Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Quyển Năm

31/10/201217:57(Xem: 4073)
05. Quyển Năm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

Hán dịch: Bát Thích Mật Đế - Việt Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

QUYỂN NĂM

CHƯƠNG II

NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ VIÊN-TU

MỤC I
NÊU RA CÁI CĂN ĐỂ CHỈ CHỔ MÊ

ĐOẠN I

XIN KHAI-THỊ CÁCH CỞI NÚT

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, tuy Như-lai đã dạy nghĩa quyết-định thứ hai, song tôi xem trong thế-gian, những người cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì chắc không thể cởi được. Bạch Thế-tôn, tôi và các hàng hữu-học Thanh-văn trong Hội này cũng giống như vậy. Từ vô-thủy đến nay, chúng tôi cùng sinh, cùng diệt với các thứ vô-minh, tuy được thiện-căn nghe nhiều Phật-pháp thế này, nhưng tiếng là xuất-gia mà cũng như người sốt-rét cách nhật; xin nguyện đức Đại-từ thương-xót kẻ chìm-đắm, chính nơi thân tâm hiện nay, chỉ cho chúng tôi thế nào là nút, do đâu mà cởi, cũng khiến cho chúng-sinh khổ-não vị-lai được khỏi luân-hồi, không sa vào ba cõi."

Nói lời ấy rồi, ông A-nan và cả đại-chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc-lóc thành-khẩn, trông-mong lời khai-thị vô-thượng của đức Như-lai.

ĐOẠN II

THẬP PHƯƠNG NHƯ-LAI PHÓNG HÀO-QUANG, ĐỒNG MỘT LỜI NÊU RA CÁI CĂN

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và hàng hữu-học trong Hội, lại cũng vì tất-cả chúng-sinh đời vị-lai tạo cái nhân xuất-thế, làm cái đạo-nhãn tương-lai; Ngài dùng tay sáng-ngời xoa đỉnh-đầu ông A-nan. Liền khi ấy, trong tất-cả thế-giới, chư Phật mười phương, sáu thứ rung-động; các đức Như-lai, số như vi-trần; trong các cõi ấy, mỗi Ngài đều có hào-quang báu từ nơi đỉnh-đầu phát ra; hào-quang ấy, đồng một thời từ các cõi kia đến rừng Kỳ-đà, soi nơi đỉnh-đầu của đức Như-lai; tất-cả đại-chúng đều được cái chưa từng có.

Khi bấy giờ, ông A-nan và cả đại-chúng đều nghe các đức Như-lai mười phương, số như vi-trần, tuy khác miệng, nhưng đồng một lời, bảo ông A-nan rằng: "Hay thay cho A-nan! Ông muốn biết cái câu-sinh vô-minh là cái đầu nút, khiến ông phải luân-hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác; ông lại muốn biết tính vô-thượng Bồ-đề, khiến ông chóng chứng đạo-quả an-vui, giải-thoát, vẳng-lặng, diệu-thường, thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác".

ĐOẠN III

CHỈ RÕ CĂN-TRẦN ĐỂ LỰA-BỎ CÁI VỌNG-THỨC

Ông A-nan, tuy được nghe pháp-âm như vậy, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật: "Làm sao cái khiến cho tôi bị luân-hồi, sống chết hay được an-vui, diệu-thường, cũng đều là sáu căn, chứ không phải vật gì khác?"

Phật bảo ông A-nan: "Căn và trần, đồng một nguồn, cột và cởi không phải hai, cái thức phân-biệt là luống-dối như hoa-đốm giữa hư-không. A-nan, nhân cái trần, mà phát ra cái biết của căn, nhân cái căn, mà có ra cái tướng của trần, tướng-phần sở-kiến và kiến-phần năng-kiến đều không có tự-tính, như những hình cây lau gác vào nhau.

ĐOẠN IV

LỰA-BỎ CÁI VỌNG ĐỂ BÀY-TỎ CHỖ THANH-TỊNH CHÂN-THẬT

Vậy nên nay ông chính nơi tri-kiến, lập ra tướng tri-kiến, thì tức là cỗi-gốc vô-minh; chính nơi tri-kiến, không có tướng tri-kiến, thì đó là vô-lậu chân-tịnh Niết-bàn, làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác."

ĐOẠN V

NÓI BÀI KỆ CHỈ-RÕ CHÂN VÀ VỌNG KHÔNG CÓ TÍNH, HỄ THEO TÍNH VIÊN-THÔNG THÌ XOAY VỀ BẢN-GIÁC

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói bài kệ rằng:

"Nơi chân-tính hữu-vi là không,
Vì duyên-sinh, nên giống như-huyễn;
Vô-vi, thì không sinh, không diệt,
Chẳng thật như hoa-đốm hư-không.
Nói cái vọng để tỏ cái chân,
Vọng, chân ấy, cả hai đều vọng;
Còn không phải chân và phi-chân,
Làm sao có năng-kiến, sở-kiến,
Thức ở giữa, không có thật-tính,
Vậy nên, như hình lau gác nhau.
Cột và cởi đồng một sở-nhân,
Thánh và phàm không có hai đường.
Hãy xét tính hình lau gác nhau,
Đâu phải là không hay là có.
Mê-mờ nghĩa đó, là vô-minh,
Phát-minh nghĩa đó, thì giải-thoát.
Cởi nút, tuy phải theo thứ lớp,
Sáu đã cởi, một cũng không còn.
Nơi các căn, chọn tính viên-thông,
Nhập-lưu được, thì thành chánh-giác.
Thức A-đà-na rất nhỏ-nhiệm,
Tập-khí lưu-hành như nước dốc;
E lầm là chân hay phi-chân,
Nên tôi thường không diễn-giảng đến,
Tự-tâm trở-chấp lấy tự-tâm,
Không phải huyễn, thành ra pháp-huyễn.
Không chấp-trước, không gì phi-huyễn
Cả cái phi-huyễn còn không sinh,
Pháp-huyễn, làm sao thành-lập được.
Ấy gọi như-huyễn Tam-ma-đề,
Bảo-giác chắc như Kim-cương-vương,
Không nhiễm, tịnh như diệu-liên-hoa;
Gẩy ngón tay, vượt hàng vô-học;
Pháp ấy, không gì so-sánh được,
Là một đường thẳng vào Niết-bàn,
Của các đức Thế-tôn mười phương".

MỤC II

CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU-NÚT

ĐOẠN I

THUẬT CHỖ TỎ-NGỘ

Lúc ấy, ông A-nan và cả đại-chúng nghe lời từ-bi dạy-bảo của Phật, kệ-tụng tinh-túy, diệu-lý trong-suốt, tâm được khai-ngộ, đồng tán-thán là pháp chưa từng có.

ĐOẠN II

CẦU KHAI-THỊ THỨ LỚP CỞI NÚT

Ông A-nan chấp tay đỉnh-lễ bạch Phật: "Nay tôi nghe Phật mở lòng vô-giá đại-từ dạy cho những câu pháp chân-thật thanh-tịnh diệu-thường, nhưng tâm còn chưa rõ thứ lớp cởi nút, đi đến cởi cả sáu, thì một cũng không còn, xin Phật rủ lòng đại-bi thương-xót trong Hội nầy và những kẻ tương-lai, bố-thí cho pháp-âm, rửa-sạch những cấu-nhiễm trầm-trọng của chúng tôi.

ĐOẠN III

CỘT NÚT CHO XEM VÀ GẠN-HỎI ĐẦU-NÚT

Liền khi ấy đức Như-lai, nơi sư-tử-tọa, sửa áo niết-bàn-tăng, vén áo tăng-già-lê, dựa ghế thất-bảo, đưa tay nơi ghế, lấy cái khăn-hoa của cõi trời Kiếp-ba-la đã cúng cho ngài, rồi ở trước đại-chúng, cột thành một nút, đưa cho ông A-nan xem và bảo rằng: "Cái này gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng đều bạch Phật rằng: "Cái này gọi là nút". Lúc ấy đức Như-lai lại cột khăn-hoa thành một nút nữa và hỏi ông A-nan: "Cái này gọi là gì?". Ông A-nan và đại-chúng lại bạch Phật rằng: "Cái ấy cũng gọi là nút". Phật tuần-tự cột khăn-hoa như vậy, tổng-cộng thành sáu nút, mỗi khi cột xong một nút, đều lấy cái nút vừa cột xong trong tay, đưa hỏi ông A-nan: "Cái này gọi là gì?" Ông A-nan và đại-chúng cũng tuần-tự đáp lại Phật: "Cái ấy gọi là nút". Phật bảo ông A-nan: "Khi tôi mới cột khăn thì ông gọi là nút, cái khăn-hoa này, trước kia chỉ có một cái, cớ sao lần thứ hai, lần thứ ba, các ông cũng gọi là nút?"

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, cái khăn-hoa thêu-dệt quý-báu này vốn chỉ một thể, song theo ý tôi suy-nghĩ, Như-lai cột một lần, thì được gọi là một nút, nếu cột một trăm lần, thì rốt-cuộc phải gọi là trăm nút, huống chi, khăn nầy chỉ có sáu nút, không lên đến bảy, cũng không đứng ở số năm, sao đức Như-lai chỉ cho cái đầu là nút, còn cái thứ hai, thứ ba, thì không gọi là nút?"

Phật bảo ông A-nan: "Cái khăn-hoa báu này, ông biết nó vốn chỉ có một cái, đến khi tôi cột sáu lần, thì ông gọi là sáu nút; ông hãy xem-xét bản-thể cái khăn nầy là đồng, nhân vì các nút mà hóa ra khác. Ý ông nghĩ sao, khi mới cột nút ban-đầu, thì gọi là nút thứ nhất, như thế, cho đến cột lần thứ sáu, thì gọi là nút thứ sáu. Nay, tôi muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, có được không?"

Bạch Thế-tôn, không; nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt-cuộc không phải là cái thứ nhất; dầu cho tôi cố-gắng biện-bạch suốt đời, cũng không thể làm cho sáu nút đổi tên được".

Phật dạy: "Đúng thế, sáu nút không đồng nhau; tuy xét về bản-thân, vẫn do một cái khăn tạo ra, nhưng rốt-cuộc không thể làm cho sáu nút xáo-lộn lẫn nhau. Sáu căn của ông thì cũng như vậy; trong thể ráo-rốt đồng nhau, sinh ra rốt-ráo khác nhau".

MỤC III

CHỈ CỞI NÚT TRƯỚC SAU

ĐOẠN I

GẠN-HỎI ĐỂ CHỈ-RÕ ĐẦU-NÚT

Phật bảo ông A-nan: "Chắc hẳn ông không muốn thành ra sáu nút và trông mong chỉ thành một thể, thì ông phải làm thế nào?".

Ông A-nan bạch: "Nếu còn những nút đó, thì thị phi sôi-nổi, trong đó, tự sinh ra nút này không phải nút kia, nút kia không phải nút này. Nếu ngày nay, đức Như-lai cởi-bỏ tất-cả, không sinh nút nữa thì, không có bỉ thử, còn không gọi là một, làm sao mà thành sáu được".

Phật dạy: "Cái nghĩa cởi cả sáu, một cũng không còn, thì cũng như thế. Do từ vô-thủy, tâm ông điên-loạn, tri-kiến vọng-phát ra, vọng-phát mãi không thôi, làm cho tri-kiến sinh bệnh, phát ra trần-tướng; như trông con mắt mỏi-mệt, thì có hoa-đốm lăng-xăng; tất-cả những tướng thế-gian, núi sông, đất liền, sống chết, Niết-bàn, không nhân gì rối-rít khởi lên, trong tính sáng-suốt yên-lặng, đều là những tướng hoa-đốm điên-đảo do bệnh mê-lầm phát-ra".

ĐOẠN II

HỎI CÁCH CỞI NÚT

Ông A-nan bạch: "Cái bệnh mê-lầm giống như cái nút kia, làm sao cởi-bỏ cho được?"

Đức Như-lai, lấy tay cầm cái khăn có nút, kéo riêng mối bên trái, rồi hỏi ông A-nan rằng: "Thế này có cởi được chăng?"

Thưa Thế-tôn, không.

Phật liền lấy tay kéo riêng mối bên phải, rồi lại hỏi ông A-nan: "Thế này có cởi được chăng?"

Thưa Thế-tôn, không.

Phật bảo ông A-nan: "Nay tôi lấy tay kéo mối bên phải, bên trái mà rốt-cuộc không cởi được, vậy ông dùng phương-tiện thế nào mà cởi cho được".

ĐOẠN III

XÉT-NHẬN TRỪ-BỎ TRUNG-TÂM CÁI NÚT. THÌ TIÊU ĐƯỢC VỌNG, TRỞ VỀ CHÂN.

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nên mở nơi trung-tâm cái nút thì tan-rã ngay".

Phật bảo ông A-nan: "Đúng thế, đúng thế, muốn trừ cái nút thì phải cởi nơi trung-tâm.

A-nan, tôi nói Phật-pháp do nhân-duyên sinh, không phải lấy những tướng hòa-hợp thô-phù của thế-gian. Như-lai phát-minh các pháp thế-gian và xuất-thế-gian, đều biết rõ bản-nhân của nó theo những duyên gì mà phát ra, cho đến một giọt mưa ở ngoài hằng-sa thế-giới cũng biết số-mục, hiện-tiền các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên-do. Vậy nên A-nan, tùy tâm ông lựa-chọn nơi sáu căn; nếu trừ được cái nút nơi căn ấy rồi, thì trần-tướng tự tiêu-diệt; các vọng đã tiêu-mất, thì chả phải chân là gì.

ĐOẠN IV

CHỈ VỀ CỘT LẠI CÓ THỨ LỚP, THÌ CỞI RA CŨNG PHẢI CÓ TRƯỚC SAU

"A-nan, nay tôi lại hỏi ông: "Cái khăn-hoa này hiện có sáu nút, nếu đồng một thời cởi ra, thì có thể đồng một thời trừ hết được chăng?"

-Thưa Thế-tôn, không. Những cái nút này, khi cột lại, vốn có thứ lớp, thì ngày nay cũng theo thứ lớp mà cởi; sáu cái nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng một thời, thì khi cởi nút, làm sao đồng một thời, mà trừ hết được?

Phật dạy: "Việc cởi-trừ cái nút nơi sáu căn cũng giống như vậy. Căn ấy khi bắt đầu cởi ra, thì trước hết được nhân-không, đến khi tính-không viên-mãn sáng-suốt, thì giải-thoát pháp-chấp. Pháp-chấp được giải-thoát rồi, cả cái nhân-không và pháp-không cũng không còn; thế thì gọi là Bồ-tát do Tam-ma-đề mà chứng được vô-sinh-nhẫn".

MỤC IV

GẠN HỎI ĐẠI-CHÚNG VỀ VIÊN-THÔNG

ĐOẠN I

TRÌNH-BÀY CHỖ NGỘ, XIN CHỈ-DẠY CĂN-TÍNH VIÊN-THÔNG

Ông A-nan và cả đại-chúng, nhờ Phật khai-thị, tuệ-nhãn được viên-dung, thông-suốt, không còn điều gì nghi-hoặc, đồng-thời chấp tay, đỉnh-lễ nơi hai chân mà bạch Phật rằng: "Ngày nay, chúng tôi thân tâm sáng-suốt, chóng được vô-ngại; song tuy ngộ được cái nghĩa một và sáu đều không còn, nhưng còn chưa rõ căn-tính bản-lai viên-thông. Thưa Thế-tôn, chúng tôi xiêu-dạt bơ-vơ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được dự vào dòng giống của Phật, như đứa con mất sữa, bỗng-nhiên gặp được từ-mẫu. Nếu nhân cơ-hội này mà được thành-đạo, chỗ bản-ngộ phù-hợp với đạo-lý vi-diệu đã được nghe, thì cùng với những người chưa nghe, không có sai-khác. Xin Phật rủ lòng đại-bi ban cho chúng tôi những pháp bí-mật trang-nghiêm; thành-tựu lời chỉ-dạy cuối-cùng của Như-lai." Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, lui về an-trụ nơi cơ-cảm sâu-nhiệm, trông mong Phật tâm-truyền cho.

ĐOẠN II

GẠN-HỎI TRONG ĐẠI-CHÚNG

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo khắp các vị Đại-bồ-tát và các vị lậu-tận Đại-a-la-hán trong chúng rằng: "Các ông là những vị Bồ-tát và A-la-hán sinh-trưởng trong Phật-Pháp, đã chứng-quả vô-học, nay tôi hỏi các ông: Trong lúc ban-đầu mới phát-tâm, trong thập-bát-giới, ngộ được viên-thông ở giới nào và do phương-tiện gì được Tam-ma-đề?"

ĐOẠN III

VIÊN-THÔNG VỀ THANH-TRẦN

Bọn ông Kiều-trần-na, năm vị tỷ-khưu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Ở Lộc-uyển và ở Kê-viên, chúng tôi được xem thấy đức Như-lai khi mới thành-đạo. Chúng tôi do tiếng nói của Phật, tỏ-ngộ được Tứ-đế. Phật hỏi trong hàng tỷ-khưu, thì trước tiên tôi thưa đã hiểu. Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là A-nhã-đa. Đi sâu vào bản-tính nhiệm-mầu, thì âm-thanh thật là viên-dung; tôi do âm-thanh mà được quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do âm-thanh là hơn cả".

ĐOẠN IV

VIÊN-THÔNG VỀ SẮC-TRẦN

Ông Ưu-ba-ni-sa-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi cũng được thấy Phật trong lúc mới thành-đạo; tôi quán-tưởng bất-tịnh, sinh lòng nhàm-chán rời-bỏ tột bậc, ngộ cái tính của các sắc, từ tướng bất-tịnh đến tướng xương-trắng, tướng vi-trần, rồi tan về hư-không; cả hai cái không và cái sắc đều không, thành-đạo vô-học. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái tên là Ni-sa-đà; sắc của trần-cảnh đã hết, sắc của tính-diệu được mật-viên. Tôi do sắc-tướng mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do sắc-trần là hơn cả".

ĐOẠN V

VIÊN-THÔNG VỀ HƯƠNG-TRẦN

Ông Hương-nghiêm-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng : "Tôi nghe đức Như-lai dạy tôi quan-sát chín-chắn các tướng hữu-vi. Khi ấy tôi từ-giã Phật, đầu-hôm về tĩnh-tọa trong nhà thanh-trai, thấy các tỷ-khưu đốt hương trầm-thủy, hơi hương vẳng-lặng bay vào trong mũi tôi. Tôi quán cái hơi ấy, không phải là cây, không phải là không, không phải là khói, không phải là lửa, đi ra không dính vào đâu, đến nơi cũng không do đâu; do đó, ý-niệm phân-biệt tiêu-diệt, phát-minh tính vô-lậu. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi cái hiệu là Hương-nghiêm. Tướng hương tiền-trần bỗng diệt, thì diệu-tính của hương là mật-viên. Tôi do hương-nghiêm mà chứng-quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do hương-trần là hơn cả".

ĐOẠN VI

VIÊN-THÔNG VỀ VI-TRẦN

Hai vị Pháp-vương-tử Dược-vương, Dược-thượng, cùng với năm trăm Phạm-thiên trong Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ kiếp vô-thủy, chúng tôi làm lương-y thế-gian, trong miệng thường nếm những cỏ cây, kim thạch trong thế-giới Sa-bà này, số-mục lên đến mười vạn tám nghìn, biết hết các vị đắng, chua, mặn, nhạt, ngọt, cay vân vân..., cùng với các vị biến-đổi, do các vị kia hòa-hợp cùng sinh ra; thứ nào là lạnh, thứ nào là nóng, thứ nào có độc, thứ nào không độc, tôi đều biết cả. Được thừa-sự các đức Như-lai, rõ-biết bản-tính của vị-trần, không phải không, không phải có, không phải tức là thân tâm, không phải thoát-ly thân tâm; do phân-biệt đúng bản-tính vị-trần mà được khai-ngộ. Nhờ Phật ấn-chứng cho anh em chúng tôi cái danh-hiệu là Dược-vương và Dược-thượng Bồ-tát; nay ở trong Hội này làm vị Pháp-vương-tử. Chúng tôi nhân vi-trần mà giác-ngộ, lên bậc Bồ-tát. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của chúng tôi, thì do vị-trần là hơn cả".

ĐOẠN VII

VIÊN-THÔNG VỀ XÚC-TRẦN

Ông Bạt-đà-bà-la, với mười sáu vị Khai-sĩ đồng-bạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Bọn tôi, trước kia nơi đức Phật Uy-âm-vương, nghe Pháp xuất-gia. Trong lúc chư tăng tắm, tôi theo thứ lớp vào phòng tắm; bỗng nhiên ngộ được chân-tính của nước, đã không rửa bụi, cũng không rửa mình, chặng giữa yên-lặng, được chỗ không có gì. Túc-tập không quên, nên đến ngày nay theo Phật xuất-gia, được thành quả vô-học. Đức Phật kia, gọi tôi tên là Bạt-đà-bà-la. Do phát-minh diệu-tính của xúc-trần, thành được bậc Phật-tử-trụ. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do xúc-trần là hơn cả."

ĐOẠN VIII

VIÊN-THÔNG VỀ PH ÁP-TRẦN

Ông Ma-ha-ca-diếp và bà Tử-Kim-quang tỷ-khưu-ny, vân vân... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Kiếp xưa, trong cõi này, có đức Phật ra đời, tên là Nhựt-nguyệt-đăng diệt-độ rồi, chúng tôi thắp đèn sáng mãi cúng-dàng xá-lợi, lại lấy vàng-thắm thếp hình-tượng Phật. Từ đó đến nay, đời nào đời nào, thân-thể thường viên-mãn, sáng-ngời như vàng-thắm. Bọn Tử-kim-quang tỷ-khưu-ny nầy, tức là quyến-thuộc của tôi lúc đó, cũng đồng một thời phát-tâm như tôi. Tôi quán trong thế-gian, sáu trần đều dời-đổi tan-nát, chí dùng pháp không-tịch, tu định diệt-tận, thì thân tâm mới có thể trải qua trăm nghìn kiếp như một thời-gian gẩy ngón tay. Tôi do quán được các pháp là rỗng-không, mà thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn bảo tôi tu hạnh đầu-đà bậc nhất. Diệu-tính của các pháp được khai-ngộ, thì tiêu-diệt các lậu. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì do pháp-trần là hơn cả."

ĐOẠN IX

VIÊN-THÔNG VỀ NHÃN-CĂN

Ông A-na-luật-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia, thường thích nằm ngủ, nên đức Như-lai quở tôi là loài súc-sinh. Nghe lời Phật quở, tôi khóc-lóc tự-trách, suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai con mắt. Đức Thế-tôn dạy tôi tu pháp "Lạc-kiến chiếu-minh kim-cương tam-muội". Tôi không do con mắt, xem thấy mười phương rỗng-suốt tinh-tường như xem cái quả trong bàn tay; đức Như-lai ấn-chứng cho tôi thành quả A-la-hán. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay cái thấy trở về bản-tính, đó là thứ nhất".

ĐOẠN X

VIÊN-THÔNG VỀ TỶ-CĂN

Ông Chu-lỵ-bàn-đặc-ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi thiếu tụng-trì, không có tuệ đa-văn. Khi mới gặp Phật, nghe Pháp và xuất-gia, tôi cố nhớ một câu kệ của Như-lai, song trong một trăm ngày, hễ nhớ trước thì quên sau, mà nhớ sau thì quên trước. Phật thương tôi ngu-muội, dạy tôi phép an-cư, điều-hòa hơi-thở ra vào. Tôi quán hơi-thở, cùng-tột các tướng sinh, trụ, dị, diệt nhỏ-nhiệm, đến từng sát-na; tâm tôi rỗng-suốt, được đại-vô-ngại, cho đến hết các lậu, thành quả A-la-hán, trước pháp-tọa của Phật, được ấn-chứng thành quả vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì xoay hơi-thở về tính rỗng không, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XI

VIÊN-THÔNG VỀ THIỆT-CĂN

Ông Kiều-phạm-bát-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi mắc khẩu-nghiệp, khinh-rẻ, chế-giễu vị sa-môn trong kiếp quá-khứ, nên đời đời mắc bệnh nhai lại như trâu. Đức Như-lai chỉ-dạy cho tôi pháp-môn "Nhất-vị thanh-tịnh tâm-địa". Tôi nhờ vậy, mà diệt được phân-biệt vào Tam-ma-đề; tôi quán tính-biết-vị, không phải thân-thể, không phải ngoại-vật, liền đó vượt khỏi các lậu thế-gian, bên trong giải-thoát thân tâm, bên ngoài rời-bỏ thế-giới, xa-rời ba cõi như chim sổ lồng, rời hết cấu-nhiễm, tiêu-diệt trần-tướng, nên pháp-nhãn được thanh-tịnh, thành quả A-la-hán. Đức Như-lai ấn-chứng cho tôi lên bậc vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, trả các vị về phân-biệt, xoay cái biết về tự-tính, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XII

VIÊN-THÔNG VỀ THÂN-CĂN

Ông Tất-lăng-già-bà-ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi lúc mới phát-tâm theo Phật nhập-đạo, thường nghe đức Như-lai dạy về những việc không vui được trong thế-gian. Lúc đi khất-thực trong thành, tâm tôi đang suy-nghĩ pháp-môn Phật dạy, giữa đường, không ngờ bị gai-độc đâm vào chân, cả mình đau-đớn. Tâm-niệm tôi có biết cái đau-đớn ấy; tuy biết đau-đớn nhưng đồng-thời giác-biết nơi tâm thanh-tịnh, không có cái đau và cái biết đau. Tôi lại suy-nghĩ: Một thân-thể này, lẽ đâu có hai tính-biết; nhiếp-niệm chưa bao lâu, thì thân tâm bỗng-nhiên rỗng-không; trong ba lần bảy ngày, các lậu đều tiêu hết, thành quả A-la-hán; được Phật ấn-chứng lên bậc vô-học. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì thuần một giác-tính, rời-bỏ thân-thể, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XIII

VIÊN-THÔNG VỀ Ý-CĂN

Ông Tu-bồ-đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm tôi được vô-ngại, tự nhớ thụ-sinh nhiều đời như số cát sông Hằng; lúc còn trong thai mẹ, cũng liền biết tính không-tịch, như thế cho đến mười phương đều thành rỗng-không và cũng khiến cho chúng-sinh chứng được tính-không; nhờ đức Như-lai phát-minh tính-giác là chân-không, nên tính-không được viên-mãn sáng-suốt, chứng quả A-la-hán, liền vào bảo-minh-không-hải của Như-lai, tri-kiến đồng như Phật, được ấn-chứng thành quả vô-học; tính giải-thoát rỗng-không, tôi là hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi: Các tướng đều xoay vào phi-tướng, năng-phi và sở-phi đều hết, xoay các pháp trở về chỗ không có gì, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XIV

VIÊN-THÔNG VỀ NHÃN-THỨC

Ông Xá-lỵ-phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ nhiều kiếp đến nay, chỗ nhận-thấy của tôi được thanh-tịnh; tuy tôi thụ-sinh nhiều đời như số cát sông Hằng như vậy, mà đối với các pháp biến-hóa thế-gian và xuất-thế-gian, hễ thấy được đều thông-suốt, không có ngăn-ngại. Tôi ở giữa đường, gặp anh em ông Ca-diếp-ba theo rõi, nói pháp nhân-duyên, thì ngộ được tâm không có bờ-bến. Tôi theo Phật xuất-gia, chỗ nhận-thấy sáng-suốt viên-mãn, được pháp đại-vô-úy, thành quả A-la-hán, làm trưởng-tử của Phật, từ miệng Phật mà sinh ra, do Pháp-Phật mà hóa-sinh. Phật hỏi về viên-thông, như chỗ chứng của tôi, thì tính-thấy của tâm-thể phát ra sáng-suốt, cùng-tột các tri-kiến, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XV

VIÊN-THÔNG VỀ NHĨ-THỨC

Ngài Phổ-hiền Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi đã từng làm Pháp-vương-tử cho các đức Như-lai như số cát sông Hằng; thập phương Như-lai dạy các đệ-tử có căn-cơ Bồ-tát, tu hạnh Phổ-hiền, hạnh đó, do tôi mà đặt tên như vậy. Thưa đức Thế-tôn, tôi dùng tính-nghe của tâm-thể phân-biệt tất-cả tri-kiến của chúng-sinh. Nếu ở phương khác, cách ngoài hằng-sa thế-giới, có một chúng-sinh, trong tâm phát được hạnh-nguyện Phổ-hiền, thì liền trong lúc ấy, tôi cưỡi voi sáu ngà, phân-thân thành trăm nghìn, đến chỗ người ấy. Dầu cho người ấy nghiệp-chướng còn sâu, chưa thấy được tôi, tôi cũng thầm-kín xoa đỉnh-đầu người ấy, ủng-hộ an-ủi, khiến cho được thành-tựu. Phật hỏi về viên-thông, tôi nói chỗ bản-nhân của tôi là phát-minh tính-nghe của tâm-thể, phân-biệt được tự-tại, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XVI

VIÊN-THÔNG VỀ TỶ-THỨC

Ông Tôn-đà-la-nan-đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc tôi mới xuất-gia theo Phật nhập-đạo, tuy giữ đủ giới-luật, nhưng trong lúc tu Tam-ma-đề, tâm thường tán-loạn, chưa được quả vô-lậu. Đức Thế-tôn dạy tôi và ông Câu-si-la quán đầu lỗ-mũi-trắng. Lúc tôi bắt đầu tu quán ấy, trải qua ba lần bảy ngày, thấy hơi-thở trong mũi ra vào như khói, thân tâm bên trong sáng-soi thông-suốt thế-giới, khắp nơi thành trống-không thanh-tịnh, như ngọc lưu-ly; tướng khói lần lần tiêu mất, hơi-thở hóa thành trắng, đến khi tâm được khai-ngộ, các lậu hết sạch, thì những hơi-thở ra vào hóa-thành hào-quang, soi khắp thập phương thế-giới, được quả A-la-hán. Đức Thế-tôn thụ-ký cho tôi sẽ được quả Bồ-đề. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng phép nhiếp-thu ý-niệm nơi hơi-thở, yên-lặng lâu ngày, phát ra sáng-suốt, sáng-suốt viên-mãn, diệt hết các lậu, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XVII

VIÊN-THÔNG VỀ THIỆT-THỨC

Ông Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tài biện-thuyết được vô-ngại, tuyên-dương các pháp Khổ, Không, thấu-suốt tướng chân-thật, như thế cho đến các pháp-môn bí-mật hằng-sa Như-lai, tôi phương-tiện chỉ-bày trong chúng, được sức vô-úy. Đức Thế-tôn biết tôi có tài biện-thuyết lớn-lao, nên dùng pháp-luân âm-thanh, dạy tôi tuyên-dương Chính-pháp. Tôi ở trước Phật, giúp Phật chuyển pháp-luân, nhân nói Chính-pháp, thành quả A-la-hán. Đức Thế-tôn ấn-chứng cho tôi thuyết-pháp hơn cả. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp-âm hàng-phục tà-ma ngoại-đạo, tiêu-diệt các lậu, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XVIII

VIÊN-THÔNG VỀ THÂN-THỨC

Ông Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Chính tôi được theo Phật vượt thành xuất-gia, xem thấy đức Như-lai sáu năm siêng-tu khổ-hạnh, thấy đức Như-lai hàng-phục bọn tà ma, đối-trị các ngoại-đạo, giải-thoát các lậu tham-dục thế-gian; tôi được nhờ Phật dạy giữ giới, cho đến ba nghìn uy-nghi, tám vạn hạnh vi-tế, các tính-nghiệp và giá-nghiệp thảy đều thanh-tịnh; do đó, thân tâm được tịch-diệt, thành quả A-la-hán, nay làm vị cương-kỷ trong chúng của Như-lai; Phật ấn-chứng cho tôi giữ giới tu-thân hơn cả trong chúng. Phật hỏi viên-thông, tôi do chấp-trì cái thân mà thân được tự-tại, lần đến chấp-trì cái tâm mà tâm được thông-suốt, về sau cả thân và tâm tất-cả đều viên-thông, tự-tại, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XIX

VIÊN-THÔNG VỀ Ý-THỨC

Ông Đại-mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Lúc trước tôi khất-thực giữa đường, gặp ba anh em họ Ca-diếp-ba là ông Ưu-lâu-tần-loa, ông Già-gia và ông Na-đề, giảng-nói nghĩa-lý nhân-duyên sâu-xa của Như-lai; tôi liền phát-tâm, được rất thông-suốt; Như-lai ban cho áo ca-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng. Tôi đi khắp mười phương được không ngăn-ngại, phát-minh thần-thông, được trong chúng suy-tôn là vô-thượng, thành quả A-la-hán. Không những riêng đức Thế-tôn, mà thập phương Như-lai đều khen sức thần-thông của tôi thanh-tịnh tròn-sáng, tự-tại không e-sợ, Phật hỏi về viên-thông, tôi do xoay ý-niệm trở về tính viên-trạm nên tâm-trí mở-bày, như lắng nước đục, lâu thành trong-sáng, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XX

VIÊN-THÔNG VỀ HỎA-ĐẠI

Ông Ô-xô-sắt-ma, ở trước đức Như-lai, chấp tay đỉnh-lễ nơi hai chân Phật mà bạch Phật rằng: " Tôi thường nhớ trước kia, trong kiếp xa-xôi, tính có nhiều tham-dục; lúc ấy, có đức Phật ra đời hiệu là Không-vương, bảo người đa-dâm như đống lửa hồng và dạy tôi quán khắp những hơi nóng lạnh nơi trăm vóc tứ-chi; tôi nhờ quán như vậy, mà được giác-tính sáng-suốt lặng-đứng bên trong, hóa tâm đa-dâm thành lửa trí-tuệ. Từ ấy, các đức Phật đều gọi tên tôi là Hỏa-đầu. Tôi dùng sức hỏa-quang-tam-muội mà thành quả A-la-hán; trong tâm phát đại-nguyện, khi các đức Phật thành-đạo, thì làm lực-sĩ, thân ở bên Phật, uốn-dẹp bọn tà-ma quấy-phá. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng pháp quán các hơi-ấm nơi thân tâm đều lưu-thông không ngăn-ngại; các lậu đã tiêu, sinh ra ngọn lửa đại-trí quý-báu, lên bậc vô-thượng-giác, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XXI

VIÊN-THÔNG VỀ ĐỊA-ĐẠI

Ngài Trì-địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ kiếp xưa, khi đức Phật Phổ-quang ra đời, tôi làm tỷ-khưu, thường ở nơi các nẻo đường bến đò, đất-đai hiểm-trở eo-hẹp, không đúng nguyên-tắc, có thể làm tổn-hại đến xe ngựa, thì tôi đều đắp bằng, hoặc làm cầu-cống, hoặc gánh đất cát; siêng-năng khó-nhọc như vậy trong suốt thời-gian vô-lượng Phật ra đời. Hoặc có chúng-sinh, ở nơi chợ-búa, cần người mang đồ-vật, trước tiên tôi mang hộ đến nơi, đến chốn, để đồ-vật xuống, liền đi ngay, không lấy tiền-thuê.

Khi đức Phật Tỳ-xá-phù ra đời, thế-gian phần nhiều đói-kém; tôi cõng giúp người, không kể gần xa, chỉ lấy một đồng tiền; hoặc có xe trâu sa xuống bùn-lầy, tôi dùng sức-mạnh đẩy bánh xe lên cho khỏi khổ-não. Ông vua trong nước thuở đó thết-trai mời Phật; lúc ấy, tôi liền sửa-sang đường đất bằng-phẳng, đợi Phật đi qua. Đức Tỳ-xá Như-lai xoa đỉnh-đầu tôi mà bảo rằng: "Nên bình cái tâm-địa, thì tất-cả đất-đai trên thế-giới đều bình". Tôi liền khai-ngộ, thấy vi-trần nơi thân-thể cùng với tất-cả vi-trần tạo-thành thế-giới đều bình-đẳng không sai khác, tự-tính của vi-trần không chạm-xát nhau, cho đến các thứ đao-binh cũng không đụng-chạm gì; tôi do nơi pháp-tính ngộ được vô-sinh-nhẫn, thành quả A-la-hán, xoay tâm về đại-thừa, nên hiện nay, ở trong hàng Bồ-tát; khi nghe các đức Như-lai dạy về chỗ tri-kiến của Phật như Diệu-liên-hoa, thì tôi chứng-tỏ đầu-tiên, làm vị thượng-thủ. Phật hỏi về viên-thông, do tôi quán-kỹ hai thứ trần nơi căn-thân và khí-giới đều bình-đẳng không sai khác, vốn là Như-lai-tạng giả-dối phát ra trần-tướng; trần-tướng đã tiêu-diệt, thì trí-tuệ được viên-mãn, thành-đạo vô-thượng, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XXII

VIÊN-THÔNG VỀ THỦY-ĐẠI

Ngài Nguyệt-quang-đồng-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Thủy-thiên, dạy hàng Bồ-tát tu-tập phép quán-thủy để vào Tam-ma-đề; nghĩa là quán ở trong thân, tính nước không gì ngăn-ngại, quán từ nước-mũi, nước-bọt cho đến tất-cả các thứ tân, dịch tinh, huyết, đại-tiện, tiểu-tiện; xoay-vần trong thân đều đồng một tính nước, quán thấy nước trong thân cùng nước các bể hương-thủy của Phù-tràng-vương-sát ở ngoài thế-giới, đều bình-đẳng không sai khác.

Tôi trong lúc ấy, mới thành-tựu phép quán nầy, chỉ thấy được nước, chưa được không có thân; lúc đang làm tỷ-khưu, tọa-thiền trong phòng, tôi có người đệ-tử dòm cửa sổ trông vào phòng chỉ thấy nước trong, đầy khắp trong phòng, chứ không có gì; nó nhỏ-dại không biết, liền lấy một miếng ngói ném vào trong nước, đập vào nước phát ra tiếng, ngó quanh rồi bỏ đi; về sau, tôi xuất-định, liền thấy đau tim như ông Xá-lỵ-phất bị con quỷ Vi-hại đập. Tôi tự suy-nghĩ: Nay tôi đã được đạo A-la-hán, đã lâu không còn nhân-duyên mắc bệnh được nữa, làm sao ngày nay lại sinh ra đau tim, không lẽ đã bị thoái-thất rồi chăng? Khi bấy giờ, đệ-tử của tôi đi đến, kể lại cho tôi những việc như trước, tôi mới bảo nó, sau nầy, nếu lại thấy nước, thì nên mở cửa, vào lấy viên ngói trong nước ấy đi. Đệ-tử vâng-lời tôi bảo; về sau, khi tôi nhập-định, nó lại thấy nước với viên ngói rõ-ràng, nó liền mở cửa, lấy viên ngói ra. Sau đó, tôi xuất-định, thì thân-thể lại được như cũ.

Tôi đã gặp được vô-lượng Phật, đến đức Sơn-hải-tự-tại-thông-vương Như-lai, thì tôi mới được không còn thân riêng và cùng với nước bể hương-thủy thập phương thế-giới, đồng một tính chân-không, không hai không khác; hiện nay, ở nơi đức Như-lai, được danh-hiệu là Đồng-chân, dự Hội Bồ-tát. Phật hỏi về viên-thông, tôi do quán tính nước một mực lưu-thông, được phép vô-sinh-nhẫn, viên-mãn đạo Bồ-đề, đó là thứ nhất."

ĐOẠN XXIII

VIÊN-THÔNG VỀ PHONG-ĐẠI

Ngài Lưu-ly-quang Pháp-vương-tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp về trước, có đức Phật ra đời, hiệu là Vô-lượng-thanh; ngài khai-thị tính bản-giác diệu-minh cho các hàng Bồ-tát và dạy quán thế-giới và thân chúng-sinh nầy đều do sức lay-động của vọng-duyên chuyển-biến ra. Tôi lúc bấy giờ, quán cái không-gian an-lập, quán cái thời-gian thiên-lưu, quán cái thân-thể khi động, khi yên, quán cái thức-tâm niệm-niệm sinh-diệt, tất-cả đều lay-động như-nhau, bình-đẳng không sai khác. Khi bấy giờ, tôi giác-ngộ cái tính các thứ động ấy, đến không do đâu, đi không tới đâu; tất-cả chúng-sinh điên-đảo, số như vi-trần trong mười phương đều đồng một hư-vọng; như vậy, cho đến tất-cả chúng-sinh trong một tam-thiên đại-thiên thế-giới, cũng như hàng trăm loài muỗi-mạt đựng trong một đồ-đựng, vo-vo kêu-ầm, ở trong gang-tấc, ồn-ào rối-rít. Tôi gặp Phật chưa bao lâu, thì được pháp vô-sinh-nhẫn; khi bấy giờ, tâm đã khai-ngộ, mới thấy cõi Phật Bất-động phương Đông, làm vị Pháp-vương-tử. Tôi thừa-sự thập phương Phật, thân tâm phát ra sáng-suốt, rỗng-thấu không ngăn-ngại. Phật hỏi về viên-thông, tôi do quan-sát sức lay-động không nương vào đâu, ngộ được tâm Bồ-đề, vào được Tam-ma-địa, hợp với nhất-diệu-tâm mà thập phương Phật truyền-dạy, đó là thứ nhất".

ĐOẠN XXIV

VIÊN-THÔNG VỀ KHÔNG-ĐẠI

Ngài Hư-không-tạng-Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi cùng đức Như-lai chứng được thân vô-biên nơi đức Phật Định-quang; lúc ấy, tay tôi cầm bốn hạt-châu-báu lớn, soi-tỏ cõi Phật thập phương số như vi-trần, đều hóa-thành hư-không; lại ở nơi tự-tâm hiện ra trí đại-viên-kính, trong ấy phóng ra mười thứ hào-quang, vi-diệu quý-báu, soi khắp các Phù-tràng-vương-sát cùng-tột hư-không mười phương, đều vào trong viên-kính ấy, nhập với thân tôi và thân tôi đồng như hư-không, không có ngăn-ngại lẫn nhau, thân tôi lại khéo vào vi-trần quốc-độ, rộng làm việc Phật, được đại-tuỳ-thuận. Thần-lực lớn đó là do tôi quán-kỹ tứ-đại không nương vào đâu, do vọng-tưởng mà có sinh-diệt, hư-không không có hai và cõi Phật vốn là đồng, do phát-minh được tính-đồng mà chứng vô-sinh-nhẫn. Phật hỏi về viên-thông, tôi quán hư-không không bờ-bến; vào Tam-ma-đề, diệu-lực viên-mãn sáng-suốt, đó là thứ nhất".

ĐOẠN XXV

VIÊN-THÔNG VỀ THỨC-ĐẠI

Ngài Di-Lặc Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ vi-trần-kiếp về trước, có đức Phật ra đời tên là Nhật-nguyệt-đăng-minh; tôi được xuất-gia theo đức Phật kia, nhưng tâm còn trọng hư-danh thế-gian, ưa giao-du với các vọng-tộc. Lúc ấy đức Thế-tôn dạy tôi tu-tập định duy-tâm-thức, tôi được vào Tam-ma-đề; trải qua nhiều kiếp đến nay, dùng pháp Tam-muội ấy phụng-sự hằng-sa Phật, tâm cầu hư-danh thế-gian diệt hết không còn. Đến khi đức Phật Nhiên-đăng ra đời, tôi mới được thành-tựu Vô-thượng-diệu-viên-thức-tâm-tam-muội. Tất-cả cõi nước Như-lai tột bờ-bến hư-không, cho đến những điều tịnh, uế, có, không, đều do tâm tôi biến-hóa hiện ra. Bạch Thế-tôn, do tôi rõ được tính duy-tâm-thức như vậy, nên nơi thức-tính, xuất-hiện vô-lượng Như-lai và hiện nay, tôi được thụ-ký, liền sau đây, bổ-xứ thành Phật nơi cõi này. Phật hỏi về viên-thông, tôi dùng phép quán mười phương đều duy-thức, thức-tâm được tròn-sáng, chứng-nhập tính viên-thành-thật, xa-rời tính y-tha-khởi và tính biến-kế-chấp, được pháp vô-sinh-nhẫn, đó là thứ nhất".

ĐOẠN XXVI

VIÊN-THÔNG VỀ KIẾN-ĐẠI

Ngài Đại-thế-chí Pháp-vương-tử cùng với năm mươi hai vị Bồ-tát đồng-tu một pháp-môn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Tôi nhớ hằng-sa kiếp trước, có đức Phật ra đời, tên là Vô-lượng-quang; lúc ấy mười hai đức Như-lai kế nhau thành Phật trong một kiếp đức Phật sau hết, hiệu là Siêu-nhật-nguyệt-quang, dạy cho tôi phép Niệm-Phật-tam-muội. Ví-như có người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, thì hai người ấy, dầu gặp cũng không là gặp, dầu thấy cũng là không thấy; nếu cả hai người đều nhớ nhau, hai bên nhớ mãi, khắc sâu vào tâm-niệm, thì đồng như hình với bóng, cho đến từ đời này sang đời khác, không bao-giờ cách-xa nhau. Thập-phương Như-lai thương-tưởng chúng-sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn-tránh, thì tuy nhớ, nào có ích gì; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹ con không cách-xa nhau. Nếu tâm chúng-sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau, nhất-định thấy Phật; cách Phật không xa thì không cần phương-tiện, tâm tự được khai-ngộ như người ướp-hương thì thân-thể có mùi thơm, ấy gọi là hương-quang-trang-nghiêm. Bản-nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật mà vào pháp vô-sinh-nhẫn, nay ở cõi này tiếp-dẫn những người niệm Phật về cõi Tịnh-độ. Phật hỏi về viên-thông, tôi thu-nhiếp tất-cả sáu căn, không có lựa-chọn, tịnh-niệm kế-tiếp, được vào Tam-ma-đề, đó là thứ nhất."

QUYỂN NHÌ

 

ĐOẠN VIII

CHỈ TÍNH-THẤY KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT

Khi bấy giờ ông A-nan cùng cả đại-chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư-thái, nghĩ mình từ vô-thủy đến nay, bỏ mất bản-tâm, lầm-nhận sự phân-biệt bóng-dáng tiền-trần làm tâm, ngày nay được khai-ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chấp tay lễ Phật, xin đức Như-lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật, ở nơi hiện-tiền phát-minh ra hai tính sinh-diệt, và không sinh-diệt.

Khi ấy vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy-bảo, tôi thấy bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết-bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẩn còn hồ-nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào chứng-biết tính không sinh-diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu-lậu trong đại-chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.”

Phật bảo: “Đại-vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục-thân đó của ông có như kim-cương thường còn, không hư-hỏng hay lại cũng biến-đổi và tan-rã?

- Bạch Thế-tôn, thân tôi hiện nay rốt-cuộc về sau cũng thay-đổi và tiêu-diệt”.

Phật bảo: “Đaị-vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?

- Bạch Thế-tôn, cái thân vô-thường thay-đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt; song tôi xét nó hiện nay niệm-niệm dời-đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất”.

Phật dạy: “Đúng thế, Đại-vương, tuổi-tác của ông nay đã già-yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé thì như thế nào?

- Bạch Thế-tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mớn-mơ, đến khi trưởng-thành, huyết-khí sung-túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy-yếu, hình-sắc khô-gầy, tinh-thần lẫn-lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so-sánh sao được với lúc đương còn trẻ-mạnh!”

Phật bảo: “Đại-vương, hình-dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?”

Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, sự biến-hóa thầm-thầm dời-đổi, tôi thật không hay; nắng mưa thấm-thoát, lần đến thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe-mạnh hơn nhiều. Bạch Thế-tôn, tôi thấy thầm-thầm dời-đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy-yếu, nhưng trong sự thay-đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy-xét chín-chắn hơn nữa thì cái biến-đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay-đổi; lại đâu mỗi năm mỗi thay-đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến-hóa; lại không những mỗi tháng mỗi biến-hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi-thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ, trong mỗi sát-na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân tôi rốt-cuộc phải biến-đổi và tiêu-diệt”.

Phật bảo: “Đại-vương, ông thấy biến-hóa dời-đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?”

Vua Ba-tư-nặc chấp tay bạch Phật: “Thật tôi không biết”.

Phật bảo: “Nay tôi chỉ cho ông cái tính không sinh-diệt, Đại-vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng”.

Vua bạch: “Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết-lễ thần Kỳ-bà-thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng”.

Phật bảo: “Đại-vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dời-đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?”

Vua bạch: “Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác”.

Phật bảo: “Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì không?”

Vua bạch: “Thưa Thế-tôn, không”.

Phật bảo: “Đại-vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay-đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay-đổi. Cái thay-đổi thì phải diệt, còn cái không thay-đổi kia, vốn không sinh-diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn”.

Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin-biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại-chúng nhẩy-nhót vui-mừng, được cái chưa từng có.

ĐOẠN IX

CHỈ CHỖ TRÁI-NGƯỢC

Ông A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sinh-diệt thì làm sao đức Thế-tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ mất chân-tính, làm việc trái-ngược? Xin Phật mở lòng từ-bi, rửa sạch trần-cấu cho chúng tôi”.

Khi ấy Đức Như-lai ruỗi cánh tay kim-sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A-nan rằng: “Ông nay thấy tay Mẫu-đà-la tôi là chính hay là ngược?”

Ông A-nan bạch: “Chúng-sinh thế-gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là chính, thế nào là ngược”.

Phật bảo ông A-nan: “Nếu người thế-gian cho đó là ngược, thì người thế-gian gọi thế nào là chính?”

Ông A-nan bạch Phật: “Đức Như-lai đưa cánh tay lên, tay Đâu-la-miên chỉ lên trên không thì gọi là chính”.

Phật liền giơ cánh tay lên và bảo ông A-nan rằng: “Cái trái-ngược như thế, chỉ là đầu đuôi thay-đổi lẫn nhau; các người thế-gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy cái thân ông và pháp-thân thanh-tịnh của chư Như-lai, so theo đó mà phát-minh, thì thân của Như-lai gọi là chính-biến-tri, thân của các ông gọi là tính trái-ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái-ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là trái-ngược?”

Khi ấy ông A-Nan cùng cả đại chúng chăm-chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay-động, chẳng biết thân tâm chỗ nào trái-ngược. Phật phát-lòng từ-bi, thương-xót ông A-nan và đại-chúng, phát tiếng hải-triều, khắp bảo trong Hội: “Các thiện-nam-tử, tôi thường nói rằng : “Sắc, tâm, các duyên và các tâm-sở, các pháp sở-duyên, đều duy tâm-tính biến-hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong tâm-tính. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm-tính quý-báu ấy, nhận cái mê trong ngộ. Mê-muội thành có hư-không, trong hư-không mê-muội ấy, kết cái mê-muội thành ra có sắc; sắc xen với vọng-tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay-động bên trong, giong-ruổi theo cảnh-vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ-mịt lăng-xăng đó làm tâm-tính. Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết-định lầm cho rằng tâm ở trong sắc-thân, mà không biết sắc-thân, cho đến núi sông, hư-không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong tâm-tính; ví-như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong-lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng-tột các biển lớn. Bọn ông tức là những người mê-lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rủ xuống, không có sai khác. Như-lai gọi là đáng thương-xót đó”.

ĐOẠN X

LỰA-BỎ TÂM PHAN-DUYÊN ĐỂ CHỈ TÍNH-THẤY KHÔNG THỂ TRẢ VỀ ĐÂU

Chi I. - Trình-bày chỗ ngộ, nhưng chưa dám tự-nhận.

Ông A-nan vâng nghe lời Phật từ-bi cứu-độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng: "Tuy tôi vâng nghe diệu-âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường-trụ viên-mãn sẵn có của tâm-tính, nhưng tôi ngộ được pháp-âm của Phật vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan-duyên mà thỏa-mãn chỗ ước-mong. Tôi luống được tâm ấy, chưa dám nhận là tâm-tính bản-lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên-âm, nhổ gốc nghi-ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng."

Chi 2. - Trách còn nhận ngón tay chỉ để lựa ra tâm phân-biệt đều đã có chỗ trả về.

Phật bảo ông A-nan: "Bọn ông còn lấy tâm phan-duyên mà nghe pháp thì cái pháp nhận được đó cũng chỉ là sở-duyên, chứ không phải nhận được pháp-tính. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng. Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa. Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay lại cũng không phân biệt được sáng và tối. Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt trăng sáng thì không rõ biết được hai tính sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy cái phân-biệt pháp-âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân-biệt tiếng nói, có tính phân-biệt.

Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tính phân-biệt? Nói như thế chẳng những đối với tâm phân-biệt các tiếng; cái phân-biệt hình-dung của tôi, rời các sắc-tướng, cũng không có tính phân-biệt; như vậy cho đến cái phân-biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu-xá-ly lầm là minh-đế, thì rời các pháp-trần, cũng không tính phân-biệt. Như vậy tâm-tính của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?"

Chỉ 3. - Khai thị cái thấy không chỗ trả về.

Ông A-nan bạch: "Như tâm-tính của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm-tính của Như-lai dạy, làm sao lại không có chỗ trả về? Xin Phật thương-xót chỉ bảo cho tôi điều ấy."

Phật bảo ông A-nan: "Hãy lấy cái tính thấy của ông thấy tôi đây. Tính thấy ấy tuy không phải là tâm-tính như mặt trăng thứ hai không phải thật là mặt trăng. Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.

A-nan, đại-giảng-đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng trăng, mây mù mờ-mịt thì lại tối-tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông-suốt; chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bịt; chỗ phân-biệt được, thấy cảnh sắc-duyên; trong chỗ rỗng trống, toàn là hư-không; cảnh tượng mù-mịt khi bụi nổi lên; mưa tạnh trời thanh lại thấy trong sạch.

A-nan, ông đều xem rõ các tướng biến-hóa ấy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản-nhân của nó. Thế nào là bản-nhân? A-nan, trong các tướng biến-hóa, cái sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì không mặt trời thì không sáng, nguyên-nhân cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả cho mặt trời. Cái tối trả về cho trăng tối, thông-suốt trả về cho các cửa, ngăn-bịt trả về cho tường nhà, sắc-duyên trả về cho phân-biệt, rỗng trống trả về cho hư-không, mù-mịt trả về cho bụi, trong sáng trả về cho tạnh, và trong thế-gian có những cái gì, cũng không ra ngoài mấy loại ấy.

Còn cái tính-thấy của ông thấy tám thứ kia thì ông định trả về đâu. Vì sao? Nếu trả về cho sáng thì lúc không sáng lại không thấy tối, nay tuy các thứ sáng tối có sai khác, cái thấy không có sai khác. Các cái thấy có thể trả về tự nhiên không phải là ông, còn cái không thể trả về được thì không phải là ông mà là ai nữa? Vậy thì biết tâm ông vốn là nhiệm-mầu trong sạch sáng-suốt, ông tự mê-lầm, bỏ mất tính bản-nhiên mà chịu luân-hồi, thường bị chìm đắm trong bể sống chết, nên Như-lai gọi là đáng thương xót".

ĐOẠN XI

LỰA RIÊNG TRẦN CẢNH ĐỂ NÊU RA TÍNH THẤY

Chỉ I. - Vật không phải ta.

Ông A-nan bạch : "Tuy tôi biết tính-thấy ấy không thể trả về đâu, nhưng làm sao biết được đó là chân-tính của tôi".

Phật bảo ông A-nan : "Nay tôi lại hỏi ông : hiện ông chưa được đạo-quả vô-lậu thanh-tịnh, nhờ thần-lực của Phật, mới thấy được cõi sơ-thiền, không bị ngăn-ngại. Ông A-na-luật thì thấy cõi Diêm-phù-đề như xem quả am-ma-la trong bàn tay. Các vị Bồ-tát thấy trăm nghìn cõi thập phương Như-lai, cùng tột các quốc-độ thanh-tịnh, số như vi-trần, không chỗ nào không thấy. Còn chúng-sinh thì thấy rõ được không quá gang tấc.

A-nan, nay tôi cùng ông hãy xem cung-điện của Tứ-thiên-vương, chặng giữa xem khắp các loài thủy, lục, không, hành, tuy có nhiều hình-tượng sáng tối khác nhau, nhưng không cái gì là không phải tiền-trần chia cắt ngăn ngại. Ông hãy ở nơi đó phân-biệt cái gì là mình, cái gì là vật khác. Nay tôi hãy đưa ông lựa trong sự thấy đó, cái gì là tâm-thể của ông, cái gì là cái hình-tượng của vật. A-nan, cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng đều là vật, chứ không phải ông; đến Thất-kim sơn, xem xét cùng khắp, tuy có những thứ hào-quang nhưng cũng là vật chứ không phải là ông; lần lần xem đến mây kéo, chim bay, gió động, bụi nổi, cây cối núi sông, cỏ rác người vật, đều là vật chứ không phải là ông.

Chi 2. - Cái thấy không phải là vật.

A-nan, các vật gần xa đó, tuy sai khác nhau, nhưng đồng do cái thấy của ông thanh-tịnh trông thấy, thì các thứ vật kia tự có sai khác mà tính-thấy của ông không có sai khác. Cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt đó thật là tính-thấy của ông.

Nếu cái thấy là vật thì ông cũng có thể thấy cái thấy của tôi. Nếu cho rằng đồng thấy sự vật là thấy cái thấy của tôi thì khi tôi không thấy, sao lại không thấy được cái chỗ không thấy của tôi? Nếu nói rằng thấy cái không thấy thì tự-nhiên cái đó không phải là cái tướng của cái không thấy; còn nếu không thấy được chỗ không thấy của tôi, thì cái thấy bản-nhiên không phải là vật, làm sao lại không phải là ông?

Chi 3. - Vật và ta không thể xen lộn.

Lại như cái thấy là vật thì đương khi ông thấy vật đó, ông đã thấy được vật, vật cũng thấy được ông, thế thì thể-tính xen lộn và ông cùng tôi với cả thế-gian không thành-lập được.

A-nan, nếu khi ông thấy là chính ông thấy, chứ không phải tôi, thì cái thấy cùng khắp đó không phải là ông thì còn là ai nữa.

Làm sao lại tự-nghi cái chân-tính của ông. Chân-tính của ông, ông không tự-nhận lấy, lại chấp lời nói của tôi, mà cầu chứng thật".

Chi 4. - Nghi cái thấy có lớn nhỏ đứt nối.

Ông A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, nếu cái tính thấy đó chắc là tôi, chứ không phải ai khác, thì khi tôi cùng Như-lai xem cung-điện quý báo của Tứ-thiên-vương, xem mặt trời mặt trăng, cái thấy ấy cùng khắp cả cõi Sa-bà, khi lui về tịnh-xá thì chỉ thấy cảnh vườn chùa, đến khi thanh tâm nơi phòng chái thì lại chỉ thấy một chái nhà. Thưa Thế-tôn, cái thấy như vậy, bản thể của nó cùng khắp một cõi, nay ở trong phòng thì chỉ thấy một phòng; thế là cái thấy rút lớn thành nhỏ hay là tường nhà chia cắt làm cho đứt đoạn. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật vì tôi từ-bi chỉ rõ".

Chi 5. - Chỉ tiền-trần làm ngăn-ngại.

Phật bảo ông A-nan: "Tất-cả các thứ trong, ngoài, lớn nhỏ của thế-gian đều thuộc về tiền-trần, không nên nói rằng cái thấy có co có ruỗi. Ví như trong đồ vuông thì thấy hư-không vuông; nay tôi hỏi ông: Cái hư-không vuông thấy được trong đồ vuông ấy, là nhất-định vuông hay không nhất-định vuông? Nếu nhất-định vuông thì khi thay đồ tròn vào, lẽ ra hư-không tròn; nếu không nhất định thì trong đồ vuông, lẽ ra không có hư-không vuông. Ông nói không biết nghĩa đó do đâu, nghĩa đó như vậy, sao còn do đâu được.

A-nan, nếu muốn nhận được tính không vuông không tròn, chỉ trừ-bỏ cái vuông của đồ-đạc, chứ bản-thể hư-không vốn không vuông, không nên nói rằng lại phải trừ cả cái vuông của hư-không nữa.

Lại như lời ông hỏi: Khi vào trong phòng, rút cái thấy làm cho nhỏ lại thì khi ngửa xem mặt trời, há lại kéo cái thấy ngang với mặt trời? Nếu xây tường nhà chia-cắt cái thấy làm cho đứt-đoạn, thì đến khi xoi một lỗ nhỏ, sao lại không thấy dấu-nối. Nghĩa ấy không đúng.

Chi 6. - Khai-thị về chuyển được vật.

Tất-cả chúng-sinh từ vô-thủy đến nay, lầm mình là vật, bỏ mất tâm-tính, bị vật xoay-chuyển, cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu biết chuyển được vật thì đồng với Như-lai, thân tâm đều viên-mãn sáng-suốt, nơi đạo-trường bất-động đó, trên đầu một mảy lông cũng có thể trùm-chứa thập phương quốc-độ".

MỤC III

PHẬT NÊU RA TÍNH-THẤY RA NGOÀI CÁC NGHĨA "THỊ" VÀ "PHI-THỊ"
("Thị" thì tức là cái thấy - "Phi-thị" thì ra ngoài cái thấy).

ĐOẠN I

NGHI TÍNH-THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, nếu cái thấy đó, chắc là chân-tính của tôi thì cái chân-tính đó, hiện ở trước mắt tôi; cái thấy đó đã là chân-tính của tôi thì thân tâm tôi, hiện nay, lại là vật gì? Mà nay thân tâm ấy thật có phân-biệt, còn cái thấy kia thì không phân-biệt riêng gì thân tôi. Nếu nó thật là tâm tôi, làm cho tôi hiện nay có thấy, vậy tính-thấy ấy đã thật là tôi, còn thân nầy không phải là tôi thì nào khác gì đức Như-lai trước kia đã hỏi-vặn rằng: " Vật thấy được tôi". Xin Phật rủ lòng đại-từ, chỉ-bày cho chỗ chưa ngộ".

ĐOẠN II

CHỈ RA "KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY"

Phật bảo ông A-nan : "Nay ông nói rằng: Cái thấy ở trước mắt ông, nghĩa ấy không đúng. Nếu thật ở trước mắt ông và ông thật thấy được thì cái thấy đó đã có chỗ ở, không phải không chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ-đà, trông khắp rừng, suối với các điện, đường, trên đến mặt trời, mặt trăng, trước đối với sông Hằng. Nay ông hãy ở trước sư-tử-tọa của tôi, giơ tay chỉ-bày trong các tướng kia, chỗ dâm là rừng, cái sáng là mặt trời, ngăn-ngại là vách, thông-suốt là hư-không, như thế cho đến cỏ cây, mảy-mún, tuy lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì là không chỉ đích ra được. Vậy nếu cái thấy, hiện ở trước mắt ông thì ông hãy lấy tay chỉ rõ đích-xác cái gì là cái thấy. A-nan, ông nên biết, nếu hư-không là cái thấy, thì hư-không đã thành cái thấy, còn cái gì mới là hư-không; nếu vật là cái thấy, thì vật đã là cái thấy, còn cái gì mới là vật. Ông hãy chín-chắn chia-chẻ trong muôn hiện-tượng, tách ra cái thấy, chỉ-bày cho tôi như các vật kia, rõ-ràng không lầm-lẫn".

Ông A-nan bạch: "Nay tôi ở giảng-đường nầy, trông xa đến sông Hằng, trên đến mặt trời, mặt trăng, giơ tay chỉ ra, đưa mắt trông ra, thì những cái chỉ được đều là vật, chứ không có cái gì là cái thấy. Bạch Thế-tôn, như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng hữu-lậu sơ-học Thanh-văn như chúng tôi, mà cho đến các vị Bồ-tát cũng không thể, ở nơi hiện-tượng muôn vật, chỉ ra cái thấy, rời tất-cả vật, riêng có tự-tính".

Phật dạy: "Đúng thế, đúng thế".

ĐOẠN III

CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ RA NGOÀI CÁI THẤY

Phật lại bảo ông A-nan: "Như lời ông nói: Không có cái thấy, rời tất-cả vật, riêng có tự-tính; thì trong tất-cả các vật đã chỉ được, không có cái gì là cái thấy cả. Nay tôi lại bảo ông: Ông cùng Như-lai ngồi trong rừng Kỳ-đà, lại xem rừng vườn cho đến mặt trời mặt trăng, nhiều thứ hình-tượng khác nhau, trong đó, chắc không có cái thấy mà ông có thể chỉ ra được. Vậy ông hãy phát-minh trong các vật đó, có cái gì ra ngoài cái thấy?"

Ông A-nan bạch: "Thật tôi thấy khắp rừng Kỳ-đà nầy, không biết trong đó có cái gì ra ngoài cái thấy. Vì sao? Nếu cái cây ra ngoài cái thấy thì sao lại thấy cây, còn nếu cái cây tức là cái thấy thì sao lại là cây; như thế cho đến nếu hư-không ra ngoài cái thấy, thì sao thấy được hư-không, còn nếu hư-không tức là cái thấy, thì sao lại là hư-không. Tôi lại suy-nghĩ, phát-minh chín-chắn trong muôn hình-tượng, thật không có cái gì ra ngoài cái thấy cả".

Phật dạy: "Đúng thế, đúng thế".

ĐOẠN IV

NGÀI VĂN-THÙ KÍNH XIN PHẬT PHÁT-MINH HAI THỨ

Khi ấy trong đại-chúng, những vị chưa chứng-quả vô-học, nghe Phật dạy như thế, mờ-mịt chẳng biết nghĩa ấy đầu đuôi thế nào, nên đồng-thời sợ-hãi, không giữ được tâm thanh-tịnh.

Đức Như-lai biết đại-chúng tâm-niệm rối-loạn, sinh lòng thương-xót, an-ủi ông A-nan và cả đại-chúng rằng: "Các thiện-nam-tử, bậc vô-thượng Pháp-vương, lời nói chân-thật, như tính chân-như mà nói, không lừa không dối, không phải như bốn thứ luận-nghị càn-giỡ bất-tử của bọn Mạt-già-lê; ông hãy suy-nghĩ cho chín-chắn, chớ phụ lòng thương-mến của tôi".

Lúc ấy ngài Pháp-vương-tử Văn-thù-sư-lỵ thương xót hàng tứ-chúng, ở trong đại-chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ chân Phật, chấp tay cung-kính mà bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, đại-chúng nầy không ngộ được chỗ đức Như-lai phát-minh ra hai nghĩa "thị" và "phi-thị" nơi hai thứ "cái thấy" và "sắc không". Bạch Thế-tôn, nếu những hiện tượng sắc không nơi tiền-cảnh, tức là cái thấy, thì lẽ ra có chỗ chỉ được, còn nếu ra ngoài cái thấy, thì lẽ ra không thể thấy được; mà nay đại-chúng không rõ nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh-sợ, chứ không phải vì trước đây thiện-căn ít-ỏi; kính mong đức Như-lai thương-xót, phát-minh cho rõ các vật-tượng ấy và cái thấy ấy vốn là vật gì, mà ở trong đó, lại không có các nghĩa "thị" và "phi-thị".

ĐOẠN V

CHỈ ĐÍCH TÍNH-THẤY KHÔNG CÓ CÁC NGHĨA "THỊ" VÀ "PHI-THỊ"

Phật bảo ngài Văn-thù cùng cả đại-chúng rằng: "Thập phương Như-lai và các vị đại-Bồ-tát ở trong tự-trụ Tam-ma-điạ, thì cái "thấy", cái "bị-thấy" và các tương-tướng hoa-đốm hư-không, vốn không có gì. Cái "thấy" và cái "bị thấy" đó vốn là tâm-tính Bồ-đề nhiệm-mầu trong-sạch sáng-suốt, làm sao trong đó, lại còn có các nghĩa "thị" và "phi-thị"?

Văn-thù, nay tôi hỏi ông: Như ông đây là Văn-thù, nơi ông lại có cái tức là Văn-thù hay không có Văn-thù?

- Bạch Thế-tôn, đúng thế. Tôi đây thật là Văn-thù, nơi tôi không có cái gì tức là Văn-thù, vì sao? Vì nếu có cái ấy, thì thành ra hai Văn-thù, nhưng tôi hiện nay không phải là không Văn-thù; trong đó thật không có hai tướng "thị" và "phi-thị".

Phật bảo: "Tính-thấy nhiệm-mầu sáng-suốt với các thứ sắc, không thì cũng như vậy. Vốn một tâm-tính vô-thượng Bồ-đề, lầm-nhận là sắc, không cùng với nghe, thấy, như dụi con mắt, thấy có hai mặt trăng, thì mặt trăng nào mới thật là mặt trăng, còn mặt trăng nào lại không phải là mặt trăng. Văn-thù, chỉ có một mặt trăng thật, trong ấy tự không có cái gì thật là mặt trăng hay không phải là mặt trăng. Vậy nên hiện nay, các ông phát-minh ra các thứ xem-thấy và trần-cảnh, đều gọi là vọng-tưởng, không thể ở trong đó, chỉ ra các nghĩa "thị" và "phi-thị". Nhưng do tất-cả đều là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt nên có thể làm cho các ông ra ngoài các nghĩa "chỉ được" và "không chỉ được".

MỤC IV

PHÁ NHỮNG THUYẾT NHÂN-DUYÊN TỰ-NHIÊN ĐỂ BÀY-TỎ SỰ THẬT NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY

ĐOẠN I

NGHI TÂM-TÍNH TỰ-NHIÊN NHƯ THẦN-NGÃ

Ông A-nan bạch Phật rằng: "Thưa Thế-tôn, thật như lời Pháp-vương dạy, tâm-tính cùng khắp thập phương thế-giới, yên-lặng thường-trụ, không có sinh-diệt; điều ấy so với thuyết ông Phạm-chi Sa-tỳ ca-la ngày xưa nói về minh-đế, hay các thuyết ngoại-đạo như bọn Đầu-hói nói có chân-ngã cùng khắp mười phương, khác nhau thế nào? Ở núi Lăng-già, đức Thế-tôn đã từng, vì các ông Đại-tuệ, chỉ-dạy rằng: Bọn ngoại-đạo kia thường nói tự-nhiên, còn Phật nói nhân-duyên, không phải cảnh-giới của bọn kia. Nay tôi xét cái tâm-tính đó tự-nhiên, không phải sinh, không phải diệt, xa-rời tất-cả các điều trái-ngược, luống-dối, giống như không phải là nhân-duyên, cũng không phải là cái tự-nhiên của bọn kia. Xin Phật khai-thị thế nào, cho chúng tôi khỏi mắc tà-kiến và được tâm-tính trong-sạch nhiệm-mầu sáng-suốt".

ĐOẠN II

CHỈ RA KHÔNG PHẢI LÀ TỰ-NHIÊN

Phật bảo ông A-nan: "Nay tôi phương-tiện chỉ-bày, chân-thật bảo ông như vậy, ông còn chưa ngộ, lại lầm là tự-nhiên. A-nan, nếu chắc là tự-nhiên, tự phải chỉ rõ thể-tính tự-nhiên. Ông hãy xét cái tính-thấy kia lấy cái gì làm tự-thể. Cái thấy đó lại là lấy cái sáng làm tự-thể, lấy cái tối làm tự-thể, lấy hư-không làm tự thể hay lấy ngăn-bịt làm tự-thể. A-nan, nếu lấy cái sáng làm tự-thể thì lẽ ra không thấy được tối, nếu lấy hư-không làm tự-thể thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt, như vậy cho đến lấy các tướng tối mà làm tự-thể thì đến khi sáng, tính-thấy đã diệt mất rồi, làm sao còn thấy được sáng ?"

ĐOẠN III

NGHI LÀ NHÂN-DUYÊN

Ông A-nan bạch : "Chắc cái tính-thấy ấy không phải là tự-nhiên, thì nay tôi phát-minh được, nó do nhân-duyên mà sinh; nhưng tâm còn chưa rõ, xin hỏi đức Như-lai, nghĩa-lý thế nào cho hợp với tính nhân-duyên".

ĐOẠN IV

CHỈ RA TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ NHÂN-DUYÊN VÀ KẾT-LUẬN TÍNH-THẤY RỜI CÁC DANH-TƯỚNG

Phật dạy: "Ông nói nhân-duyên, tôi lại hỏi ông: Nay ông do nhân-duyên mà có thấy; tính-thấy hiện trước đó, vậy tính-thấy, ấy lại là nhân cái sáng mà có thấy, nhân cái tối mà có thấy, nhân hư-không mà có thấy hay nhân ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu tính-thấy nhân cái sáng mà có, thì lẽ ra không thấy được tối, còn như nhân cái tối mà có, thì lẽ ra không được sáng; như vậy cho đến nhân hư-không, nhân ngăn-bịt, thì cũng đồng như nhân cái sáng và cái tối. Lại nữa, A-nan, cái thấy ấy lại là nương cái sáng mà có thấy, nương cái tối mà có thấy, nương hư-không mà có thấy hay là nương ngăn-bịt mà có thấy? A-nan, nếu nương hư-không mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được ngăn-bịt; nếu nương ngăn-bịt mà có thấy, thì lẽ ra không thấy được hư-không; như vậy cho đến nương cái sáng, nương cái tối cũng đồng như nương hư-không, nương ngăn-bịt. Nên biết tính-thấy như vậy, không phải nhân, không phải duyên, không phải tự-nhiên, cũng không phải không tự-nhiên, không có nghĩa "không phải" hay "không không phải", không có nghĩa "tức là" hay "không tức là", rời hết tất-cả các tướng, tức là tất-cả sự vật; làm sao trong ấy, ông lại định đem các danh-tướng hí-luận thế-gian mà phân biệt cho được. Thế cũng như lấy bàn tay, nắm-bắt hư-không, chỉ thêm nhọc sức, chứ làm sao hư-không lại để cho ông nắm-bắt".

ĐOẠN V

LẠI NGHI NHÂN-DUYÊN

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, chắc cái tâm-tính ấy, không phải nhân-duyên, thế sao đức Thế-tôn lại thường chỉ-dạy cho các hàng tỷ-khưu rằng : Tính-thấy có bốn thứ nhân-duyên, nghĩa là nhân hư-không, nhân ánh-sáng, nhân cái tâm và nhân con mắt. Nghĩa đó thế nào?

ĐOẠN VI

PHẬT LẠI BÁC NHÂN-DUYÊN, TỰ-NHIÊN ĐỂ NÊU RA TÍNH-THẤY RỜI CẢ BỐN TƯỚNG

Phật bảo : A-nan, tôi nói như thế là nói về các tướng nhân-duyên thế-gian, đó không phải là đệ-nhất-nghĩa. A-nan, tôi lại hỏi ông : Các người thế-gian nói : Tôi thấy được, thì thế nào, họ gọi là thấy, còn thế nào, họ gọi là không thấy?"

Ông A-nan bạch : Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, thấy các hình-tướng, thì gọi là thấy, còn nếu không có ba thứ ánh sáng đó, thì không thể thấy được."

- A-nan, nếu khi không sáng mà gọi là không thấy, thì lẽ ra không thấy được tối; nếu đã thấy được tối, thì khi đó, chỉ là không sáng, chứ đâu phải là không thấy. A-nan, nếu trong lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy; vậy nay, trong lúc sáng, không thấy cái tối, thì lại cũng phải gọi là không thấy; thế thì cả hai lúc sáng, tối, cũng đều gọi là không thấy cả. Còn nếu như hai cái sáng và tối tự lấn-át nhau, chứ không phải trong đó, tính-thấy của ông tạm-thời không có; thế thì biết cả hai lúc đều gọi là thấy, chứ sao lại gọi là không thấy. A-nan, vì vậy ông nên biết rằng : Trong lúc thấy sáng, cái thấy không phải là cái sáng, trong lúc thấy tối, cái thấy không phải là cái tối, trong lúc thấy hư-không, cái thấy không phải là hư-không, trong lúc thấy ngăn-bịt, cái thấy không phải là ngăn-bịt.

ĐOẠN VII

CHỈ THẲNG SỰ THẬT NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY

"Bốn nghĩa đó đã thành-lập rồi, ông lại nên biết : Khi nhận-thấy tính-thấy thì tính-thấy không phải là cái thấy. Tính-thấy còn rời cả cái thấy và cái thấy không thể đến nơi tính-thấy được; làm sao, ông còn nói đến những nhân-duyên, tự-nhiên và tướng hòa-hợp? Bọn Thanh-văn ông hẹp-hòi không biết, không thông-suốt được sự thật thanh-tịnh, nay tôi chỉ-dạy cho ông, ông nên khéo suy-nghĩ, không được trễ-nãi trên đường Bồ-đề nhiệm-mầu".

MỤC V

CHỈ RA CÁI NHẬN-THỨC SAI-LẦM ĐỂ BÀY-TỎ THỂ-TÍNH CHÂN-THẬT

ĐOẠN I

XIN CHỈ-DẠY CÁI NGHĨA : NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CÁI THẤY

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như đức Thế-tôn, vì bọn chúng-tôi, chỉ-dạy về nhân-duyên, tự-nhiên các tướng hòa-hợp và không hòa-hợp, tâm tôi còn chưa khai-ngộ; nay lại nghe Phật dạy "nhận-thấy tính-thấy không phải là cái thấy" thì càng thêm lúng-túng, cúi xin Phật thương-xót, bố-thí cho con mắt đại-trí-tuệ, chỉ-bày cho chúng tôi tâm-tính trong-sạch sáng-suốt". Ông A-nan nói như vậy rồi, khóc lóc đỉnh-lễ, vâng nghe thánh-chỉ của Phật.

ĐOẠN II

TRƯỚC KHI DẠY PHÉP TỔNG-TRÌ, DẶN-BẢO PHẢI NGHE CHO CHÍN-CHẮN

Khi bấy giờ. đức Thế-tôn thương-xót ông A-nan và cả đại-chúng, định sẽ chỉ-dạy phép đại-tổng-trì là con đường tu-hành nhiệm-mầu các pháp Tam-ma-đề, bảo ông A-nan rằng : "Ông tuy nhớ lâu, chỉ thêm phần học rộng, nhưng nơi vi-mật quán chiếu Xa-ma-tha, tâm còn chưa rõ. Nay ông hãy nghe cho chín-chắn, tôi sẽ vì ông phân-tích chỉ-bày, đồng-thời cũng khiến cho những kẻ hữu-lậu tương-lai được quả Bồ-đề.

ĐOẠN III

CHỈ RA HAI THỨ NHẬN-THỨC SAI-LẦM

Chi 1. - Chỉ ra hai thứ sai-lầm

A-nan, tất-cả chúng-sinh luân-hồi trong thế-gian đều do hai nhận-thức sai-lầm, phân-biệt trái-ngược, chính nơi tâm-tính mà phát-sinh, chính theo nghiệp-báo mà xoay-vần. Hai nhận-thức ấy là gì? Một là nhận-thức sai-lầm nghiệp riêng của chúng-sinh, hai là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung của chúng-sinh.

Chi 2. – Nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng.
Thế nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng? A-nan, như người thế-gian, con mắt bị bệnh lòa thì ban đêm trông ngọn đèn, riêng có thấy bóng tròn ngũ sắc bao-phủ. Ý ông nghĩ thế nào? Cái bóng tròn hiện ra nơi ngọn đèn, đó, là sắc của ngọn đèn hay là sắc của cái thấy? A-nan, nếu như là cái sắc của ngọn đèn, thì sao những người không lòa lại không cùng thấy, mà chỉ có người lòa mới thấy bóng tròn. Nếu như là sắc của cái thấy, thì cái thấy đã thành sắc rồi, còn cái người lòa kia thấy được bóng tròn thì gọi là cái gì?

Lại nữa, A-nan, nếu cái bóng tròn kia ngoài ngọn đèn, riêng mình tự có, thì lẽ ra khi trông qua bình-phong, bức màn, bàn trà, ghế ngồi, đều có bóng tròn hiện ra; còn nếu ngoài cái thấy, bóng tròn, riêng mình tự có, thì lẽ ra không thể thấy được, làm sao người lòa lại thấy bóng tròn. Vậy nên biết rằng : Sắc thật ở nơi ngọn đèn, cái thấy bị bệnh làm ra có bóng tròn. Cả cái bóng tròn và cái thấy bóng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì cái nhận thấy đó không phải là bệnh; rốt-cuộc không nên nói rằng bóng tròn là ngọn đèn hay là cái thấy, trong đó còn có bệnh lòa không phải ngọn đèn, không phải cái thấy. Ví như mặt trăng thứ hai, không phải thật-thể mặt trăng và cũng không phải là cái bóng của mặt trăng. Vì sao? Vì thấy có mặt trăng thứ hai là do dụi mắt mà thành ra vậy. Các người có trí, không nên bảo rằng mặt trăng dụi mắt mà thành ra đó, là hình-tướng hay không phải là hình-tướng, là ra ngoài cái thấy hay không ra ngoài cái thấy. Bóng tròn cũng như vậy, nó do bệnh lòa mắt mà thành; nay dầu muốn gọi cái gì là ngọn đèn hay là cái thấy cũng không được, huống nữa, còn phân-biệt là không phải nhọn đèn hay không phải là cái thấy!

Chi 3. - Nhận thức sai-lầm nghiệp-chung.

Thế nào gọi là nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung?

A-nan, cõi Diệm-phù-đề này, trừ nước biển-cả ra, trong đó đất-bằng có 3.000 châu, châu lớn chính giữa, bao-quát từ Đông sang Tây, có đến 2.300 nước lớn. Còn các châu nhỏ khác ở trong các biển, trong đó có châu đến 200, 300 nước hoặc có một chục, hai chục, cho đến 30, 40, 50, nước. A-nan, nếu ở trong đó có một châu nhỏ, chỉ có hai nước, mà riêng người trong một nước đồng-cảm ác-duyên, thì chúng-sinh trong nước đó thấy tất-cả những cảnh-giới không tốt; hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, cho đến thấy nhiều ác-tướng khác, như vựng, thích, bội, quyết, tuệ, bột, phi, lưu, phụ-nhĩ, hồng-nghê; chỉ nước đó thấy, còn chúng-sinh nước bên kia, thì vốn không thấy và cũng không nghe.

ĐOẠN IV

SO-SÁNH CÁI THẤY HIỆN-TIỀN ĐỂ CHỈ RÕ Ý-NGHĨA : "NHẬN-THẤY TÍNH-THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CÁI THẤY" XA-RỜI TƯỚNG HÒA-HỢP, VIÊN-MÃN ĐẠO BỒ-ĐỀ.

Chi 1. - Dùng nhận-thức nghiệp-riêng để chỉ rõ thế nào là nhận-thấy tính-thấy.

"A-nan, tôi nay đem hai việc đó, lui tới kết-hợp mà chỉ rõ.

A-nan, như cái nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của chúng-sinh kia, thấy nơi ngọn đèn hiện ra bóng tròn, tuy giống như tiền-cảnh, nhưng rốt-cuộc là do bệnh lòa của người ấy tạo-thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải do sắc-tướng tạo ra; song người nhận-thấy được bệnh lòa vẫn không có lỗi-lầm gì về cái thấy cả.

So-sánh với hiện nay, ông dùng con mắt xem thấy núi sông, cõi nước và các chúng-sinh, đều là do bệnh thấy vô-thủy tạo-thành. Cái thấy và cái bị thấy duyên nhau, hình-như hiện ra tiền-cảnh, thật-chất vốn là bệnh lòa, năng-kiến sở-kiến của tâm-tính mà thôi.

Giác-ngộ rằng thấy như thế tức là bệnh lòa, thì cái tâm giác-ngộ đó nhận-thức không lòa. Giác-ngộ thấy như thế là bệnh lòa, thì cái giác-ngộ đó không phải trong phạm-vi bệnh lòa; đó thật là nhận-thấy tính-thấy, sao còn gọi là thấy, nghe, hay, biết.

Vậy nên nay ông thấy tôi cùng ông và thập loại chúng-sinh trong thế-gian đều là thấy lòa, chứ không phải là thấy được cái bị bệnh lòa. Cái tính-thấy chân-thật kia, vốn ra ngoài bệnh lòa, cho nên không gọi là cái thấy.

Chi 2. - Lấy nghiệp-chung so với nghiệp-riêng đi đến nhận-rõ sự thật mười phương.

A-nan, như lấy nhận-thức sai-lầm nghiệp-chung kia của chúng-sinh, so với nhận-thức sai-lầm nghiệp-riêng của một người, thì một người đau mắt cũng đồng như cả một nước kia; người đau mắt thấy bóng tròn là do bệnh lòa giả-dối sinh ra; còn trong một nước kia, hiện ra các thứ không tốt là do ác-duyên nghiệp-chung của chúng-sinh tạo nên; cả hai đều do nhận-thức sai-lầm vô-thủy giả-dối sinh ra. Tỷ-lệ với 3000 châu, với bốn biển lớn trong cõi Diêm-phù-đề, với thế-giới Sa-bà cho đến nước hữu-lậu và các chúng-sinh trong mười phương, đồng là nơi tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, các bệnh duyên thấy, nghe, hay, biết, sai-lầm, hòa-hợp giả-dối sinh ra, hòa-hợp giả-dối diệt mất. Nếu xa-rời được các bệnh duyên hòa-hợp và không hòa-hợp thì cũng diệt-trừ được các nguyên-nhân chết sống, đầu-đủ tính Bồ-đề không sinh-diệt, bản-tâm thanh-tịnh, bản-giác thường an-trụ.

Chi 3. - Phá xích nghĩa hòa-hợp.

A-nan, ông tuy đã ngộ tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt, vốn không phải nhân-duyên, không phải tự-nhiên, nhưng còn chưa rõ tâm-tính như vậy không phải hòa-hợp mà sinh, cũng không phải không hòa-hợp.

A-nan, nay tôi lại lấy nơi tiền-trần hỏi ông, ông còn đem tất-cả những tính nhân-duyên hòa-hợp của tư-tưởng sai-lầm thế-gian mà tự nghi-ngờ rằng chứng tâm Bồ-đề cũng do hòa-hợp mà phát-khởi. Thì hiện nay, cái thấy của ông lại là hòa với cái sáng, hòa với cái tối, hòa với cái thông-suốt hay hòa với cái ngăn-bịt? Nếu hòa với cái sáng thì ông đang thấy sáng, cái sáng hiện đó, vậy chỗ nào xen-lộn với cái thấy? Cái thấy cái sáng có thể nhận-rõ, còn hình-trạng xen-lộn, thì như thế nào? Nếu cái sáng ra ngoài cái thấy, thì làm sao thấy được sáng? Còn nếu cái sáng tức là cái thấy, thì làm sao lại thấy được cái thấy? Như cái thấy cùng khắp, thì còn chỗ nào hòa được với cái sáng, còn như cái sáng cùng khắp, thì lẽ ra không hòa được với cái thấy. Cái thấy đã khác với cái sáng thì khi xen-lộn vào, tất phải làm mất tính-cách của cái sáng. Cái thấy xen vào, làm mất tính-cách của cái sáng mà nói hòa với cái sáng là không đúng nghĩa. Đối với cái tối, cái thông-suốt và cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.

Lại nữa, A-nan, hiện nay cái thấy nhiệm-mầu sáng-suốt của ông lại là hợp với cái sáng, hợp với cái tối, hợp với cái thông-suốt hay hợp với cái ngăn-bịt? Nếu hợp với cái sáng thì đến khi tối, cái sáng đã mất rồi, cái thấy đó đã không hợp với cái tối, làm sao thấy được cái tối? Nếu khi thấy tôi mà không hợp với cái tối thì lẽ ra khi hợp với cái sáng, không thấy được cái sáng; mà đã không thấy được sáng thì làm sao họp với cái sáng và rõ-biết cái sáng không phải là tối. Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy".

Chi 4. - Phá xích nghĩa không hòa-hợp.

Ông A-nan bạch Phật rằng : "Thưa Thế-tôn, như chỗ tôi suy-nghĩ, cái tâm-tính ấy đối với các trần-cảnh và các tâm-niệm nhớ-nghĩ, không hòa-hợp chăng?"

Phật dạy: "Nay ông lại nói tâm-tính không hòa-hợp thì tôi lại hỏi ông : Cái tính-thấy gọi là không hòa-hợp đó, lại là không hòa với cái sáng, không hòa với cái tối, không hòa với cái thông-suốt, hay không hòa với cái ngăn-bịt? Nếu không hòa với cái sáng, thì giữa cái thấy và cái sáng phải có ranh-giới. Ông nay hãy xét cho kỹ : Chỗ nào là cái sáng, chỗ nào là cái thấy. Nơi cái thấy và nơi cái sáng, thì lấy từ đâu làm ranh-giới. A-nan, nếu bên cái sáng, chắc không có cái thấy, thì hai cái không đến với nhau, cái thấy tự-nhiên không biết được cái sáng ở đâu, làm sao mà thành-lập được ranh-giới. Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.

Lại cái thấy, gọi là không hòa-hợp đó, là không hợp với cái sáng, không hợp với cái tối, không hợp với cái thông-suốt hay không hợp với cái ngăn-bịt? Nếu không hợp với cái sáng, thì cái thấy với cái sáng, tính trái-ngược nhau, như cái nghe với cái sáng, không đụng chạm gì với nhau cả; thế thì, cái thấy còn không biết cái sáng ở đâu, làm sao phát-minh được những lẽ hợp hay không hợp? Đối với cái tối, cái thông-suốt, cái ngăn-bịt thì cũng như vậy.

MỤC VI

TÓM-THU BỐN KHOA VÀ BẢY ĐẠI VỀ NHƯ-LAI-TẠNG ĐỂ PHÁT-KHỞI CHỔ CHÂN-NGỘ

ĐOẠN I

TÓM-THU

"A-nan, ông còn chưa rõ tất-cả các tướng huyễn-hóa nơi tiền-trần, chính nơi tâm mà sinh ra, rồi theo nơi tâm mà diệt mất. Cái huyễn-hóa giả-dối gọi là tướng, mà cái tính chính là tâm-tính nhiệm-mầu sáng-suốt; như vậy, cho đến 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ và 18 giới, nhân-duyên hòa-hợp giả-dối có sinh ra, nhân-duyên chia-lìa giả-dối gọi rằng diệt; mà không biết rằng sinh, diệt, đi, lại đều vốn là tính chân-như cùng khắp, không lay-động, nhiệm-mầu, sáng-suốt, thường-trụ của Như-lai-tạng. Trong tâm-tính chân-thường đó, cầu cho ra những cái đi, lại, mê, ngộ, sống, chết, hẳn không thể được.

ĐOẠN II

THU NĂM ẤM LÀ SẮC, THỤ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC

Chi I. - Thu sắc-ấm.
"A-nan, làm sao 5 ấm vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng. A-nan, ví như có người đem con mắt trong-sạch, xem hư-không trong sáng, chỉ thấy một hư-không trong-sáng, hẳn không thấy gì. Người kia, không lý do gì, lại bắt con mắt không lay-động; ngó chăm mãi, phát ra mỏi-mệt thì ở giữa hư-không, riêng thấy có hoa-đốm lăng-xăng và có tất-cả những tướng giả-dối lộn-xộn; nên biết sắc-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, các hoa-đốm lăng-xăng ấy, không phải từ hư-không mà đến, không phải từ con mắt mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã từ hư-không mà đến, rồi phải trở vào hư-không; mà đã có ra có vào, thì không phải là hư-không nữa. Hư-không, nếu lại không phải là hư-không, thì tự-nhiên không thể dung-nạp hoa-đóm sinh-diệt trong ấy, như thân-thể ông A-nan, không dung-nạp được một ông A-nan nữa.

Nếu, hoa-đốm từ con mắt mà ra, thì đã từ con mắt mà ra, rồi phải trở vào con mắt; lại cái tính hoa-đốm ấy đã từ con mắt mà ra, thì lẽ ra phải có thấy. Nếu như có thấy thì khi đi ra, đã làm hoa-đốm giữa hư-không, đến khi xoay về, phải thấy được con mắt. Nếu không có thấy, thì khi đi ra đã làm mờ hư-không, đến khi trở về phải làm mờ con mắt. Lại như thế, khi thấy hoa-đốm, lẽ ra con mắt không mờ, làm sao, chỉ khi thấy hư-không trong suốt, thì mới gọi là con mắt trong-sáng? Vậy nên biết rằng sắc-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 2. - Thu Thụ-ấm.

A-nan, ví như có người tay chân yên-ổn, trăm vóc điều-hòa, bỗng như quên mình, không có gì là trái là thuận; người ấy không lý do gì, lấy hai bàn tay xoa nhau giữa hư-không, thì nơi hai bàn tay giả-dối sinh ra những cảm xúc trơn, rít, lạnh, nóng. Nên biết thụ-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, các cảm-xúc giả-dối kia, không phải từ hư-không mà đến, không phải từ bàn tay mà ra. Thật vậy, A-nan, nếu từ hư-không mà đến, thì đã sinh cảm-xúc nơi bàn tay, sao lại không sinh cảm-xúc nơi thân-thể, không lẽ hư-không lại biết lựa chỗ sinh ra cảm-xúc. Nếu như từ bàn tay mà ra, thì lẽ ra không cần hai bàn tay phải hợp lại. Lại đã từ bàn tay mà ra, thì khi bàn tay hợp lại, biết có cảm-xúc, đến khi bàn tay rời ra, thì cảm-xúc phải chạy vào và xương tủy cánh tay, lẽ ra phải biết đường vào của cảm-xúc; rồi lại phải có tâm hay-biết, biết ra, biết vào, và phải có một vật đi lại trong thân, sao lại phải chờ đến hai tay hợp lại mới gọi là cảm-xúc.Vậy nên biết rằng thụ-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 3. - Thu tưởng-ấm

A-nan, ví như có người, khi nghe nói đến quả mơ chua thì trong miệng có nước bọt chảy ra; khi nghĩ đến đứng trên dốc cao thì lòng bàn chân ghê-rợn. Nên biết tưởng-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, câu chuyện mơ chua như thế, không phải do quả mơ sinh ra, không phải do cái miệng mà vào. Thật vậy, A-nan, nếu do quả mơ sinh ra, thì quả mơ tự nói lấy, sao phải đợi người ta nói; nếu do cái miệng mà vào, thì lẽ ra cái miệng tự nghe lấy, cần gì đến lỗ tai; nếu riêng mình lỗ tai nghe, thì nước bọt kia, sao không từ lỗ tai chảy ra. Câu chuyện nghĩ đến đứng trên dốc cao cũng giống như vậy. Vậy nên biết rằng tưởng-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 4. - Thu hành-ấm.

A-nan, ví như dòng nước dốc, sóng mòi nối nhau, lớp trước lớp sau, không vượt khỏi nhau. Nên biết hành-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, dòng nước như vậy không nhân hư-không mà sinh, không nhân nước mà có, không phải tính nước, cũng không ra ngoài hư-không và nước. Thật vậy, A-nan, nếu nhân hư-không mà sinh, thì cả thập phương hư-không vô cùng tận, phải thành dòng nước vô cùng tận và tự-nhiên thế-giới đều bị chìm-đắm cả. Nếu nhân nước mà có, thì dòng nước dốc ấy bản-tính lẽ ra không phải là nước nữa và hiện nay, đã có thể chỉ ra hai tướng của nước và của dòng nước khác nhau. Nếu dòng nước dốc tức là tính nước thì khi nước đứng lại, lẽ ra không phải là nước nữa; nếu ra ngoài hư-không và nước thì không có cái gì ở ngoài hư-không và, ngoài nước ra, không thể có dòng nước. Vậy nên biết rằng hành-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 5. - Thu thức-ấm.

A-nan, ví như có người lấy bình tần-già, bịt cả hai lỗ, rồi vác đầy bình hư-không, đi xa nghìn dặm, đem cho nước khác. Nên biết thức-ấm cũng lại như vậy.

A-nan, cái hư-không đó, không phải đến từ phương kia, cũng không phải đưa vào phương nầy. Thật vậy, A-nan, nếu đến từ phương kia, thì trong cái bình đã đựng hư-không đem đi, ở chỗ cũ cái bình phải thiếu hư-không; nếu đưa vào phương nầy, thì khi mở miệng bình trút ra, phải thấy hư-không ra. Vậy nên biết rằng thức-ấm là giả-dối, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567