Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phẩm Bà-La-Môn

14/03/202116:52(Xem: 4903)
26. Phẩm Bà-La-Môn

Kinh Pháp Cú

____________
Dhammapada
____________

 

Chuyển vần lục bát : Nhuận Tâm Nguyễn Kim Cương

 Bản gốc :
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu dịch từ bản chữ Hán

Hoà Thượng Thích Minh Châu  từ bản chữ Pali

26. Phẩm Bà-La-Môn (BRAHMANAVAGGO)
---o0o---

383. Bà-la-môn (1) các người ơi
Hãy mau tinh tấn, dứt rời dục, tham
Uẩn kia rõ lẽ diệt tan
Vô vi chứng được Niết Bàn cõi Thiên

384. Được sang bờ nọ an nhiên
Cũng nhờ chỉ, quán (2), pháp thiền trụ an
Bà-la-môn trí sáng lan
Diệt trừ ràng buộc, sạch tan não phiền

385. Có, không, không, có, chẳng màng
Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không
Khổ đau diệt, trói buộc buông
Bà-la-môn đó, xứng danh gọi liền

386. Dốc lòng, vững chí tu thiền
Ẩn cư, dứt sạch lậu phiền, việc xong
Đích cao tối thượng chứng thành
Bà-la-môn đó, xứng danh gọi rồi

387. Ban ngày chiếu sáng mặt trời
Ban đêm nhờ ánh sáng ngời mặt trăng
Kiếm cung sáng chói vua quan
Định thiền tỏa sáng khắp hàng Sa môn
Hào quang của Phật lạ thường
Đêm ngày chói sáng, soi chung mọi loài
(1) Bà la môn là đẳng cấp của các tu sĩ, triết gia, học giả, các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Phật. Cũng gọi là Phạm chí (hán tự)
(2) Là hai cách tu thiền: thiền chỉ là tập trung để tâm tĩnh lặng, thiền quán là tập trung để nhìn sâu vào bản chất sự việc


388. Bà-la-môn dứt ác rồi
Người tu thanh tịnh, gọi thời Sa môn
Người nào cấu uế sạch trơn
Xuất gia bậc ấy, xứng danh cõi trần

389. Bà-la-môn chớ hận sân
Dù cho bị đánh, phạm thân, chẳng thù
Xấu thay kẻ đánh người tu
Mang lòng sân hận, oán thù, xấu hơn

390. Tâm sân hận được chận ngăn
Vô cùng lợi ích cho Bà-la-môn
Phục điều tham ái, hận sân
Khổ đau dứt diệt, tâm thần lạc an

391. Ai thân, miệng, ý, giữ giàng
Không gây nghiệp ác, một đàng chánh chân
Hộ phòng ba nghiệp tinh cần
Bà-la-môn đó, cõi trần xứng danh

392. Nghe ai thuyết Chánh Pháp lành
Giảng về Phật Pháp cho mình hiểu thêm
Một lòng kính lễ bậc trên
Như người thờ lửa cung nghinh lửa thần

393. Bà-la-môn, tựa chánh nhân
Chẳng vì bện tóc, chẳng cần gốc sanh
Thật, chân, chánh trí, tịnh thanh
Bà-la-môn mới xứng danh ở đời

394. Kẻ ngu tu bện tóc tai
Da dê làm áo cũng hoài, ích chi
Nội tâm phiền não, u mê
Chỉ lo trang điểm, thoát ly khó vời


395. Ai choàng phấn tảo (1) rã rời
Người thời gầy guộc, da thời nổi gân
Trong rừng tu định, độc thân
Bà-la-môn đó, thập phần xứng danh

396. Bà-la-môn chẳng xứng danh
Nếu nhờ chủng tộc, mẹ sanh truyền đời
Chỉ nên dùng chữ thường thôi
Nếu còn chấp trước, chẳng nguôi não phiền
Dứt xong chấp trước, não phiền
Bà-la-môn tánh, ta liền gọi tên

397. Chẳng còn lo sợ đã nên
Mười điều khổ não muộn phiền (2) dứt xong
Tâm không đắm trước buộc ràng
Bà-la-môn tánh, ta hằng gọi tên

398. Bỏ đai sân hận một bên
Bỏ cương ái dục, tùy miên (3), kiến tà
Vô minh hết, sáng suốt ra
Bà-la-môn tánh, chính là danh xưng

399. Chẳng sinh ác ý, hận sân
Dù cho bị mắng, phạm thân, phạt hình
Có quân bi, nhẫn, tinh binh
Bà-la-môn tánh, xứng tình, xứng danh
(1) Áo phấn tảo: may bằng các mảnh vải thừa góp lại
(2) Gồm 5 phiền não của hạ giới: thân kiến (chấp thân có thật), nghi, giới cấm thủ (chấp các giới cấm tà), dục ái, sân và 5 phiền não của
thượng giới: sắc ái, vô sắc ái (tham đắm định), mạn (ngạo mạn), trạo cử (loạn động), vô minh
(3) Tùy miên gồm: dục, tham, sân, mạn, ác kiến, nghi, vô minh



400. Hạnh thời đầy đủ, lìa sân
Một lòng trì giới, bỏ tham dục rồi
Phục điều thân cuối này thôi
Bà-la-môn ấy, sáng ngời tính danh

401. Tựa như nước đổ lá sen
Tựa như hạt cải, đầu kim, đôi đường
Những người ái dục chẳng vương
Bà-la-môn tánh, ta thường gọi tên

402. Ai mà tự giác, tự rèn
Diệt trừ gốc khổ, não phiền chẳng sinh
Xong bề giải thoát, nhẹ mình
Bà-la-môn tánh, xứng tình làm sao

403. Những người trí tuệ thâm cao
Tỏ tường Chánh Đạo, đạo nào ngụy hư
Cảnh Vô thượng đạt nhờ tu
Bà-la-môn ấy, danh từ đúng thay

404. Tục, Tăng chẳng lẫn với ai
Chẳng là thế tục, chẳng vời xuất gia
Độc thân, lìa dục ái Ma
Người nào như vậy, chính Bà-la-môn

405. Dời đao, bỏ trượng sát thương
Chúng sinh yếu kém, kiên cường, mặc ai
Chẳng sai giết, chẳng giết ai
Bà-la-môn đó, chính người chân tu



406. Sống thân thiện giữa địch thù
Giữ ôn hòa giữa mây mù hung hăng
Không vương mắc giữa mắc giăng
Bà-la-môn đó, xứng hàng chân nhân

407. Ai mà lìa bỏ tham, sân
Này lòng kiêu mạn, này tâm tị hiềm
Tựa như hạt cải, đầu kim
Bà-la-môn ấy, xứng tên gọi rồi

408. Ôn hòa, từ ái một lời
Dù cho xúc phạm một người cũng không
Nói điều lợi ích, thật chơn
Bà-la-môn ấy, tấm lòng sáng chưng

409. Người tu, trộm cắp chẳng vương
Dù cho vật xấu, đẹp, thường, dửng dưng
Không cho không lấy, chánh chơn
Bà-la-môn ấy, tấm gương tuyệt vời

410. Người không dục vọng nhúm khơi
Đời này thanh tịnh cũng tày đời sau
Đó là giải thoát nhiệm mầu
Bà-la-môn đó, hàng đầu danh xưng

411. Những người trí tuệ khai thông
Không còn tham ái, chẳng còn nghi nan
Chứng vào cảnh giới Niết Bàn
Bậc chân tu đó, hàng Bà-la-môn

412. Những ai sống cõi thế gian
Không vương thiện ác, không màng sầu vui
Tâm tư thanh tịnh tuyệt vời
Bà-la-môn đó, người người vinh danh


413. Đoạn trừ ái dục, tái sanh
Như vầng trăng sáng trong lành chiếu soi
Bụi không gợn, vẻ sáng ngời
Bà-la-môn đó, người đời xướng danh

414. Vượt qua phiền não, dục tham
Luân hồi nhiếp phục, Niết Bàn thấy ra
Không nghi, vướng mắc, đắm sa
Định thiền, tịch tịnh, đó Bà-la-môn

415. Đời này dứt bỏ dục luôn
Xuất gia học đạo, Sa môn điều mình
Không cho tham dục phát sinh
Bà-la-môn đó, xứng danh cõi trần

416. Đời này dứt bỏ ái luôn
Xuất gia học đạo, Sa môn điều mình
Không cho dục ái phát sinh
Bà-la-môn đó, xứng danh ở đời

417. Thoát xong ràng buộc con người
Thoát luôn ràng buộc cõi trời, lìa xa
Mọi điều ràng buộc thoát ra
Thánh nhân này đúng là Bà-la-môn

418. Những điều ưa ghét dứt luôn
Ái tham, chấp thủ (1), sạch trơn chẳng còn
Phục điều ngũ uẩn tinh thuần
Bà-la-môn đó, thập phần xứng danh

(1) Chấp thủ: ghì chặt lấy, giữ lấy cho mình



419. Tỏ tường sống chết chúng sanh
Nhưng không chấp trước (2), mắc vành trói ta
Sáng tâm giác, khéo vượt qua
Thánh nhân này đúng là Bà-la-môn

420. Người hành giả, bậc Thánh nhân
Mà người, Trời, quỷ khó tầm chốn nơi
Thọ sanh phiền não dứt rồi
Bà-la-môn đó, khó ai sánh vì

421. Vị lai, quá khứ, có chi
Hiện thời cũng chẳng có gì trong tay
Không chấp thủ, khéo xả thay
Bà-la-môn đó, người này Thánh nhân

422. Như trâu chúa có sức thần
Như người hùng thắng uẩn phiền não Ma
Như người tẩy sạch uế nhơ
Trí tâm giác ngộ, ấy Bà-la-môn

423. Mâu Ni (3) kiếp trước tỏ tường
Giới Thiên, cõi đọa, đã từng thực hư
Tái sinh đã bị diệt trừ
Bậc Vô Thượng Trí, tâm tư thắng tà
Viên thành thiện nghiệp tự ta
Chân tu người đó, ấy Bà-la-môn
(2) Chấp trước: giống như chấp thủ, nói về một ý niệm
(3) Mâu Ni: người tu tập đã chuyển hóa được tham, sân, si và thanh tịnh thân, khẩu, ý
---o0o---




***

facebook-1


***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/09/2014(Xem: 10970)
Đường lên đó vẳng lời chim lảnh lót Dọc ven sông hoa nắng trổ mây lồng Dòng Hương khuất sau cánh rừng cây lá Qua dốc đồi thoáng hiện bóng Huyền Không
25/09/2014(Xem: 9144)
Chiều buồn ngồi ngắm mây bay. Mây ơi, gió hỡi có hay được rằng, Cuộc đời là kiếp lằng nhằng. Quanh đi quẩn lại chỉ ngần ấy thôi.
24/09/2014(Xem: 11158)
Xanh cây lá rừng cao trầm hùng vĩ Chập chùng lên ghềnh đá tảng đồi hoang Ẩn hiện triền non ven sườn dốc Thanh Lương Am thấp thoáng giữa sương ngàn
24/09/2014(Xem: 30742)
Vào năm 2007, có thêm 13 kỷ lục Phật Giáo Việt Nam (PGVN) được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam (Vietbooks) & Báo Giác Ngô công bố rộng rãi. Trong số đó, xin nhắc lại một kỷ lục: “Ngôi Chùa Có Bản Khóa Hư Lục Viết Trên Giấy Lớn Nhất Việt Nam- Bản kinh do cư sĩ Đặng Như Lan viết tại chùa Vĩnh Nghiêm, Q.3, TP.HCM năm 1966. Bản kinh viết dựa theo Khóa hư lục của Trần Thái Tông (1218-1277) có kích thước rộng 1,78m, dài là 2,7m, hiện đang được trưng bày tại chùa Phổ Quang, Thành phố Hồ Chí Minh”.
24/09/2014(Xem: 14681)
Ngọn núi nhỏ Phổ Đà, còn được gọi là Núi Ông Sư, thuộc địa phận làng Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh- tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố biển Nha Trang khoảng 50 cây số về hướng Bắc, có hình thù của một “ông Tượng” nằm giữa một vùng mây nước hữu tình, tứ bề sơn thủy làng mạc bao bọc tạo nên một bức tranh phong cảnh bàng bạc thơ mộng và thiêng liêng ấm cúng.
24/09/2014(Xem: 11248)
Thôi, chia tay tiễn một người Căn duyên đã dứt, xa rời trần gian Chia buồn gia quyến chít tang Chia xa người khuất, suối vàng đón linh Đã xong, sống trải hết tình Tàm quý học đạo, tịnh thanh tâm thường
23/09/2014(Xem: 11819)
Nỗi trôi từ độ vô minh Đớn đau từ thuở thác sinh làm người. Sóng dồi bão dập ... tả tơi Đời tan tác mộng , nghiệp phôi pha tình.
22/09/2014(Xem: 10589)
Đừng trách đừng buồn đừng thở than Đừng hờn đừng giận đừng ngỡ ngàng Nhẹ nhàng chấp nhận điều ngang trái Oán hận làm chi chuyện bẽ bàng
21/09/2014(Xem: 11786)
Cõi tạm ta bà, cõi nghiệt oan, Can chi sân hận đến hơi tàn. Một nhành dương liễu xua ba nghiệp, Bốn tiếng hồng danh (*) độ sáu đàng. Ma đạo lộng hành thời mạt pháp,
21/09/2014(Xem: 12592)
Không vui, không buồn Một thời Thế Tôn ở Sàketa, rừng Anjana, tại vườn Nai. Rồi thiên tử Kakudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn khu rừng Anjana, đi đến đảnh lễ, bạch Thế Tôn: Thưa Sa môn, Ngài có hoan hỷ không? Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ? Nếu vậy, thưa Sa môn, có phải Ngài sầu muộn? Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn? Vậy thời thưa Sa-môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn? Thật như vậy, này Hiền giả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]