(Lời con hổ ở vườn Bách thú)
Thế Lữ
Tặng Nguyễn Tường Tam
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
*
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Thế Lữ
Bài thơ này được cho là lấy cảm hứng từ bài Der Panther (Con báo) của Rainer Maria Rilke (Áo, 1875-1926) và bài Tyger (Con hổ) của William Blake (Anh, 1757-1827).
Trên đây là bài thơ theo bản in lần thứ 2 năm 1941 sau khi đã được tác giả sửa chữa (bản đầu in năm 1935)
Bài họa của Tùy Anh
Về rừng
(Lởi của Người Lưu Lạc)
Tùy Anh
Họa bài Thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ
Ôm mối hận nhưng lòng còn son sắt
Thương quê hương đòi đoạn tháng ngày qua
Thương đời mình lỡ một thuở ngu ngơ
Nên lao nhọc trong rừng sâu núi thẳm
Cam đày đọa trong lao tù giam hãm
Đề cho người quyến thế vẫn ăn chơi
Khi âm thầm di tản biệt tăm hơi
Nên nước mất, nhà tan, đời vong lữ.
Ta đeo đẳng cả trăm thương ngàn nhớ
Thuở lưu đày vương vấn chuyện ngày xưa
Tuổi trẻ mộng mơ, biển cà, rừng già
Khi tha thiết suối nguồn, khi đậm tình sông nuúi
Khi cuồng nhiệt cất tiếng ca vang dội
Ta ước mai sau đất nước huy hoàng
Đời an vui theo khúc hát nhịp nhàng
Ân ái thêm nồng, tình đầy hương sắc
Khi hương lửa đã lên màu sáng quắc
Thì bên nhau hơi ấm lại tìm hơi
Ta biết ta không là kẻ lạc loài
Giữa chốn hồng trần không lưu tên tuổi!
Đâu những lúc dừng quân bên bờ suối
Ta mơ ngày chinh chiến cũng dần tan?
Đâu những mùa vàng rực lúa ngút ngàn
Ta chung sức để dựng xây đời mới
Đâu những ngày mưa tuôn nắng gội
Ta ở biên cương, người chốn tưng bừng?
Đâu những lần chạm súng ở ven rừng
Nhìn cái chết giữa bạn-thù gay gắt
Chủ nghĩa điên cuồng, bầm gan tím mật?
- Than ôi! Đời tang tóc cũng vì đâu?
Nay ta đàng thao thức suốt canh thân
Nơi xứ lạ lòng vẫn mong biến đổi
Mà ở quê hương vẫn lọc lừa gian dối:
Chủ trương đổi mới, cách mạng vun trồng?
Mà phồn vinh thống khổ là nước hai dòng
Của tư bản đỏ và dân đen hèn kém
Kẻ tinh mắt sẽ nhận ra hung hiểm
Vì mưu thần chước quỷ chốn hoang vu
Của hạng người từ rừng núi thâm u!
Hỡi hồn thiêng của núi sông hùng vĩ
Nơi tổ tiên đã khai nền thịnh trị
Nơi an bình ta đã sống ngày xưa
Nơi ta sẽ về, ước hên từng giờ
Để tranh đấu chẳng bao giờ chán ngán
Dù công sức chẳng có gì to lớn
Nhắc đến tên lòng cũng chẳng hổ ngươi
- Hỡi cố hương yêu dấu của ta ơi!
Tùy Anh (Phù Vân)
(Đầu Xuân Mậu Dần, 1998)
Trong Thi Tập Khúc Hát Tiêu Dao, Viên Giác, 2000.