Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Từ Bi và Trí Tuệ (Con người và Đạo Phật, Mê hay Ngộ)

16/01/201202:11(Xem: 10324)
07. Từ Bi và Trí Tuệ (Con người và Đạo Phật, Mê hay Ngộ)

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
TỪ BI và TRÍ TU
(Con người và Đạo Phật, Mê hayNgộ)

Đạo Phật là đạo Từ Bi Hỷ Xả, cứu khổ giải thoát và Trí Tuệ giác ngộ bình đẳng với mục đích làm lợi ích an lạc cho chúng sinh, nhân loại là mục tiêu chính.

Từ bi hỷ xả: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi là TỪ. Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là BI. Đây là 2 trong 4 vô lượng tâm. (Đại Từ Đại Bi thương chúng sinh). Từ còn có nghĩa là hiền lành, phúc hậu, bỏ các điều dữ, làm các việc lành, nhân đức, ăn ở có hậu. HỶ là vui mừng, thường vui vẻ đối với tất cả mọi người; mình làm được điều gì tốt hay thấy người khác làm được các việc lợi ích, tốt đẹp đều lấy làm vui mừng. XẢ là dứt bỏ, dứt bỏ những chuyện thị phi, ác độc, không tốt, không hợp với nhân nghĩa, đạo lý, cần phải cương quyết dứt bỏ, không lưu tâm phiền não. (Đại Hỷ Đại Xả cứu muôn loài)

Thiện căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Cứu khổ giải thoát: Cứu gỡ cả cho mình và cho người cùng được thoát khỏi những cảnh khổ đau, phiền não, thấy người khác đau khổ, uất ức bị chèn ép mình cũng phải chia sẻ cảnh hoạn nạn đó. “Thương người như thể thương thân”. Tìm mọi cách để cứu vớt người ta được thoát khỏi cảnh đau khổ đó, mọi người đều được giải thoát lìa bỏ mọi trói buộc mà được tự tại về cả vật chất đến tinh thần.

Trí Tuệ Giác Ngộ: (thuật ngữ) Janàma, Prajnà. Tiếng Phạn Nhã-na dịch là Trí, Bát Nhã dịch là Tuệ. Quyết đoán là Trí, Tuyển chọn là Tuệ. Còn chỉ biết rõ Tục đế gọi là Trí, sáng tỏ Chân đế gọi là Tuệ. Đại thừa nghĩa kinh, Q.9: Chiếu kiến gọi là Trí, sáng tỏ gọi là Tuệ. Các kinh điển và tất cả các pháp môn của đức Phật để lại không ngoài mục đích làm cho chúng sinh có một trí tuệ sáng suốt, hầu thích ứng với mọi hoàn cảnh trong cuộc sống hàng ngày và nhất là mỗi người đều thoát ra khỏi cảnh mê lầm (vô minh), không mê tín dị đoan, không chạy theo tà ma ngoại đạo. Chủ yếu của đạo Phật là dậy chúng sinh giải thoát mọi khổ đau, muốn được giải thoát phải xây dựng trên nền tảng giác ngộ. Trước phải giác ngộ sau mới giải thoát. Nhận rõ lý nhân qủa và lý nhân duyên đó là tác dụng của trí tuệ.

Sự giải thoát chỉ đạt được trong sự giác ngộ hoàn toàn với lòng từ bi vô lượng. Sự giác ngộ chính là sự phát triển tột đỉnh của trí tuệ, là sự hiểu biết toàn diện. Tâm trí con người bị vô minh phiền não che lấp không nhìn thấy bản tính chân thật của sự vật, sự việc, đã vô minh thì không phân tách được cái nào đúng, cái nào sai, ai nói cũng phải, cái nào cũng hay, không nhạy bén và thích ứng kịp thời được những sự việc khi xảy đến, đó là con người không có trí tuệ. Nếu còn vô minh thì làm sao có trí tuệ. Nhưng nếu chỉ có trí tuệ mà không có Từ Bi thì cũng vô ích con người ấy sẽ đi đến chỗ tự tôn, tự cao, tự đại dễ làm những điều ác. Do đó, từ bi mà không có trí tuệ là từ bi què mà trí tuệ mà không có từ bi là trí tuệ mù.

Tâm trí của con người bị vô minh phiền não che lấp, không nhận chân được thế nào là sự thật thì đó chính là nguyên nhân đưa đến sự đau khổ. Sự khổ đau đó chỉ chấm dứt khi nào tâm con người được trong sáng, không còn ngộ nhận, không còn chấp ngã. Quá trình tu tập để phát triển trí tuệ, làm sáng cái đức sáng, thân với nhân tâm thì đạt được hạnh phúc. Tham vọng ích kỷ được chuyển hoá thành vị tha, hận thù được chuyển hoá thành từ bi, mê muội được chuyển hóa thành trí tuệ. Trong quá trình chuyển hóa đó nội tâm được gạn lọc. Những cặn bã vô minh được tẩy trừ, để tâm trí hoàn toàn trong sáng. Đó chính là cao điểm của trí tuệ và sự giác ngộ vậy.

Bồ Tát Quan Thế Âm, trong kinh Phổ Môn, với hạnh nguyện cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, ngài lắng nghe tiếng kêu đau thương của chúng sinh để thị hiện cứu độ. Nơi nào có tiếng kêu đau thương nơi đó ngài thị hiện. Bồ Tát Quan Thế Âm đã phát nguyện “Khi nào trong chúng sinh không còn đau khổ, lúc đó ngài mới nhập niết bàn”. Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát phát nguyện xuống địa ngục để cứu độ chúng sinh với đại nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh vị tận phương chứng Bồ Đề”. (Khi nào địa ngục chưa trống hết thì tôi chưa thành Phật, lúc nào chúng sinh chưa khỏi luân hồi thì tôi chưa chứng Bồ Đề). Với đại nguyện đó Bồ Tát Địa Tạng đã xông pha vào các tầng địa ngục để cứu vớt chúng sinh.

Trong khi đó, từ quá khứ cho đến hiện tại đã có những tôn giáo mệnh danh là các đấng tối cao, thần thánh hóa cá nhân tạo ra những giáo điều để mê hoặc con người thiếu trí tuệ vẫn phó thác thân xác và tâm linh cho một vị thần thánh nào đó được tôn sùng như một vị thiêng liêng tối thượng, có phép lạ mầu nhiệm cứu rỗi và cứu vớt linh hồn được về thiên đàng khi nhắm mắt ngàn thu. Những giáo điều mê hoặc con người đi đến chỗ cuồng tín vào thần quyền, tự xiềng xích mình vào địa ngục của hoang tưởng đó. Sự cuồng tín tôn giáo đã làm cho con người thù hận con người thay vì thương yêu nhau như các giáo chủ đã dậy.

Hãy nhìn lại các cuộc thánh chiến đã xẩy ra tàn khốc giữa Thiên Chúa Giáo với Do Thái Giáo và Hồi Giáo đã kéo dài hơn ngàn năm, cuộc tàn sát đẫm máu giữa Thiên Chúa và Tin Lành kéo dài hàng trăm năm tại Âu Châu. Ngày nay tại Bắc Ái Nhĩ Lan cuộc xung đột giữa các tôn giáo này vẫn còn đang tiếp diễn. Sự tranh giành ảnh hưởng về tín ngưỡng đó chỉ vì “Con người không được giáo dục bởi lòng Từ Bi và Trí Tuệ”, mà chỉ nhồi sọ cho các tín đồ của họ có một niềm tin mê tín, cuồng tín vào một đấng tối cao của tôn giáo họ thờ phượng.

Phật Giáo đã tự hào suốt dòng lịch sử trên hai ngàn năm trăm năm, trước Thiên Chúa giáng sinh gần 600 năm cho đến nay chưa bao giờ đổ một giọt máu vì nhân danh tín ngưỡng Phật Giáo. Lúc Hồi Giáo tàn sát Phật Giáo tại Ấn Độ vào thế kỷ thứ mười hai, Chư Tăng và Phật Tử cam tâm chịu chết chứ không chống trả, một số khác chạy trốn ra nước ngoài để rồi đạo Phật truyền ra khắp phương Đông. Ngày nay Phật Giáo bị bách hại tại các nước phương Đông, thế rồi Phật Giáo lại lan tràn khắp phương Tây. Từ ngày Phật Giáo xâm nhập được vào Phương tây thì các nhà trí thức và khoa học gia phương Tây mới nghiên cứu ra được những gì khoa học hiện nay khám phá ra chỉ là đi sau những gì mà Đức Phật đã nói ra từ mấy ngàn năm trước.

Con người với TÂM, THÂN thiện và ác, nếu được giáo dục bởi lòng Từ Bi thì con người có tâm thiện và nếu được giáo dục bởi sự hận thù tranh chấp cuồng tín thì con người sẽ trở nên hung dữ và độc ác, đức Khổng tử đã nói “Nhân chi sơ là tính bổn thiện” hay Nho Giáo cũng có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” (mực đây là mực tầu để viết chữ nho). Đức Phật ra đời như một thách đố của con người với thần linh và sự thành đạo của Ngài như một sự trưởng thành của tâm thức nhân loại. Ngài đã siêu việt hoá khả năng vô biên của tâm linh để con người từ nay vĩnh viễn làm chủ vận mệnh của mình. Với nỗ lực của chính mình con người tự giải thoát mình ra khỏi sự đau thương cả vật chất lẫn tinh thần.

Nếu diễn đạt hết ý của bốn chữ “Từ Bi và Trí Tuệ” phải viết cả một quyển sách khoảng 500 trang giấy chưa đủ. Trong phạm vi bài này tôi chỉ tóm lược với đại ý.

Mục đích của đạo Phật là lấy từ bi và trí tuệ làm kim chỉ nam cho việc tu tập hầu mở mang trí tuệ mới đi đến giác ngộ, có giác ngộ mới không mê lầm, không u minh. Chủ đích của đạo Phật là khuyên dậy và đào tạo cho con người thoát khỏi cảnh Vô Minh, lúc đó con người mới nhận thức được đâu là chính và đâu là tà, để tránh những cảnh lừa gạt bởi các giáo điều mê tín, dị đoan làm cho con người cuồng tín chỉ biết cầu xin, với đấng tối cao hão huyền nào đó.

Đức Phật đã cho chúng ta thấy rằng: chỉ có chính mình mới giải thoát được cho mình ra khỏi nỗi thống khổ, không một thần linh nào có thể thay đổi được vận mạng của con người do chính mình tạo ra. Đạo lý về Nghiệp (nghiệp báo) đã thấy rõ, làm ác thì phải gặp quả báo. Sự hạnh phúc hay khổ đau là do chính mình tạo ra, đừng bao giờ nghĩ đến việc đi cầu xin, van vái các đấng tối cao hoặc thần thánh nào đó để hy vọng được sự cứu rỗi hay phù hộ cho mình được thoát khỏi cảnh lầm than, đau khổ mà do chính mình đã tạo nên. Con ngưởi phải làm chủ lấy vận mạng của mình. Vì mê lầm chúng ta tự tạo ra một thần linh để rồi trở lại nô lệ cho một thần quyền ảo tưởng đó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/04/2017(Xem: 5091)
Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, chứng được Tam minh và vượt thoát mọi sự ràng buộc của thế gian, Đức phật đi giáo hoá và danh tiếng ngày càng vang xa, khắp mọi nơi ai cũng nhắc đến Sa môn Cồ Đàm. Vua Tần Bà Sa La và dòng tộc đồng quy y Tam Bảo và dâng cúng Tịnh xá Trúc Lâm. Ba anh em Ca Diếp cùng 1000 đệ tử cũng đều quy y Phật. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cùng 200 đệ tử cũng đều phát nguyện làm đệ tử Phật. Các giáo chủ ngoại đạo hết sức bất bình vì đệ tử của mình đi theo Sa môn Cồ Đàm, vua Tần Bà Sa La cũng giảm bớt niềm tin với các nhà thông thái Bà La Môn.
28/04/2017(Xem: 5367)
Bước sơ tâm là bước đi như thế nào, vào lúc nào? — Là khi tâm rộng mở một phương trời, khởi động cho bước chân ban đầu. (1) Bước chân ban đầu vì thế, là bước chân vừa chấn động đại địa, vừa rung chuyển thiên không. Bước chân ban đầu là bước chân quan trọng, khi chân vừa dợm cất lên, chưa đặt xuống; khi đất trời lay chuyển quần tụ vào một điểm, chờ đợi nâng bàn chân; khi đóa sen cung kính trân trọng, không muốn bàn chân thanh khiết phải chạm vào thực tế ô nhiễm của trần gian. Bước chân ban đầu là bước chân khai mở con đường vượt thoát những phiền não, ràng buộc của kiếp sống; giải trừ những vọng chấp đảo điên từng dìm đắm thế nhân trong khổ lụy.
28/04/2017(Xem: 7884)
Hòa cùng niềm vui chung của người con Phật trên toàn thế giới, Việt Nam đã hai lần đăng cai tổ chưc Vesak tại Hà Nội (2008 -2014), trước và sau đó, trên toàn quốc cũng đã nghiêm trang tổ chức Phật Đản theo tinh thần tôn trọng tự do tín ngưỡng của nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Với tinh thần thượng tôn luật pháp, với ý thức bảo vệ môi trường và trật tự xã hội, chưa một đại lễ nào của Phật giáo vi phạm những điều trên đây. Có được những điều như vậy, một phần do sự chỉ đạo sâu sát từ Giáo hội, một phần tinh thần có ý thức, có kỷ luật của người con Phật.
26/04/2017(Xem: 6272)
Mùa Tưởng Niệm Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Thị Hiện Đản Sanh lại trở về trong lòng người con Phật năm châu và chúng sanh trong ba cõi. Nhớ lại, cách đây 2641 năm, tại phía Bắc xứ Ấn Độ, nơi Vương thành Ca Tì La Vệ, có vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Da, đã hạ sanh một Thái Tử tên là Tất-Đạt-Đa. Khi trưởng thành, nhìn thấy nhân sinh thống khổ, xã hội bất công, trên bức hiếp dưới. Nhưng nỗi khổ đau lớn nhất của nhân sinh vẫn là: sanh lão bệnh tử, không ai tránh khỏi. Chính vì thế, Ngài nguyện tìm phương giải cứu. Cuối cùng Ngài đã thấu triệt chân lý nguyên nhân sanh tử khổ luân và cứu cánh giải thoát Niết Bàn. Nhìn thấy Bản Thể chúng sanh đều bình đẳng và tuyên bố sau khi thành Phật rằng : “Lạ thay ! Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí tuệ đức tướng Như Lai". Vì vậy, Ngài đã khẳng định : “Ta là Phật đã Thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
24/04/2017(Xem: 15082)
ENLIGHTENMENT OF THE BUDDHA Written by Andrew. J. Williams Produced and performed by Andrew. J. Williams and Roger. J. McLachlan Recorded by Roger. J. McLachlan SONGLIST 01 Enlightenment (Buddha) 02 The Senses (Williams/McLachlan) 03 What is the Meaning of Life? (Williams/McLachlan) 04 The Four Signs (Williams) 05 What is the Meaning of Life? Reprise (Williams/McLachlan) 06 Farewell (Williams) 07 The Middle Path (Williams) 08 Sujata’s Song (Williams) 09 The Struggle (Williams) 10 The Enlightenment/The Teaching (Williams) 11 The Senses Reprise (Williams/McLachlan)
23/04/2017(Xem: 5435)
Có những bước chân thật lầm lũi, lầm lũi đến mức độ từ khi đến cho tới khi đi đều không tác tạo một âm ba nào, tưởng chừng như không là một hiện hữu! Nhưng cũng có những bước chân qua đi rồi mà vẫn còn vang dội mãi đến ngàn sau, tưởng chừng như muôn ngàn hiện hữu. Khi một hiện hữu làm linh hiện ý nghĩa hiện sinh trọn vẹn của nó, cả ba ngàn đại thiên thế giới đều rung động. Dòng hiện sinh của nó là những cung bậc hòa điệu với giao hưởng khúc thiên thu của vũ trụ.
22/04/2017(Xem: 8817)
Nhạc phẩm " Vui thay Phật ra đời" , "Blessed is the Birth of Buddhas" , Nhạc: BS Tâm Đức; Ca sĩ: Hương Lan - Huỳnh Gia Tuấn - Bảo Yến - Tuấn Đức - Andrew Capra
20/04/2017(Xem: 4893)
Cách nay hơn 26 thế kỷ, tại nước Ca Tỳ La Vệ tức Nepal - Ấn Độ bây giờ, vào độ trăng tròn tháng tư âm lịch, mùa sen hồng nở rộ, hoa vô ưu ngát tỏa hương lành, có một bậc siêu phàm vĩ đại thị hiện xuống trần gian, đó chính là Ngày Khánh Đản thiêng liêng của Đức Phật Thích Ca. Trái đất rung động, vũ trụ lay chuyển, không gian im bặt, thời gian ngưng đọng, Chư Thiên hoan hỷ rải hoa cúng dường, nhân loại hân hoan cung nghinh ngưỡng vọng, bởi cách nhau hàng triệu triệu năm mới có một Đức Phật xuất hiện. Đức Phật ra đời với đại sự nhân duyên "Khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến" ; với mục đích duy nhất: Phá vọng, hiển chân, dứt khổ, trừ mê, diệt tham sân si, vô minh phiền não, sống đạo đức từ bi, hỷ xả hòa bình, đưa chúng sinh bước lên đường giác ngộ và giải thoát.
20/04/2017(Xem: 10380)
Cuộc sống trăm năm tưởng đâu nhiều Nào ngờ như cảnh khói lam chiều Thoáng qua giây lát rồi tan biến Còn lại bầu trời thật đáng yêu .
20/04/2017(Xem: 6054)
May mắn thay, chúng ta đang sống trên một đất nước thịnh vượng, đa chủng, dân chủ và tự do. Cộng đồng Việt và Phật giáo Việt đã đem đến vùng đất Bắc Mỹ một nền văn hóa mới trong một châu lục đa văn hóa. Ngày lễ hôm nay đã nói lên điều đó. Giáo pháp của Phật về tương tức, tương duyên và tương sanh đã mang lại sự hiếu hòa và trách nhiệm của dân tộc Việt trải ngàn năm qua. Do vậy, dù sống ở đâu người con Phật cũng thường quán niệm rằng, tôi có mặt trong một dân tộc và dân tộc đó có mặt của tôi. Sự an bình của tôi là sự an bình của một cộng đồng và ngược lại. Đến Đạo Phật để tìm sự sống của an lạc và hòa bình cho chính mình và nơi chốn mình đang sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]