Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vui thay Phật ra đời

09/05/201223:56(Xem: 4121)
Vui thay Phật ra đời

vuithayphatradoi-trihienPhật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.

Này Visàkhà Thánh đệ tử niệm nhớ về Phật: Đây là Thế Tôn, bậc A-la-há, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Do vị ấy niệm Phật như vậy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận”1. Hơn 2.500 năm về trước Phật ra đời ở Ấn Độ “vì hạnh phúc an lạc cho số đông”. Ngày nay chúng sinh trên cõi trần thế này vẫn may mắn tìm thấy niềm tin và nguồn an ủi lớn nhờ những lời dạy hiền thiện của Phật. Kinh Tăng Chi Bộ nói rằng Phật ra đời là vận may lớn cho nhân thế, vì Phật có đủ uy đức “Khiến cho số đông xa lìa ác pháp, an trú vào tiện pháp”2.

Quả thực như vậy. Bức tranh các hoạt động tôn giáo ở Ấn Độ thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch cho thấy giữa lúc các vị đạo sư khác cố tìm mọi cách chứng minh và xiển dương học thuyết của mình bằng các cuộc tranh luận đả phá gay gắt khiến lòng người càng thêm hoang mang nghi ngờ về tính chân thực của chân lý thì Phật lặng lẽ đi hết làng này đến làng khác, hết thị trấn này đến thị trấn khác, để khuyên dạy mọi người bỏ ác làm lành, sống tiết độ, ngay thẳng, không gian dối, sống với tâm hiểu biết, thương yêu và hòa bình. Phật là bậc giác ngộ, thấu suốt mọi nguồn của cái tâm vọng động mê lầm dẫn đến khổ đau nên không dự phần vào những gì gợi thêm mê lầm đau khổ, khổ cho mình và khổ cho người. Phật có trí tuệ minh mẫn không ai sánh bằng, nhưng Phật không ưa tranh biện triết lý. Phật cũng không can dự vào vòng thị phi tranh chấp. Suốt 45 năm, Phật lặng lẽ thực hiện cái hoài bão thuyết pháp độ sinh, ân cần chỉ bảo cho con người về sự thật khổ đau và cách thức diệt trừ khổ đau để cho cuộc sống được thảnh thơi an lạc. Phật sống cuộc đời giản dị, chân thực, hiền lành và khuyên dạy những điều hết sức giản dị, chân thực, hiền lành nên ai cũng sẵn lòng tin theo lời Phật, nhà nhà sống theo Phật, xứ sở nhờ đó mà được thái bình. Sử gia Will Durant nói rằng cứ từ từ, dịu dàng không cần tranh biện, Đức Phật thành lập một tôn giáo không tín điều và tuyên bố rằng con đường giải thoát mở ra cho mọi người, kể cả những người không theo đạo 3. Giáo sư Rhys Davids thì cho rằng đặc điểm nổi bật của Đức Gotama là Ngài không chỉ tìm hạnh phúc an lạc, và Ngài có đủ khả năng để giúp cho mọi người khác hiểu rõ ước muốn và chứng nghiệm điều đó 4. Câu chuyện đàm đạo sau đây, giữa đấng Giác ngộ và dân chúng Khàlàmà cho thấy Phật ra đời là hạnh phúc lớn cho thế gian, vì Phật mãi mãi là nơi nương tựa an ổn cho cuộc đời vẫn chơi vơi, không nơi nương tựa; và những lời dạy hiền thiện của Phật thực sự là kim chỉ nam cho cuộc sống đạo đức và hạnh phúc của nhân thế :

“ Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với đại chúng Tỳ-kheo, đi đến thị trấn của những người Kàlàmà tên là Kesaputta. Những người Kàlàmà ở Kesaputta hay tin: “ Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca đã đến Kesaputta …” Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị A-la-hán như vậy.

Rồi các người Kàlàmà ở Kesaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên với Thế Tôn những lời chào đón thăm hỏi, sau khi nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu, rồi ngồi xuống một bên; có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên ; có người im lặng và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên,các người Kàlàmà ở Keasputta bạch Thế Tôn :

- Có một số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế tôn, đi đến Kesuputta. Họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm của người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên tạc.Đối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân : “ Trong những Tôn giả Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo ?”.

- Đương nhiên, này các Kàlàmà, các người có những nghi ngờ ! Đương nhiên, này các Kalàmà, các người có những phân vân! Trong những trường hợp đáng nghi ngờ, các người đương nhiên khởi lên phân vân.

- Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thông ; chớ có tin vì nghe người ta nói ; chớ có tin vì Kinh tạng truyền tụng ; chớ có tin vì nhân lý siêu hình ; chớ có tin vì đúng theo một lập trường ; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện ; chớ có tin vì phù hợp định kiến ; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình. Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự biết mình rõ như sau : “Các pháp này là bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị các người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời này các Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng!

- Các người nghĩ như thế nào, này các Kàlàmà, lòng tham khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh ?

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

- Các người nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?

- Thưa có, bạch Thế Tôn.

- Các người nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng si khởi lên trong nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh cho người ấy?

- Bất hạnh, bạch Thế Tôn.

- Các người nghĩ thế nào, này các Kala mà, các phap1nay2 là thiện hay bất thiện?

- Là bất thiện, bạch Thế Tôn.

- Có tội hay không có tội?

- Có tội, bạch Thế Tôn.

- Bị người có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?

- Bị người có trí quở trách, bạch Thế Tôn.

- Nếu được thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không, hay ở đây, là như thế nào?

- Được thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng ta đưa đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là vậy …

- Này các Kàlàmà, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình, nhưng này các Kàlàmà, kh nào tự mình biết như sau : “ Các pháp này là thiện; các pháp này là không có tội; các pháp này không bị người có trí chỉ trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc”, thời này các Kàlàmà, hãy đạt đến và an trú!

Phần tiếp theo, Đức Thế Tôn có hỏi các Kàlàmà về các pháp không tham, không sân, không si và các Kàlàmà khẳng định khi không tham, không sân, không si nổi lên trong nội tâm người nào thì đều mang đến hạnh phúc an lạc cho người đó; rằng các pháp không tham, không sân, không si là các pháp thiện; rằng các pháp ấy là không có tội; rằng các pháp ấy được người trí tán thán; và khi thực hiện, dược chấp nhận; các pháp ấy đưa đến hạnh phúc, an lạc. Và Đức Thế Tôn nói tiếp:

- Này các Kàlàmà, vị thánh đệ tử nào ly tham, ly sân, ly si như vậy, tỉnh giác chánh niệm , với tâm câu hữu từ …với tâm câu hữu vớ bi …với tâm câu hữu với hỷ …với tâm câu hữu với xả, biến mãn một phương, cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư ; như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm hữu cầu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân. Thánh đệ tử ấy, này các Ka là mà, với tâm không oán như vậy, không sân như vậy, không uế nhiễm như vậy, thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, người ấy đạt đươc bốn sự an ủi:

“ Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung ta sẽ sanh lên cõi thiện, cõi Trời, cõi đời này” ; đây là an ủi thứ nhất vị ấy có được.

“ Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục các nghiệp thiện ác, thời ở đây, ngay trong hiện tại, ta tự sống với tâm không oán, không sân không phiền não, được an lạc”, đây là an ủi thứ hai vị ấy có được.

“ Nếu việc ác có làm, nhưng ta không có tâm ác đối với ai cả, và nếu ta không làm điều ác, sao ta có thể cảm thọ khổ đau được”, đây là an ủi thứ ba vị ấy có được.

“ Nếu việc ác không có làm, như vậy, cả hai phương diện (do ta làm vô ý hay cố ý), ta quán thấy ta hoàn toàn thanh tịnh”, đây là an ủi thứ tư vị ấy có được.

- Thánh đệ tử ấy, này các Kàlàmà, với tâm không oán như vậy,với tâm không sân như vậy ; với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại, vị ấy có được bốn an ủi này.

- Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn ! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ ! Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán như vậy, với tâm không si như vậy, với tâm không uế nhiễm như vậy, với tâm thanh tịnh như vậy, ngay trong hiện tại có được bốn an ủi này.

- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng những gì bị quăng ngã xuống, hay trình bày cái bị che kín, hay chỉ đường cho người lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, pháp được Tôn giả Gotama thuyết giảng với nhiều pháp môn. Nay chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy y ngưỡng”.

Chú thích :

1- Kinh Các lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ.

2- Kinh Một pháp, Tăng Chi Bộ

3- Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr 84.

4- TW, Rhys Davids, Lectures on some Points in the Hiatory of Buddhism, tr 162.

5- Kinh những người ở Keraputta, Tăng Chi Bộ

Nguồn: Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/04/2024(Xem: 307)
Đã 2568 năm qua, kể từ ngày Đức Thế Tôn thị hiện Niết Bàn, giáo pháp của Ngài vẫn còn giá trị thực tiễn cho nhân loại, cho những ai tìm nguồn hạnh phúc an lạc chân thật. Giáo lý thậm thâm như dòng sữa pháp nuôi lớn và tắm mát những tâm hồn biết bỏ bến mê quay về bờ giác. Ngày nay âm vang tiếng giảng pháp trên non Linh Thứu vẫn còn vọng lại, nhưng lòng của hậu thế chúng sanh như những lữ khách tha phương, mải cất bước rong ruổi xa xăm đuổi theo những ảo tưởng phù du hư giả không thật. Là đệ tử chân truyền nối dòng chánh pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tất cả thành viên của Giáo Hội tùy duyên, tùy xứ sở sắm sửa hương hoa trai nghi lễ phẩm cúng dường ngày Đản sanh của Đức Từ Phụ. Nguyện cầu thế giới an bình, đao binh chấm dứt, thiên tai động đất dịch bệnh không còn. Chúng sanh buông bỏ tham sân si, sớm ngộ vô thường, khổ, không, vô ngã mà chuyên tâm tu tập theo đạo giải thoát. Cầu cho tất cả chúng sanh chứng thành đạo quả.
24/04/2024(Xem: 139)
Mùa Phật Đản năm nay đã về trong lòng tứ chúng đệ tử Phật. Hình ảnh sơ sinh dưới gốc cây vô ưu trong dung nhan thù diệu, sắc tướng phi phàm là bậc Thầy của Trời người tôn quý. Ngót 2648 năm Đức Thế Tôn thị hiện vào đời, để tự thân tác chứng thật đức trang nghiêm, làm nơi quy hướng cho tất cả con người nương tựa tu tập mà đạt thành quả thánh ngay trong hiện đời lạc trú. Một nền giáo lý được thuyết giảng đến cho con người, của con người và vì con người. Chính vì Phật Pháp phục vụ nhân sinh mà nơi đây chúng ta nghe đức Thế Tôn thuyết giảng cho vua Kosala về cách xử sự với hàng phụ nữ, qua 4 đặc điểm của phái yếu : “Một em bé gái, Tâu Đại Vương, có thể còn quý hơn đứa con trai, lúc trưởng thành, em có thể là người trí tuệ và phẩm hạnh vẹn toàn. Biết kính nể, tôn trọng mẹ chồng, một người vợ hiền. Đứa con mà sau này em sẽ mang vào lòng, có thể làm nên đại sự và trị vì một vương quốc vĩ đại. Đúng vậy, đứa con của người vợ cao thượng, sẽ trở thành người
23/03/2024(Xem: 928)
Đêm mùng tám tháng hai, thái tử nhìn vợ con lần cuối rồi cùng Sa Nặc và ngựa Kiền Trắc vượt thành ra đi, sau đó vượt sông Anoma để hướng về phương trời cao rộng. Đây là một cuộc vượt thoát vĩ đại vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Ngài từ địa vị một ông hoàng với đầy đủ ngũ dục lục trần, có tất cả những gì mà con người mong cầu nhưng ngài buông bỏ tất cả. Ngài vượt thành và trở thành bậc xuất trần vĩ đại. Vượt thành, vượt sông đã khó nhưng thiên hạ cũng làm được, duy vượt qua ngũ dục lục trần, vượt thoát luân hồi sanh tử thì cho đến lúc này cũng chỉ có ngài mà thôi. Cuộc vượt thành của ngài đã mở ra một chương mới trong lịch sử loài người. Ngài đã khai phá con đường sáng, con đường giải thoát, giác ngộ đi đến niết bàn.
11/03/2024(Xem: 870)
Thị hiện dương trần… Phật xuất gia Nhân lành cõi thế… giảng sanh già (*) Nhìn quanh khắp chốn thường đau khổ Ngộ thấu trong cung chẳng ngọc ngà… Bởi lấy tâm từ mà thoát khỏi Do tường nghĩa lớn biết vần qua Nguyền cho thảy thảy lên đường giác Đức hạnh khuyên tu chớ vướng tà
21/06/2023(Xem: 2285)
Đức Phật đến với thế giới chúng ta, với cõi Diêm-phù-đề của tất cả chúng ta bằng tâm đại bi. Bởi vì Ngài đến bằng tâm ấy cho nên tất cả các loài chúng sinh sinh ra từ bào thai, sinh ra từ trứng, sinh ra từ sự ẩm ướt, sinh ra từ sự biến hóa, sinh ra từ tưởng, sinh ra từ không phải tưởng, sinh ra từ hình sắc, sinh ra từ không phải hình sắc, tất cả những chúng sinh như vậy, Ngài đều thương yêu, che chở, nâng đỡ và tìm đủ mọi phương tiện để giáo hóa khiến cho tất cả đều được đi vào biển cả giác ngộ rộng lớn của chư Phật. Ngày Đản sanh của đức Thế tôn, chúng ta quán chiếu một cách sâu sắc như thế.
21/06/2023(Xem: 13294)
Vào sáng ngày 18/6/2023, kính mừng Đại lễ Phật Đản PL. 2567, đông đảo chư Tôn đức Tăng, Ni và Phật tử đã diễu hành trên đường phố Ottawa, thủ đô Canada với các xe hoa rước Phật Đản Sanh và kiệu thỉnh Đại Tạng Kinh Việt Nam.
16/06/2023(Xem: 2367)
Sáng ngày 11/6/2023, trong khung cảnh hùng vĩ và tiết trời se lạnh ở núi rừng Los Gatos, tu viện Hương Từ Bi tọa lạc tại số 14136 Long Ridge Road, thành phố Los Gatos, tiểu bang California đã trang nghiêm tổ chức Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2567.
15/06/2023(Xem: 12481)
Kinh Ma-ha Ca-diếp độ bần mẫu1 kể lại câu chuyện rất thú vị về một bà lão nghèo, nhờ cúng dường ngài Ca-diếp một chút nước cơm mà được sinh về cõi trời Đao-lợi. Phước cúng dường ấy còn lớn lao đến mức hiện thành hào quang sáng rực như bảy mặt trời đồng thời soi chiếu, khiến cho vị vua cõi trời ấy là Đế-thích cũng phải kinh ngạc. Và sau khi tìm hiểu biết được nhân duyên cúng dường được phước lớn lao này, đích thân Đế-thích cùng phu nhân của mình đã phát tâm hiện xuống cõi người, hóa thân thành một đôi vợ chồng già nghèo khổ để được có cơ hội cúng dường lên ngài Ca-diếp, vun bồi thêm phước báu của chính mình.
15/06/2023(Xem: 1570)
Thiên nhiên giúp chúng ta được thả lỏng thân thể và tâm trí hít một hơi thật sâu mỉm cười và nhìn trời xanh mây trắng nó làm cho tâm trạng chúng ta được cởi mở và ta được lắng nghe tim mình, nhìn sâu vào những mảnh đời khốn khổ nhìn sâu vào cuộc đời này một cách bao dung và độ lượng.Như vậy cuộc đời của bạn sẽ ý nghĩa hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567