Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc Bài Thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” Của Thi Sĩ Trần Thoại Nguyên

12/05/202114:37(Xem: 6646)
Đọc Bài Thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” Của Thi Sĩ Trần Thoại Nguyên
ĐỌC BÀI THƠ “ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA” của Thi sĩ TRẦN THOẠI NGUYÊN
CHÂU THẠCH
Chau-Thach
Bài thơ
ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA 
                  
Ngồi trong vườn nguyệt lộ
Hôn một màu trăng non
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn
Ồ.Hồn tràn mộng trắng
Tôi ôm trăng không màu
Tôi ngút xuống biển dạng
Tôi dại khờ mắt nâu
Ngắt một bông trắng lau
Hương thắm giọt máu đào
Đêm bừng lên nguyệt thẹn
Tôi nằm dài xanh xao
Chim về ngủ ôm trăng,
Ngô đồng rơi chánh điện.
Tôi ngồi giữa Phật đàng
Làm thơ như thánh hiện.
Máu ràn rụa tây hiên
Ồ. Máu băng ngực điên!
Tôi tĩnh mịch trang thơ
Hồn bay theo nhang khói
Chim chết giữa điện thờ
Tôi rớt xuống điện thờ.
(Chùa BẢO LỘC, Thu 1970).
 
Lời Bình: Châu Thạch
     
     Trước khi đi vào bài thơ, xin vui lòng đọc những trích đoạn viết về Thi sĩ Trần Thoại Nguyên và hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ:
     
     “Năm 1970, khi còn ngồi ở giảng đường đại học Vạn Hạnh, Trần Thoại Nguyên đã có một bài thơ được chọn đăng trong tạp chí Tư Tưởng của đại học này. Đó là bài “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
     Từ đó, Trần Thoại Nguyên tiếp tục treo mình trên những rung động đỉnh ngọn, như một kiếm tìm sự hiệp thông giữa thi ca và trời đất, dù không nhiều.
Với những bài thơ viết sau thời điểm này, dù dù ở hoàn cảnh hay tâm cảnh nào, họ Trần luôn cho thấy ông không ngừng đạp cánh giữa những hư huyễn thực tại và mộng ảo. Thơ treo ông trên những va động giữa ngã và vô ngã. Giữa kiếm tìm bản thể và sự thất lạc, tựa như đó là một định-mệnh-đôi của một thi sĩ. Một cõi riêng tây mà, đôi khi chính ông cũng thấy được dù chiếc bóng của hình tích mình.”
                                        Trích (Trần Thoại Nguyên,  định-mệnh-đôi của một thi sĩ - Du Tử Lê)
      “Đêm trăng leo lên mái chùa là định mệnh, là cột mốc giữa đời sinh viên lang bạt, bằng một sự kiện hi hữu, TTN trở thành thi sĩ.
Sau khi bị té từ mái chùa xuống đất, đầu rướm máu, TTN xuất hồn viết bài thơ trên giấy của bao thuốc Bastos xanh, bài thơ qua tay người ban đến với Thiền sư Tuệ Sĩ, được chọn đăng trên Tập san TƯ TƯỞNG của Viện Đại Học Vạn Hạnh – Cơ quan ngôn luận, dẫn đạo về tư tưởng, Triết lý, Giáo dục và Văn hóa rất uy tín của Phật Giáo Việt Nam.
     Hai mươi tuổi, chàng sinh viên Trần Thoại Nguyên có thơ đăng trên tạp chí TƯ TƯỞNG là một vinh dự lớn. Chỗ đứng của một bài thơ tự khắc xác định đảng cấp của một tác giả. Nhưng với người phê bình, không thể vì “Bứt dây động rừng” mà né tránh những nhận thức của mình với “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
      Đọc bài thơ, như tác giả thổ lộ với Lý Thừa Nghiệp thì leo lên mái chùa là “định chơi ngông muốn thưởng trăng nơi cõi thượng giới ” thưởng trăng cõi thượng giới là cách nói từ vô thức. Thượng giới thuộc về trời cao, vô biên. Khoảng cách độ cao từ mái chùa đến mặt đất, đối với vô biên chỉ là con số không, nghĩa là thưởng trăng dưới đất và trên mái chùa như nhau. Do ý nghĩ sai lầm đó, TTN đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh. Bài thơ được đăng ở Tư Tưởng số 16, trang 27, năm 1970. Tên tuổi Trần Thoại Nguyên đứng chung với những tác giả lừng danh như Thích Minh Châu, Thích Nguyên Tánh, Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Kim Định, Trúc Thiên, Lê Tôn Nghiêm, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư ….. tự khắc, chỗ đứng của bài thơ mặc nhiên khẳng định TTN là một Thi Sĩ. Chàng Thi Sĩ hai mươi tuổi từ đó sa đà vào dòng thơ mang tính cách bác học, ý niệm Thiền và hơi hướng Phật giáo chi phối lổn ngổn trong nhiều bài thơ của TTN, nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
                            
        Ngồi trong vườn nguyệt lộ
        Hôn một màu trăng non.
        Nghe lòng mình cười rộ
        Chạy băng đồi vô ngôn.
     Nguyệt lộ là trăng sáng, sương rơi, là cảnh đẹp thiên nhiên. Vô ngôn trong Thiền tông diễn tả trạng thái tự chứng pháp, tức là thâm mật, là bản trụ của pháp tính. Một khổ thơ rất đẹp, trong vườn sương long lanh ánh trăng, chàng thanh niên ngồi hôn màu trăng non, lòng vui sướng tự chứng cho mình một pháp tính, các khổ thơ tiếp theo diễn đạt thêm.
Trich (Thi sĩ Trần Thoại Nguyên - Đời thơ và Phận người 
Zulu DC)
Bây giờ xin hãy đi vào khổ thơ đầu:
                          
   Ngồi trong vườn nguyệt lộ
   Hôn một màu trăng non
   Nghe lòng mình cười rộ
   Chạy băng đồi vô ngôn
   
        “Ngồi trong vườn nguyệt lô”: Theo định nghĩa của từ điển, nguyệt lộ là trăng và sương. Hát nói của Nguyễn Công Trứ có câu: “Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà”. Vậy “Ngồi trong vườn  nguyệt lộ” là ngồi trong vườn đầy trăng và sương
    
      “Hôn một màu trăng non”:Tâm hồn đắm chìm trong trăng thượng tuần
       “Nghe lòng mình cười rộ”: Trong lòng cảm thấy hứng khởi bất ngờ, cười lên sảng khoái
       “Chạy băng đồi vô ngôn”: Chay băng qua đồi “không lời” là chạy qua ngọn đồi bình tịnh, yên lặng, không tiếng động  dưới trăng. 
     Khổ thơ nầy cho ta nhận biết diễn biến trong tâm hồn khi tác giả thưởng ngoạn cảnh đẹp của đêm trăng vể khuya. Chỉ vể khuya thì mới có sương rơi.
 
     Như trên ta biết nhà thơ đang ngồi trên nóc chùa trong đêm trăng. Vây “Chạy băng đồi vô ngôn” không phải là thể xác của tác giả chạy, mà chính là linh hồn nhà thơ. Linh hồn nhà thơ đã “chứng pháp” theo như nhận định của ZuLu DC ở trên. Vậy có thể nói ở thời điểm nầy Trần Thoại Nguyên đã ở trạng thái kiến tánh, nghĩa là giác ngô được một điều gì đó, nghĩa là cái tâm đã thực chứng điều cao siêu mầu nhiệm, khiến linh hồn ông vui mừng bay bỗng trong không gian, vào cõi vô ngôn. Điều nầy cũng giống như khi ta đọc một nhà thơ Thiên Chúa giáo đi vào cõi im lặng:
                Dáng ngọc lượn về trong giấc êm
                Nhẹ tựa hoa bay chốn nguyệt thiềm
                Đường vào im lặng mê ly quá
                Lót toàn tơ lụa cõi thần tiên
                Trăng sao lịm ngủ từ muôn năm
                Nhạc hội xuân nào cũng lặng câm
                Mà đây sáng quá! Đây sáng quá!
                Dào dạt cung êm vạn nguyệt cầm
                           (Im Lặng – Xuân Ly Băng)
Đọc thơ, ta thấy Trần Thoại Nguyên và Xuân Ly Băng cùng đi vào một cõi. Đó là cõi “hư không vắng lặng,  vũ trụ muôn màu,  trăng rằm đỉnh núi,  hoa hồng nở rộ,  đại dương bát ngát,  nhạc trời du duơng,  bình minh tỏ rạng,  dị thảo kỳ hoa, là cái vui vĩ đại, là cái tịnh như nhiên, là tâm can êm ả, là trí tuệ sáng soi . . .” Đó là “đồi vô ngôn”, con đường dẫn đến Thiên Đàng của Chúa và Niết Bàn của Phật .
  
      Bây giờ xin mời đọc tiếp khổ thơ thứ hai:
                              
       Ồ.Hồn tràn mộng trắng
       Tôi ôm trăng không màu
       Tôi ngút xuống biển dạng
        Tôi dại khờ mắt nâu
“Ô. Hồn tràn mộng trắng”: Màu trắng là màu tượng trưng cho sự tinh khiết, sự trong trắng và sự giản dị. Trong ánh sáng, màu trắng là màu của  tất cả các màu kết hợp lại mà thành. Vậy “mộng trắng” trên đồi “vô ngôn” nghĩa là không mộng, nghĩa là thật mà như là mộng.  Linh hồn tác gỉa đã lọt vào nơi vô nhiểm, nên  giấc mộng ở đây chỉ là sự tinh khôi  tuyệt đối của linh hồn. Màu trắng của Phật giáo còn tượng trưng cho “Tín Căn”, là niềm tin đúng chân lý, phát sinh ra những hạnh lành.
“Tôi ôm trăng không màu”:  Trăng không màu cũng là trăng có đủ màu hợp nhất lại. Trong đời  Phật, ta thấy ngài đảng sanh vào đêm trăng, xuất gia vào đêm trăng, thành đạo vào đêm trăng và nhập Niêt Bàn cũng vào đêm trăng. Vậy ánh trăng trong đạo Phật mang ý nghĩa chân lý. có giá trị thẩm mỹ, mang tính  giải thoát, nhất là khi Phật chỉ trăng mà nói  ý nghĩa rằng : theo ngón tay ta để thấy trăng, như theo lời dạy của ta mà thấy đạo. 
Ôm trăng không màu tức là ôm được chân lý trong trẻo vô biên, vắng lặng tinh khôi  của tánh “không” trong giáo lý Phật.
    “Tôi ngút xuống biến dạng”: Có thể là nhà thơ đã rơi từ mái chùa xuống đất lúc nầy.  Sư rơi của Trần Thoại Nguyên lúc nầy như lọt vào một thạch  động lưu ly màu sắc. Nhà thơ thấy những sự huyền vi bằng con mắt dại khờ màu nâu của mình.
     “Tôi dại khờ mắt nâu”: Vậy mắt nâu có ý nghĩa gì trong câu thơ nầy? Mắt nâu có vẽ đẹp độc đáo và riêng biệt. Đó là màu mắt ngây thơ, dịu dàng và dễ tính. Trong dôi mắt nâu, thường ẩn chưa những điều kỳ bí . Đọng trong ánh mắt nâu thứ anh sáng của lý trí, được suy nghiệm nhưng lại dấu kín trong lòng. Hãy đọc vài câu thơ tình yêu về mắt nâu của nhà thơ Du Phong”
                                 Em đã giấu điều gì vậy, em ơi,
                                 Sau đôi mắt nâu là những lời chưa nói?
                                 Đến bao giờ em trả lời câu hỏi,
                                 Chúng mình là gì đó của đời nhau?
                                 Em giấu điều gì trong đôi mắt nâu?
                                  (Em Dấu Điều Gì Trong Mắt Nâu)
   
Đọc khổ thơ nầy, ta có thể hình dung linh hồn nhà thơ đang bay qua đồi “Vô Ngôn”, thân thể liền rơi xuống trần. Vậy nhưng khi rơi xuống trần, nhà thơ vẫn chưa tỉnh mộng, giấc thụy du vẫn còn kéo dài qua những khổ thơ như sau:
                           
       Ngắt một bông trắng lau
       Hương thắm giọt máu đào
       Đêm bừng lên nguyệt thẹn
       Tôi nằm dài xanh xao
Lúc nầy có lẻ là lúc nhà thơ đã đập đầu xuốngđất.  Nhà thơ đã ngất đi và linh hồn bước qua một cơn mơ khác. Có lẽ trong khi bất tỉnh, linh hồn nhà thơ vẫn chưa quay lại với  thân thể, nên nhà thơ thấy máu của mình trong bông lau màu trắng, thấy thân thể mình nằm xanh xao, đó là giấc mơ pha trọn giữa mộng và thực.
Hoa cỏ lau là loại hoa có những cánh hoa nhẹ nhàng và mềm mại đung đưa trong gió, tuy nhiên chúng lại là loại hoa có sức sống rất kiên cường và mãnh liệt khi đứng trước sóng to gió lớn. Vậy nên loại hoa này thường tượng trưng cho vẻ đẹp hoang sơ cùng với sức sống mãnh liệt, nó làm biểu tượng cho những kí ức được khắc sâu trong tâm trí của nhiều người.
Tác giả thấy mình ngắt một bông hoa cỏ lau thắm giọt máu đào nhưng vẫn có hương thơm. Điều đó thể hiện ký ức bừng trong linh hồn tác giả ngay giờ phút bị  va đập mạnh.  Bông hoa lau thể hiện sự phất phới của kỷ niệm bay về trong bầu trời huyễn mộng mà tác giả đang lơ mơ nửa tỉnh nửa mê. Đêm bây giờ không còn là “nguyệt lộ” mà đã trở thành “ nguyệt then” vì cái thân thể “Tôi nằm dài xanh xao” của tác gỉả dưới trăng.
   
Dẫu thân thể đã “Tôi nằm dài xanh xao” nhưng linh hồn nhà thơ qua một cuộc “chạy băng đồi vô ngôn” đã chứng ngộ được pháp tính, đã an trú trong  niềm khoái lạc của đạo:
                                  
         Chim về ngủ ôm trăng,
         Ngô đồng rơi chánh điện.
         Tôi ngồi giữa Phật đàng
         Làm thơ như thánh hiện.
           Máu ràn rụa tây hiên
           Ồ. Máu băng ngực điên!
          Tôi tĩnh mịch trang thơ
           Hồn bay theo nhang khói
       “Chim về ngủ trong trăng”: là sự an trú trong thanh tịnh của linh hồn tác giả. 
“Ngô đồng rơi chánh điện” : Ngô Đồng là một loại cây quý, chim Phượng Hoàng đến đậu, thân cây làm nhạc khí . Câu thơ tượng trưng cho một linh hồn tốt đẹp,  quay về  đúng nơi bệ thờ cao quý, như chiếc lá Ngô Đồng rơi vào nơi chánh điện.
       Đọc cả hai khô thơ trên, cho ta nhận biết sự thanh thoát trong linh hồn tác giả. Tuy “Máu ràng rụa tây hiên/ Ôi. Máu băng ngực diên!” nhưng người thơ vẫn tỉnh tọa “ngồi giữa Phật đàng” để “tỉnh mịch trang thơ”. cho hồn mình “bay theo nhan khoái” là một sư thăng hoa nhẹ bổng, êm đềm.
     Cuối cùng nhà thơ ví mình như con chim chết giữa điện thờ:
  
      Chim chết giữa điện thờ
       Tôi rớt xuống điện thờ.
      Chim là con vật yếu đuối, được chết giữa điện thờ là một vinh dự lớn lao. Trần Thoại Nguyên xem sự rớt của mình như con chim chết giữa điện thơ là một hạnh duyên tốt đẹp, như một cú đánh mạnh vào đầu cúa vị thiền sư trong lúc thiền sinh đang  ngồi viễn mộng, hồn thụy du về một cõi xa xăm.  
     Toàn bộ bài thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” tác giả nói về trăng. Nhà thơ ngắm trăng, bay qua trăng, rơi trong trăng và ngộ ra điều huyền nhiệm cũng ở trong trăng. Trăng là những điều huyền diệu soi khắp bản thể của muôn vật trong trời đất. Mỗi con người trong linh hồn cũng có một vầng trăng nội tại, nói xa xôi là một vị Phật còn ẩn trong lòng. Bài thơ như nói về vầng trăng ngoại tại, vầng trăng thiên nhiên đã khai sáng, cho linh hồn thấy được vầng trăng nội tại. Khi nhà thơ rơi từ cao xuống, cú va đập làm cho tóe máu cũng chính là lúc hai vầng trăng hòa điệu cùng nhau, tánh Phật trong tâm lóe sáng,  hiển hiện khi nhà thơ ví mình như con “Chim chết giữa diện thờ”.
       
       Như nhà thơ ZuLu ĐC đã viết ở trên: “TTN đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh”. “Nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”. 
    Bởi vậy với trí óc nông cạn của mình, Châu Thạch tôi  viết bài nầy vì yêu bài thơ và tác giả bài thơ, nên liều mạng múa rìu qua mắt vạn vạn thợ anh tài. Xin cúi đầu nhận những lời phê  phán trách chê. Bài viết khi sao lục, chép lại của giả khác đều dược đóngvào trong ngoặc kép./. 
                                                     CHÂU THẠCH 


***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2021(Xem: 11105)
Trong thế giới thi ca hiện đại Việt Nam, ngoài những nhà thơ nổi tiếng như Bùi Giáng, Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Phạm Thiên Thư…thì Trần Xuân Kiêm, tuy ẩn mật nhưng hồn thơ lai láng, chan hoà cả trời thơ đất mộng mông lung. Một niềm thơ tình tự, tương tư trong nỗi sầu ca vô cùng xúc động cứ đồng vọng hoài trên mặt đất ngân rung. Không biết tự bao giờ, em đã đến giữa tồn sinh này, khiến cho thi nhân ngất say trong chén rượu nồng được rót từ suối tóc long lanh, từ biển mắt xanh biếc huyền diệu mông mênh. Em về đây từ một thế giới ban sơ vừa mộc mạc, giản dị vừa huy hoàng, diễm lệ. Thế giới của thơ và họa giao thoa trong tiếng nhạc của trời giữa thiên thu vời vợi… Nơi đây dư vang của huyền thoại quy hồi và em xuất hiện. Em về ngồi đó, lặng lẽ trong bóng chiều vĩnh cửu, thiên thu, đủ cho chàng thi sỹ ngây ngất, bàng hoàng, choáng váng, vội vã Quy Hàng: Em ngồi trong bóng thiên thu Nắng vui còn đọng lời ru suối ngàn Có ta cõi đó điêu tàn Đá khô đất sụp
16/05/2021(Xem: 10117)
Trước khi xuất bản, chúng tôi có duyên được đọc tác phẩm mới nhất, Triết Lý và Thi Ca, của Nguyên Siêu, tức là Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu, một vị Thầy lớn hiện tại ở Hoa Kỳ. Thầy có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, trước tác và dịch thuật quan trọng như: Tư Tưởng Xã Hội Trong Kinh Điển Phật Giáo Nguyên Thủy (1994), Ưu Đàm Lướt Bão (1998), Tâm Nguyên Vô Đề (2012), v.v… có thể tìm thấy ở đây: (https://hoavouu.com/author/about/129/ht-thich-nguyen-sieu). Nhưng có lẽ chúng tôi trân quý nhất là 3 cuốn: Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập I (2001, 2006), Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập II (2006, 2020) và Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ và Phương Trời Mộng, tập III (2013, 2020) do Thầy biên tập. Chúng tôi còn nhớ, như là tiếng nói từ đáy lòng khi thầy Nguyên Siêu chia sẻ về Ôn Tuệ Sỹ, "Thầy đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam những công trình khảo cứu, dịch thuật, thi văn, tư tưởng Triết học để khu vườn văn hóa Việt Nam thêm nhiều hương sắc.” Cũng tương tự, Thầy Nguyên Siêu cũng
15/05/2021(Xem: 5229)
Ca Diếp Tôn Giả Hạnh Niêm hoa vi tiếu mở tâm nguyên Phát nguyện chuyên tu nối pháp truyền Linh Thứu huyền cơ rền khắp chốn Đầu Đà diệu hạnh độ muôn duyên
15/05/2021(Xem: 5890)
Kính mừng ĐẠI LỄ Vía Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát . Kính dâng Thầy bài thơ về vía Đại Trí Văn Thù Sư Lợi , Đức Bồ Tát đã hộ trì con từ khi con đặt chân lên Ngũ Đài Sơn ( 2010 ) và đã thấy một sự hiển linh vi diệu đến cuộc đời con kể từ ngày ấy đến nay . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy, HH Khi tháng tư âm lịch về, hai đại lễ cần ghi nhớ ! Vía Đức Văn Thù mừng bốn tháng tư Sang đến rằm Vesak lễ hội Đức Bổn Sư Nhưng cùng tiêu biểu cho Từ Bi và Trí Tuệ !
13/05/2021(Xem: 6328)
Diệu Tâm Ca, tập truyện thơ kể về cuộc đời của Đức Phật, nội dung ngụ ý một bản trường ca về Một Cõi hay Một Nhân Cách thị hiện Chân Tâm Vi Diệu. Dù nói là Một Cõi hay là Một Nhân Cách, Một Thể Tính, vẫn là cách nói vượt ngoài tầm với của thế tục trí, bởi đó là Cõi mà ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt: Đường đi của ngôn ngữ bị cắt đứt, dấu chân của tâm hành bị xóa sạch, như hư không, không thấy dấu chân chim.
11/05/2021(Xem: 7541)
Tử vong đành chấp nhận do Nghiệp và Phước ! Kính bạch Thầy trong bài pháp thoại sáng nay, Thầy có báo cho đại chúng về nguồn tin đang chấn động" vị bác sĩ nổi tiếng đã tiêm ngừa vắc xin đã hai lần rồi mà vẫn bị vi rút Covid tấn công" và VN đang áp dụng luật lệ 5 K. Kính dâng Thầy bài thơ con cảm tác . Kính chúc sức khỏe Thầy, HH Bản tin về con Vi rút biến thể thật chấn động ! Nhà Bác Sĩ về truyền nhiễm học đã tử vong Dù hai lần tiêm vắc xin thứ xịn ( Pfizer) tưởng ... xong ! Không ngờ ... nghiệp hay Phước mới là quyết định !
10/05/2021(Xem: 5295)
Mây chùng khói sóng khựng chân lê, (*) Tuổi mộng xa rồi lắng thạch khê… Dấu nỗi đời chênh ràng chốn ở, Ghìm duyên phận mỏi ngại nơi về.
08/05/2021(Xem: 7291)
Kính dâng Thầy bài viết về ngày Mother’s Day. Cứ mỗi năm đến ngày Mother’s Day và lễ Vu Lan thì hình ảnh Thầy rơi lệ trong một bài pháp thoại mùa đại dịch lại hiện ra ...Tình thương Mẹ của Thầy đã biểu hiện trong ánh mắt, nụ cười qua những bức ảnh và khi nói về Niệm Phật Thầy luôn đọc bài thơ Sám Niệm Phật mà Cụ Bà Tâm Thái đã đọc từ kinh Tam Bảo của nhiều chùa xưa . Hôm nay nhân sưu tầm bài viết có một câu của bà mẹ gửi cho con ...kính ghi chép lại và kính dâng những ai từng rơi lệ dù là nam nhi .. " Con trai của Mẹ, nếu buồn hãy cứ khóc, đừng giấu nước mắt vào trong như những người thường chỉ dạy . Con trai khóc cũng không sao cả, nếu nước mắt này giúp cho điều lo lắng về mẹ và buồn bả không được gần Mẹ sẽ vơi đi và giúp con cảm thấy nhẹ nh
07/05/2021(Xem: 4422)
Con vẫn biết : Với thời gian Mẹ không còn nét diễm kiều đài các ! Nhất là khi Cha khuất bóng nhiều năm Một mình lo toan với trăm việc ứ đọng ...ngầm Mẹ âm thầm làm việc không giờ nghỉ !
04/05/2021(Xem: 5827)
Hạnh phúc thay được tham cứu một dòng Thiền ! Kính dâng Thầy bài thơ để tri ân những gì con đã học được trong Tổ Sư Thiền và nhất là về công án . Kính bạch Thầy con đã mê say đọc và nghiên cứu từng công án và đã học được thêm chút ít nên rất hạnh phúc mỗi ngày Bài thơ này xin kính tri ân Thầy khi nghe Sư Phụ Viên Minh dạy phải có giác ngộ mới nói đến giải thoát được . Kính đảnh lễ Thầy và kính chúc sức khỏe Thầy Hạnh phúc thay từ ngày học về công án! Mỗi lần tham cứu có cơ hội đào sâu ... Vừa học hỏi vừa biết trình độ tới đâu . Thọ nhận, liễu thông chút nào Chân lý?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]