Kính hoạ bài thơ Tự Vịnh 96 tuổi của TG. Viên Huệ Dương Chiêu Anh
Kính Bà đại thọ nét như hoa Chín sáu dương gian trí chẳng loà Rõ pháp ngày đêm yên phú kệ Vui đời sáng tối rỗi thi ca Thong dong cõi thế tình luôn đủ Rạng rỡ đường tu đức vẫn hoà Đạo cả hằng nương về Cửa Phật Thời qua sống trọn nguyện Di Đà…
SG, 24/09/2024 PT. Minh Đạo (Kính hoạ)
***
KÍNH MỪNG ĐẠI THỌ CỤ BÀ DƯƠNG CHIÊU ANH
KÍNH người CHÍN SÁU vẫn chưa già
MỪNG trí tợ đèn sáng chói lòa
ĐẠI hạnh rạng ngời trang Quảng Đức
THỌ tình cảm mến bạn thi ca
BÀ tâm tỏa chiếu như VIÊN ngọc
DƯƠNG ánh dịu dàng vuốt HUỆ hoa
CHIÊU được lòng người qua tự Vịnh
ANH thư Lạc Việt_ Chẳng đâu xa!
Strasbourg, 24/09/2024
Diệu Đạo_Phổ HIền/Pháp
HIỆN TIỀN CỰC LẠC
Vần thơ họa kính tặng Cụ Viên Huệ, kính chúc Cụ sức khỏe trường an, hạnh nguyện viên thành
Mải tu chín sáu vẫn chưa già Nghiên tầm kinh sách trí sáng loà Ý kinh nhuần thấm nên thơ phú Đạo mầu nghĩa lý dệt trường ca Hạnh tu thanh đạm dường như đủ Cảnh tịnh lòng an rạng nét hoa Hòa vui thi kệ cùng con cháu Hiện tiền Cực Lạc chẳng đâu xa.
Nam Mô A Di Đà Phật
Melbourne, 25/9/2024
Phật tử Thanh Phi
AN LẠC HIỆN TIỀN
Kính họa y vần bài Tự Vịnh chín sáu (96) tuổi của Lão Cư Sĩ Viên Huệ
Liễu ngộ tam thừa nên chẳng già
Vẫn còn minh mẫn mắt không lòa
Ngày thời trải nghiệm Thế Gian Pháp
Đêm đến tham thiền Đạo Thích Ca
Thấu hiểu vô thường đời khốn khổ
Tận tường Phật Pháp đạo thăng hoa
Từ đây tinh tấn tu hành mãi
An lạc hiện tiền chứ chẳng xa.
Chùa Pháp Hoa SA, 25/9/2024 (23/8/Giáp Thìn)
Thích Viên Thành (kính họa)
Tuổi Cao Hồn Trẻ Bát vĩ đồng âm Kính họa bài “Tự Vịnh 96”của PT. Viên Huệ Dương Chiêu Anh
Tuổi cao hồn trẻ nghĩ chi già Mắt sáng thần an trí chẳng lòa Phật hiệu ghi lòng chiêm tượng…xá Lời kinh khắc ý ngưỡng thiền…ca Ung dung chuyển hóa mầm mê họa Tự tại gieo trồng đóa thiện hoa Hương nguyện thầm dâng thơm hỷ xả Não phiền nghiệp chướng lánh trừ xa…
Tu Viện An Lạc, California, 4:00 giờ sáng 24-9-2024 Trúc Nguyên- Thích Chúc Hiền (Kính họa)
Duyên thơ trên mạng
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Kính bạch Thầy, Đọc những bài họa thơ của thân mẫu, con cảm thán đôi vần:
Trang nhà Quảng Đức nối duyên thơ Xướng họa tri âm trao ý thơ Phương tiện độ đời qua phú vịnh Hóa Thành tải Đạo mượn vần thơ Phật ngôn truyền bá nhờ ca hát Pháp ngữ tuyên bày với nhạc thơ Bảo Sở đường về muôn vạn lối Mới hay diệu dụng quyện hồn thơ
Brisbane, Mạnh Xuân 2024 Tâm Quang
(con gái của Cụ Bà Viên Huệ)
🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
(1) Thi vịnh Kim Sơn
Thi tập “Hồi Ức Lược Sử Kim Sơn Phật Học Ni Trường, Phú Nhuận, Sài Gòn - Chí Quyết Tu Hành” (Toàn tập)
Tác giả: Viên Huệ Dương Chiêu Anh
- Hoàn tất và ấn tống năm Bính Thân 2016, Phật Lịch 2640
- Thi tập dày 196 trang, viết theo thể thơ lục bát và song thất lục bát.
- Thi tập ghi chép lại những sự việc xảy ra từ sáu bảy mươi năm về trước, kể lại sự nghiệp khai sáng chùa Kim Sơn, ngôi Phật Học Ni Trường đầu tiên ở miền Nam Việt Nam và Chí Quyết Tu Hành của hai vị Ni Trưởng thượng Diệu hạ Tấn và thượng Như hạ Ngọc đã từng hợp lực hoằng Pháp suốt trọn đời tu học của hai vị.
- Thi tập gồm 3 Tập và 5 Phụ Lục.
- Tập I - Hồi Ức, có 6 Chương, nhắc lại thân thế và sự nghiệp khai sáng ngôi Phật Học Ni Trường Kim Sơn của Cố Sư Trưởng thượng Diệu hạ Tấn và các đệ tử kế thừa.
- Tập II - Chí Quyết Tu Hành, có 4 Chương, nói về cuộc đời tu hành của Cố Ni Sư thượng Như hạ Ngọc.
- Tập III - Lý Dương Sanh Tự, có 7 Chương, kể về ngôi chùa Lý Dương Sanh bị bỏ hoang trong thời gian chiến tranh và Pháp nạn, sau được trùng tu và cải hiệu là Từ Vân Ni Tự. Người dân trong vùng thường gọi là Chùa Bà Đầm.
Trong Tập này có phần tự thuật của tác giả về gia cảnh và công hạnh tu hành của Cố Ni Sư thượng Như hạ Ngọc.
Phần Phụ Lục có 5 Chương, gồm nhiều bài thi vịnh, thơ xướng họa, bài viết tưởng niệm của nhiều tác giả.
- Thi Tập này đã được đăng trên Trang Nhà Quảng Đức.
- Vào đầu Thập Niên 50, Thế Kỷ thứ XX, thân mẫu là hội viên Hội Truyền Bá Quốc Ngữ Nam Việt (thành lập năm1938), vùng Khánh Vĩnh (Khánh Hội - Vĩnh Hội, nay thuộc quận 4 Thành Phố Hồ Chí Minh)
- Thân mẫu đã sáng tác khá nhiều thơ văn, câu hò, nhằm khuyến khích đồng bào học chữ Quốc Ngữ. Các bài thơ này đã được diễn ngâm theo nhiều làn điệu dân ca khác nhau.
Lại thêm thu nửa trở về,
Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn.
Nhớ về quê mẹ cội nguồn,
Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay,
Nhón chân dạo bước vườn ngoài,
Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm.
Sắp từng chiếc lá gọi tên,
Thì thầm tên lá theo miền thế gian.
Cảnh thu dễ gợi u buồn,
Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên.
Nhắn lòng ta ráng tịnh yên,
Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy
Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con,
Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh
Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh.
Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932.
Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
Dáng ngồi như núi như non
Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm
Trên cao sừng sững bóng hiền
Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình
Giữa đời lặng lặng thinh thinh
Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu
Tử tôn gánh đội ân sâu
Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya
Bước chân hoằng độ đi, về
Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi
Như non như núi không dời
Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
Từ cao sơn dõi mắt nhìn
Xuống non ra biển, một miền thùy dương
Hồng trần mãi nhịp bi thương
Lao xao tất bật rộn đường mưu sinh
Lăng xăng đấu đá tranh giành
Thất tình lục dục, trần căn dập dìu...
Vui nhất thời chẳng bao nhiêu
Khổ triền miên khổ vẫn nhiều khóc than
Trời xanh, nắng đẹp, cát vàng
Phố xinh, nhà lớn, cao sang sắc hình
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.