Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngậm Ngùi Tiễn Biệt Nhà Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương

25/12/202108:23(Xem: 4216)
Ngậm Ngùi Tiễn Biệt Nhà Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương

NGẬM NGÙI TIỄN BIỆT
NHÀ THƠ TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG

 



            Chuẩn bị mở quà Giáng sinh năm 2021 và đón năm mới dương lịch 2022 thì được tin nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương vừa ra đi, tôi nhớ ngay bốn câu thơ đã trở thành “Poetry Logo” gắn liền với tên tuổi của chị mà ai cũng sẽ rất ngạc nhiên nếu có một vị nào đó không thích:

            Còn gặp nhau thì hãy cứ vui,

            Chuyện đời như nước chảy hoa trôi

            Lợi danh như bóng mây chìm nổi

            Chỉ có tình thương để lại đời.

                                    (Còn gặp nhau)

 

 

ton nu hy khuong-5
Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương bên cạnh câu thơ tâm đắc…

           

            Sở dĩ bốn câu thơ nhẹ nhàng, đơn giản và đại chúng đó trở thành “biểu tượng thi ca” của chị vì nó vừa nói lên một điệu sống quá hài hòa và tươi mát, vừa là lời minh họa cho chính cuộc đời riêng tư và nghệ thuật của chị.

           
Trong thế hệ Chiến Tranh Việt Nam, có hai nữ nghệ sĩ người Huế được dân Huế và đối tượng thưởng ngoạn nghệ thuật khắp nơi hâm mộ tài năng đã đành nhưng còn yêu chuộng phong cách sáng tác và trình diễn nghệ thuật: Đó là ca sĩ Hà Thanh và nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.

Giáo sư Trần Thanh Đạm đã viết về chị Hỷ Khương:

Vốn biết thi nhân là hiếu nữ,

Nào hay thi sĩ cũng tình nhân.

Hiếu tình ai dễ hai bề trọn,

            Tình hiếu mười phân đẹp bội phần…
           
Từ phía bên này của nửa vòng trái đất, xin được đốt một cây hương thật quý để tưởng nhớ về chị.
            Tôn Nữ Hỷ Khương tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương, sinh năm 1937 tại Vỹ Dạ (Huế). Chị là ái nữ của nhà thơ nổi tiếng Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Các thi phẩm đã xuất bản: Đợi mùa trăng (1964), Mộng thanh bình (1970), Còn gặp nhau (1999), Bâng khuâng tình khúc (2001), Hãy cho nhau (2004), Nước vẫn xanh dòng (2004) và hồi ký Hồi ức cha tôi (1996, tái bản 2002)...
           
Và bài thơ cuối cùng của chị mà tôi được đọc là Hãy Cho Nhau. Bốn câu mở đầu nói đến biến cố trọng đại nhất của một kiếp người là cái chết, nhưng lời thơ và ý thơ tự tại như một thiền sư thị tịch:

            Một cơn gió nhẹ thoảng qua,

            Dễ đưa ta đến lìa xa cõi đời.

            Để kết thúc một kiếp người,

            Mong manh như hạt sương rơi đầu cành.

           
Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương phản ánh trung thực hoàn cảnh xuất thân, khuynh hướng sáng tạo thi ca và dự phóng cuộc đời rất nề nếp, thuần hậu và cổ kính. Phong cách sống của một tôn nữ đã mở ra cánh cửa thi ca vừa vặn, không phóng khoáng mở tung hay hừng hực bứt phá. Bởi vậy, hai tập thơ đầu Đợi Mùa Trăng (1964) và Mộng Thanh Bình (1970) từ lời thơ cho đến tư tưởng êm đềm như nước sông Hương. Hành trình sáng tạo thi ca 50 năm của Tôn Nữ Hỷ Khương là một dòng nhật ký đầy hương hoa và sương khói của tóc thề áo trắng; tuy biền biệt sương khói ngây ngất mà không làm… chết người bởi cảm xúc và ân tình rất Huế! Cái tài hoa “con nhà… tôn nữ” cũng nhảy múa nhưng êm đềm như phụng vũ hoàng cung; không xảo diệu vỡ bờ như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nhã Ca… bay vút ra ngoài bốn cõi của cảm xúc và suy niệm.

           
Thật thú vị khi Đỗ Hồng Ngọc điểm thơ Tôn Nữ Hỷ Khương thành “thơ nói” bởi những khái niệm cách tân, siêu thực, cải biên, lập dị… hoàn toàn vắng bóng. Tác dụng của tất cả các loại hình nghệ thuật không nằm ở hình tướng mà là dấu ấn cảm xúc sâu, cạn hay đậm, nhạt khi thưởng thức nghệ thuật. Thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương đi vào tâm cảm của người đọc rất dễ dàng, trôi chảy và đồng điệu với đời thường.

           
Nhớ lần cuối (2013) tôi và Lê (nhà tôi) ngồi uống cà phê với chị Hỷ Khương ở một quán xanh ven sông Sài Gòn, sau khi chị chia sẻ cảm tưởng thú vị đọc những bài viết của tôi về Huế, chị hỏi tôi vì sao tôi thích thơ chị. Lời phát biểu chỉ giới hạn trong 3 chữ. Tôi suy nghĩ và trả lời khá nhanh: Hiền, dễ, thanh. Chị cười thích thú và bắt tôi giải thích đầy đủ ba từ đó. Tôi nói đủ ý kiến của mình về thơ chị rằng, Hiền: là bản chất của thơ chị bởi cả lời thơ, tứ thơ và hồn thơ đều rất “con nhà” và rất Huế. Dễ: Thơ chị không quanh co với triết lý cao xa hay đầy ảo tưởng mà phát xuất từ dòng đời hiện thực nên người đọc ở trình độ nào cũng tiếp thu dễ dàng. Thanh: vì thơ chị là tiếng hát ca dao và nhuốm mùi đạo lý phương Đông cùng tư tưởng Nho và Phật giáo. Rứa là chúng tôi được chị thưởng một gói hột sen Tịnh Tâm mang về Mỹ.

           
Mới đó mà nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã vĩnh viễn đi rồi!

           
Lần gặp nhau cuối cùng, chị đọc bài thơ Về Quê Ăn Tết của tôi và khen hai câu:

            Gặp nhau cứ kể như lần cuối,

            Nâng chén cười tan nỗi ngậm ngùi.

           
Tôi nói với chị đó là tư tưởng Phật Giáo, tôi chỉ lập lại và đem vào thơ.

           
Chị Hỷ Khương thương kính ơi! Chị ra đi cũng êm đềm như dòng đời và cả nghìn bài thơ của chị. Xem vô thường là hữu thường để không còn chi mà ngậm ngùi nuối tiếc “cuộc hồng trần xoay vần quá ngán” nầy.  Nếu có chăng duyên nghiệp trùng trùng thì con đò thơ một đời đã chở đầy duyên lành và nghiệp thiện của chị sẽ đưa chị về bờ bên tê thinh không an lạc.

           
Xin bái biệt chị. Trăng lặn. Hoa tàn. Và có một vần thơ!

 

                        Sacramento, chiều mùa Giáng sinh 2012

                                                Trần Kiêm Đoàn

                

***
facebook
youtube

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/08/2010(Xem: 7165)
Nửa đời người tôi hiểu được Vô thường - ấy lẽ thường nhiên Và ta chỉ là chiếc lá Trong rừng nhân loại vô biên..
28/08/2010(Xem: 9553)
Chén cơm trong chốn lao tù, Con xin cúng Phật con tu quá đường ! Thế gian huyết hận đau thương ! Nghẹn nào lệ nhỏ vô phương kêu gào !.
12/08/2010(Xem: 8414)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6879)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6255)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6966)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6700)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8984)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12515)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25267)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567