Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lá Trầu Khô Dâng Mẹ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm, do Phật tử Tường Dinh diễn đọc)

08/05/202008:55(Xem: 5334)
Lá Trầu Khô Dâng Mẹ (truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm, do Phật tử Tường Dinh diễn đọc)

Me hien-3
Lá Trầu Khô Dâng Mẹ
Truyện ngắn của Thích Hạnh Phẩm

do Phật tử Tường Dinh diễn đọc





Mẹ kể: không biết Mẹ đã ăn trầu từ khi nào, chỉ nhớ là khi về làm dâu Nội. Vì Ông Bà Ngoại mất sớm nên khi làm dâu Mẹ như dồn hết tình thương cho Ông Bà Nội, như con gái ruột trong nhà. Và từ đó sau những ngày đồng áng nương rẫy, Mẹ tận tụy chăm sóc cho Ông Bà, những chuyện vui buồn Bà thường sẽ chia với Mẹ, những buổi chiều tối trời se lạnh, những buổi sáng mưa bấc cóng người thì miếng trầu như thật gần gũi ấm lòng. Và tình thương Mẫu tử thiêng liêng ấy cứ tăng dần lên cho đến khi Ông Bà quá vãng.

Con trai Mẹ, đứa trẻ lém lỉnh từ thuở nhỏ, cứ mỗi lần nhìn thấy hàm răng đen của Mẹ thì thắc mắc đến khi Mẹ giải thích vừa bụng mới thôi, cái cơi trầu bằng mành tre Cha đan cho Mẹ và chiếc ngoáy trầu bằng tút vít đạn do Cha cắt ra như những vật thân thương với con của Mẹ từ thời tấm bé. Thuở nhỏ, những buổi chiều đi học về, không có gì hạnh phúc bằng khi được Mẹ gọi đi mua ốp trầu và vài trái cau của Bà Hai đầu làng. Trên tay, tung tăng như một chiến tích kiêu hùng, vừa đi vừa la rân cho lũ bạn cùng trang lứa biết…

Thế rồi, hơn 6 hay 7 tuổi gì đó, con trai Mẹ cũng tập “phá”, têm trầu bổ cau cho Mẹ, những lần bổ cau không được, bị đứt tay nhưng vẫn năn nỉ Mẹ cho bằng được . Và từ ấy, những lần têm trầu cho Mẹ như một thứ gì đó vui thích trong lòng, thậm chí có lúc Mẹ sợ cau trầu đắc đỏ, không dám ăn, cũng năn nỉ Mẹ ăn để têm trầu cho Mẹ.


trau cau


Lúc đầu, cố làm lấy được, nhiều lần vì Mẹ chìu con trai nên vôi nhiều quá mà bị bỏng môi, nhưng Mẹ vẫn cười, sau này biết khôn hơn, mỗi khi quết miếng vôi lên lá trầu là tay giơ lên, quơ chạy một vòng trong nhà, vừa để Mẹ khẳng định vôi vừa hay không và cũng như để khoe công với anh chị.
Những tháng ngày tuổi thơ như vậy cứ êm đềm trôi qua như dòng sông tĩnh lặng. Mấy cây cau cũng đã lớn và trái nhiều hơn, mấy bụi trầu phía sau nhà được Cha xin giống về trồng cũng dần đâm nhánh, đầy khắp mấy cây vông.

Thế rồi con của Mẹ đã vào chùa, không còn trong vòng tay thân thương của Mẹ nữa, những ngày đầu tiên vào chùa thật nhớ nhà lắm, nhưng nhớ nhiều nhất là những buổi sớm mai không có têm trầu cho Mẹ. Mùi khói nhang chùa bay vào mắt mà cứ ngỡ như những lần lén ăn mấy miếng trầu để Mẹ la. Thỉnh thoảng ra phía sau vườn chùa, như cố tìm kiếm một góc trầu thân thương hay cây cau ở đâu đó.

Nhớ nhất là sau chiều mồng hai tết mỗi năm, được Sư Phụ cho về thăm gia đình, Cha Mẹ mấy ngày ở nhà điều thích làm nhất là cũng như ngày nào, têm trầu và ngồi nghe Mẹ nói chuyện đời xưa. Thật sự những câu chuyện ấy con Mẹ đã thuộc lòng trong từng lời Mẹ kể, nhưng không hiểu sao, bao năm vẫn thế, vẫn thích ngồi nghe. Trong tâm cảm của con không những chỉ nghe Mẹ kể chuyện mà còn nghe những nhịp đập của con tim chính mình, những giọng nói và nụ cười của Mẹ như một trời thân thương, ấm áp mà con không thể nào tìm kiếm ở nơi đâu.

Sau thời gian con của Mẹ vào trường Phật Học Nội Trú, thời gian về nhà không còn được như trước, nhưng mỗi lần về là thấy Mẹ ăn trầu ít đi, ngày càng giảm. Sau mấy năm nữa, có lần về nhà, nước mắt không kìm được, Mẹ nói bây giờ Mẹ không còn ăn trầu thường được. Mẹ đã yếu nhiều. Mái tóc dài của Mẹ ngày xưa giờ cũng không còn nữa, mọi thứ như đã báo hiệu. Con Mẹ buồn thật buồn lòng như se thắt lại mỗi khi rời nhà. Về đến chùa rồi nhưng lòng cứ lo âu, những tháng ngày sống nhớ thương Cha Mẹ càng tha thiết, mỗi đêm nghe tiếng chuông điện thoại kiêu vang ở văn phòng nhà trường như một nỗi ám ảnh trong lòng.

Dòng đời cứ cuộn chảy, con của Mẹ vẫn cứ biền biệt, chỉ có những lá thư viết tay gửi bưu điện về với những lời thăm hỏi, cứ lần lượt trôi qua. Cây cau đã già, bụi trầu phía sau vườn giờ cũng đã cằn cỗi, từng lá trầu úa trong cơi trầu của Mẹ càng nhiều…

Thật khó cho con của Mẹ khi quyết định đi xa, nhưng đến bây giờ con vẫn luôn tự hỏi, con người sanh ra phải chăng để được sống đạm bạc, bình an hay rong duỗi giữa trường đời đầy gió lộng…?, những hạnh phúc nhất của cuộc đời lại vô tình hay vì lý do gì đó phải rời xa…?, phải chăng tất cả cũng chỉ là những ảo ảnh của phù du đã được đắp lên bằng nhiều kiểu sơn màu khác nhau cho đẹp đẽ, nhưng tất cả không phải là giá trị đích thực của đời người.
Hai tuần về ở nhà với Cha Mẹ, nhưng niềm vui ngày nào giờ gần như không còn nữa, nỗi buồn lo lắng luôn ngự trị trong lòng. Trong thời gian ấy, Mẹ ngồi gắng gượng để con vui, và những miếng trầu cau ngon nhất Mẹ cũng nhai từng miếng thật khó khăn. Con biết, Mẹ cố gắng để con vui mà yên tâm tu học…

Trong đêm tối, chiếc máy bay cất cánh, lần đầu tiên nhìn ngắm bầu trời cao rộng, trong lòng suy nghĩ miên man, suốt chặng đường từ Việt Nam sang Úc gần như không chợp mắt được chút nào, nhìn lên màn hình, từng chặng đường đi qua, nơi thôn xóm nhỏ có bờ cây bến nước, có Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và đặc biệt chiếc nhớ cơi trầu chan chứa cả suối nguồn tình thương của tuổi thơ thần tiên bé bỏng. Lúc máy bay qua hết địa phận Việt Nam, mắt bỗng lệ nhòa, chắc từ đây không còn có cơ hội ngồi nghe Mẹ kể chuyện đời xưa và không còn diễm phúc được têm trầu cho Mẹ…

Mẹ bệnh nặng, con Mẹ dù chưa được ổn định tại xứ người nhưng vẫn thu xếp mọi chuyện về lo tròn đạo hiếu. Nhìn Mẹ nằm im, tim con như tan nát từng mảnh nhỏ, cố nén từng dòng bi thương cuộn chảy trong lòng. Mẹ không nói, nhưng con vẫn cảm nhận được Mẹ đang nói gì từ suối nguồn yêu thương của Mẹ.

Một tuần sau, Mẹ từ biệt cõi đời, những ngày cuối năm thật quặn đau lòng thắt, nhìn hoa vạn thọ nở mà nhớ Mẹ không biết chừng nào. Con cố vặn hỏi cái cơi trầu của Mẹ, cả nhà ai cũng biết rất thương quý cái Cơi Trầu như một bảo vật của Gia đình. Sau này Cha cho biết , khi con Mẹ rời quê hương cũng là lúc Mẹ không còn ăn trầu nữa, chiếc Cơi trầu giờ đã trở thành hình ảnh thiêng liêng ở trong lòng.

………….
Trong tâm trạng thương đau, khi trở về lại Úc, cảm giác như mất tất cả, tất cả như sụp đổ trong con. Ngày nào còn Mẹ như một động lực thiêng liêng nuôi dưỡng con qua nhiều chặng đường gian khổ. Những lần cúng Mẹ, thật khó ở đây để kiếm được lá trầu tươi. Có lần may mắn nhờ Phật tử mua được mấy lá trầu khô và chút vôi. Trong bữa cúng Mẹ, con cảm xúc vô cùng, ký ức tuổi thơ nhưng đang cuộn chảy trong… Lá trầu khô nhưng mắt cay và lòng như thắt lại, bao ý nghĩa thiêng liêng đang sống lại trong con giữa cuộc đời đầy thị phi nhân ngã:

Đây Lá Trầu Khô con dâng Mẹ
Đây suối nguồn diễm lệ của đời con

Đêm Mùa Thu Úc quốc, 2020
Con của Mẹ
Thích Hạnh Phẩm


trau cau-2

Cơi trầu của nội



Trong ký ức của tôi, tất cả đàn bà trong làng đều có tục ăn trầu. Người nào không có thói quen này đều bị chê là “để miệng mồm nhợt nhạt khó coi”. Vì thế, nhà nào cũng có trồng ít nọc trầu, vài ba cây cau để tự cung tự cầu.

Mỗi người đàn bà trong nhà đều có một cơi trầu riêng, trong đó luôn đầy đủ: trầu, cau, bình vôi, hộp thuốc lá, con dao nhỏ… ăn một miếng trầu phải có đủ lệ bộ kèm theo. Trầu, cau, thuốc lá đã có sẵn trong vườn nhưng xác giún (một loại vỏ cây để ăn chung với trầu, thường là vỏ cây bò cạp), vôi thì phải mua ở chợ.

Bà nội tôi cũng có một cơi trầu như thế. Khi tôi lớn lên, mắt bà đã lòa, răng không còn chiếc nào. Trong cơi trầu của bà vì thế, có thêm một ống ngoáy (cối) để giã trầu cho nát trước khi ăn.

Bà nội tôi không đi chợ được nên những món cần dùng phải nhờ người quen mua giùm, hoặc sai chị em tôi “chạy” ra quán một chút. Cây cau, nọc trầu do ông nội tôi trồng. Chị em tôi có bổn phận chiều nào cũng xách nước (từ giếng) tưới trầu cho bà. Để nọc trầu khô héo không chỉ bà nội không có cái ăn mà còn bị… thất lộc. Ông nội thường bảo thế để nhắc nhở chúng tôi đừng quên bổn phận. Hái trầu cũng là phần việc của chị em tôi. Bà dặn không hái lá trầu lương (lá mọc từ dây trầu cái) hoặc lá quá non. Cũng không được chừa cuống lá còn dính lại trên dây trầu.

Riêng việc trèo cau là phần của chị tôi, đơn giản vì tôi không biết trèo. Chị dùng tay chuối khô kết lại thành chiếc hài hình số 8, cho hai bàn chân vào đó để có thể bám vào thân cau mà trèo lên. Chọn buồng cau nào dưới cùng, hái một trái thả xuống cho tôi bửa (chẻ) ra thử coi vừa chưa. Ruột cau còn bộng (trống) là còn non, không hái.

Bà nội tôi ăn trầu với cau tươi. Nếu nhiều quá thì chẻ ra lấy ruột phơi khô, khi ăn đem ngâm vào nước cho mềm. Vỏ cau bà bảo đem bỏ ra ngoài đường để xe và người giẫm lên cho… cau được mỏng vỏ.

Tôi thường lân la ngồi bên bà nội, giành lấy việc têm trầu, chẻ cau, ngoáy trầu cho bà, tinh nghịch bóp đôi vỏ cau lại (phần trên của vỏ) gắn dính vào môi một cách thích thú. Những lúc ấy bà nội hay đưa tay xoa đầu tôi với nụ cười móm mém.

Bà nội tôi đã đi xa, bây giờ dường như cũng không còn mấy ai ăn trầu nữa, nhưng trong tôi vẫn không quên được cơi trầu ngày xưa của bà.

Trà Kim Long



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2010(Xem: 8411)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6874)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6255)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6965)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6692)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8981)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12505)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25253)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8003)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6628)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567