gì xảy ra trong một đời người. Sự cố ấy mang ý nghĩa của đổi thay dù sự đổi thay đó mang tính cách thế tục hay xuất thế. Trong đạo thầy đã dạy tôi rằng: "Sau một thời gian tu tập con cần nên cứu xét lấy mình, ngắn thì mỗi năm, dài thì năm năm, mười năm. Sau khoảng một thời gian dài ấy mà con thấy có niềm tin hơn, ý chí hơn trong sự tu tập thì đó là con đã tiến bộ. Giảm niềm tin, thiếu tinh tấn chính là con đã lui sụt. Tu tập mà không tiến bộ tức là thua sút, yếu hèn, phụ bạc công ơn thầy tổ nuôi nấng và sự thọ nhận cúng dường của đàn na thí chủ".
04/11/2011(Xem: 4210)
Tiếng súng nổ từ xa, dù lớn dù nhỏ, vẫn là chuyện thông thường không thắc mắc đối với dân Quảng Ngãi trong thời chiến tranh. Nhưng đêm nay, đêm mồng một Tết, tiếng súng nổ bên tai làm cả nhà tôi bàng hoàng. Không ai bảo ai đều giật mình thức giấc rồi chạy ào xuống nhà núp dưới chân cầu thang. Tiếng súng nổ gần quá, tôi nghe cả tiếng hô hoán: “Tiến lên!” giọng Bắc rặc của một người chỉ huy nào đó. Trời! Không lẽ mặt trận đang diễn ra trong thành phố? Tim tôi đập loạn xạ, dù mồ hôi vã ra, răng tôi vẫn đánh bò cạp. Tôi rúc vào lòng năm chị em gái và ba má của tôi. Tiếng khóc thút thít vì sợ hãi muốn oà ra nhưng tôi cố dằn lòng sợ địch quân nghe thấy. Ầm! Một trái pháo kích rớt trúng nhà phía sau của tôi. Ngói bể rơi loảng xoảng, khói đạn bay mịt mù. Tôi chỉ kịp thét lên, ôm cứng lấy má tôi, hồn như bay khỏi xác. Đó là năm Mậu Thân 1968, lúc tôi 14 tuổi.
27/10/2011(Xem: 19183)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
12/10/2011(Xem: 19364)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
01/10/2011(Xem: 7336)
Hàng ngũ phật tử thường được chia là phật tử tại gia và phật tử xuất gia. Các phật tử tại gia thường được gọi là cư sĩ. Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cư sĩ nổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém gì các vị đã xuất gia. Có nhiều vị cư sĩ nổi tiếng nhưng bài này chỉ xin nhắc đến ông Duy Ma Cật, bà hoàng hậu Thắng Man, cư sĩ Huệ Năng lúc chưa xuất gia và sau đó đến gia đình ông Bàng Uẩn.
25/09/2011(Xem: 3833)
Lời hát ru nhẹ nhàng mà trầm buồn da diết ấy đi vào trong cả giấc mơ của Hiền. Bao lần chị giựt mình thảng thốt ngồi bật dậy… ngơ ngác nhìn quanh. Chẳng có gì khác ngoài bóng đêm lạnh giá bao trùm hai dãy xà lim hun hút. Chốc chốc vẳng lại tiếng thạch sùng chặc lưỡi, tiếng chí chóe của mấy chú tí ưa khuấy rối trong xó tối. Và cả tiếng thở dài của ai đó dội qua mấy bức tường xanh rêu im ỉm…
24/09/2011(Xem: 2846)
Ngày xưa có một chàng trai tên là Na Á. Anh mồ côi cha từ sớm, ở với mẹ già. Nhà Na Á nghèo, anh phải làm nghề đánh cá để nuôi thân, nuôi mẹ.
24/09/2011(Xem: 2890)
Một hôm em bé ngồi trong bóng cây trú nắng, gió cũng thổi mát quá, em ngủ quên, đến lúc thức dậy, thì đàn trâu đã đi mất. Em tìm khắp cánh đồng mà chẳng thấy.
21/09/2011(Xem: 2909)
Tờ Chú (có nghĩa là anh đen) nghèo nhất làng. Họ nghèo lắm, nghèo đến nỗi không có một con dao mẻ để phát nương, một cái thuổng để đào củ mài.
21/09/2011(Xem: 2774)
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cái. Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]