Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thơ: Đường vào biển Pháp

14/04/202015:22(Xem: 7959)
Thơ: Đường vào biển Pháp

Phat thich ca 2b
Đường vào biển Pháp 

Kính bạch Thầy thật rùng mình khi học lại đoạn kinh trong Pháp diệt tận và thấy có nhiều sự trùng hợp cho thế kỷ này và lại ngưỡng mộ vì sao Thầy mỗi sáng lại livestream cho chúng con thọ trì kinh Lăng Nghiêm . Kính xin Thầy cho con trích đoạn trong “Phật Học tinh yếu “ và bài thơ này để cùng bạn hữu thấy được Ân Đức của Thầy Tổ đã đem lời dạy của Phật đến cho hậu thế và công ơn của Tăng thân đã dìu dắt hàng hậu bối chúng con . Kính HH


Đường vào biển pháp qua bao lĩnh vực.
Trước tiên là vững chắc một niềm tin ,
Ngày ngày chuyên cần học luật, luận, kinh .
Rồi chiêm nghiệm thực hành tự mình thân chứng!

 
Nhờ thọ giáo Đại thiện tri thức chỉ hướng
Thấy đến nơi có quả báo , nghiệp duyên .
Ân đức Thầy Tổ chỉ dạy thâm uyên ,
Phước phần nào tìm ra “Phật học tinh yếu”.

 
Từng trang một chỉ bày điều vi diệu .
Thế Tôn siêu việt thuyết giảng mấy nghìn năm ,
Phải đợi đúng thời đúng lúc mới nhập tâm .
Bất tư nghì ... những gì Ngài tiên lượng .

 
Úc Châu cũng tuỳ duyên hoằng pháp cao thượng
Không để Lăng Nghiêm mai một lúc này ,
Theo gương Thầy trì tụng mỗi sớm mai .
Cho Đạo pháp luôn bừng sáng không tắt lửa !
Dù phải chờ Phật Di lặc triệu năm nữa ..

 
Huệ Hương
 
***


phat hoc tinh yeu-ht thien tam


Trích từ “ Phật học tinh yếu"

Soạn giả: HT Thích Thiền Tâm

THIÊN THỨ NHÌ VÀ BA
CHƯƠNG 5 : Từ ĐỨC THÍCH CA đến PHẬT DI LẶC  ( trang 204 - 208)



Trong kinh Pháp Diệt Tận , Đức Phật bảo : “ Về sau, khi pháp của ta sắp diệt nơi cõi ngũ trược này tà đạo nổi lên rất thạnh . Lúc ấy có những quyến thuộc của ma giả làm sa môn để phá rối đạo pháp của Ta . Họ mặc y phục như thế gian, ưa thích áo cà sa năm sắc, ăn thịt sát sanh , uống rượu, tham trước mùi vị , không có từ tâm tương trợ lại sanh ghét lẫn nhau. Bấy giờ có các vị Bồ Tát , Bích Chi, La Hán vì bản nguyện hộ trì Phật Pháp hiện thân làm sa môn, tu hành tinh tấn, đạo hạnh trang nghiêm, được mọi người kính trọng . Các bậc ấy có Đức thuần hậu, từ ái, nhẫn nhục, như hoà, giúp đỡ kẻ già yếu cô cùng hằng đem kinh tượng phụng thờ, đọc tụng...giáo hoá chúng sanh một cách bình đẳng, tu nhiều công đức không nệ tổn mình lợi người.

Khi có những vị sa môn đạo đức như thế, các Tù khưu ma kia ganh ghét phỉ báng, vụ cho những điều xấu, dùng đủ cách lấn áp xua đuổi, hạ nhục khiến cho không được ở yên . Từ đó các Tỳ khưu ác càng lộng hành, không tu đạo hạnh, bỏ chùa chiền điêu tàn hư phế , chỉ lo tích tụ tài sản riêng làm các nghề không hợp pháp để sanh sống... làm tổn hại chúng sanh không có chút từ tâm . Lúc ấy có nhiều kẻ thiếu đạo đức xuất gia làm tăng ni tham nhiễm sống lẫn lộn . Phật pháp suy vi là chính bọn này. Lại có những kẻ trốn pháp vua quan, lẫn vào cửa đạo rồi sanh tâm biếng nhác không học không tu . Đến kỳ tụng giới trong mỗi nửa tháng họ chỉ lơ là găng gượng không chịu chuyên chú lắng nghe. Nếu có thuyết giảng giới luật, họ lược bỏ trước sau không chịu nói ra hết.

Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu chữ, không tìm hỏi bậc cao minh, tự mãn cầu danh, cho mình là phải. Tuy thế, bề ngoài họ cũng ra vẻ đạo đức, thường hay nói phô để hy vọng mọi người cúng dường. Các Tỳ khưu ma này sau khi chết sẽ đoạ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trải qua nhiều kiếp. Khi đền tội xong, họ thác sanh làm người ở nơi biên địa không có Tam Bảo .

Lúc Phật Pháp sắp diệt người nữ phần nhiều tinh tấn, ưa tu những công đức. Trái lại người nam phần nhiều kém lòng tin, thường hay giãi đãi khinh mạn, không thích nghe pháp, không tu Phước Huệ , khi thấy hàng sa môn thì rẻ rúng chê bai xem như đất bụi.

Lúc ấy do nghiệp ác của chúng sanh, mưa nắng không điều hoà, ngũ sắc hư hao tàn tạ bịnh dịch lưu hành, người chết vô số .
Thời bấy giờ hàng quan liêu phần nhiều khắc nghiệt tham ô, lớp dân chúng lại nhọc nhằn nghèo khổ , ai nấy chỉ biết ngậm đắng nuốt cay .
Trong thế gian lúc ấy khó tìm được người lượng thiện, còn kẻ ác thì nhiều như cát ở bãi biển, đạo Đức suy đồi , Chư Thiên buồn thương rơi lệ .
Này A Nan ! Lúc đạo pháp ta sắp diệt ngày đêm rút ngắn, con người đoản mệnh, nhiều kẻ mới 40 tuổi trên đầu tóc đã điểm bạc. Về phần người nam, bởi nhiều dâm dật nên hay chết yểu, trái lại người nữ sống lâu hơn . Lúc ấy có nhiều tai nạn nổi lên như giặc cướp, bịnh tật, bão lụt nhân dân không tin hiểu đó là nghiệp báo, hoặc vì đã từng sống quen trong cảnh ấy nên xem như là việc thường .

Bấy giờ nếu có bậc Bồ Tát, Bích Chi, La Hán dùng bi tâm ra giáo hoá, do nghiệp ác của chúng sanh và sức ngoại ma xua đuổi cũng ít ai đến dự pháp hội . Các bậc tu hành chân chính, phần nhiều ẩn cư nơi núi rừng xa vắng, giữ đời sống đạm bạc được Chư Thiên hộ trì.

Khi Nhơn thọ giảm còn 52 tuổi, áo cà sa của hàng sa môn đổi thành sắc trắng, kinh Thủ Lăng Nghiêm và Bát Chu Tam Muội tiêu diệt trước, các kinh khác lần lần diệt sau cho đến không còn văn tự .

Nầy A Nan! Như ngọn đèn dầu trước khi sắp tắt , ánh đèn bỗng bừng sáng lên rồi lu mờ và mất hẳn Đạo pháp ta đến lúc tiêu diệt cũng có tướng trạng như thế.

Từ đó về sau trải qua triệu triệu năm mới có Phật Di Lặc ra đời giáo hoá chúng sanh .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2015(Xem: 12263)
Thầy đi một sáng mùa thu Trong cơn lốc thổi Vô thường tử sinh
11/10/2015(Xem: 8756)
Có người khách hỏi lão hòa thượng: Pháp sư, con muốn hỏi ngài một vấn đề hơi bất kính một chút có được không ạ? Lão hòa thượng: Xin ông cứ nói! Người khách: Lúc ở nơi dân chúng đông đúc thì ngài ăn chay, vậy khi ở một mình trong phòng ngài có ăn thịt không? Lão hòa thượng hỏi người khách: Ông tự lái xe tới đây phải không? Người khách trả lời: Vâng, đúng ạ! Lão hòa thượng: Khi lái xe cần thắt dây an toàn, xin hỏi ông là ông thắt vì sự an toàn của bản thân hay vì cảnh sát? Nếu như vì bản thân mình thì có hay không có cảnh sát ông sẽ vẫn đều thắt thôi. Người khách: A, Con hiểu rồi!
08/10/2015(Xem: 19002)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
06/10/2015(Xem: 15937)
(1) Con nguyện luôn yêu thương tất cả chúng sanh Bằng cách xem họ quý báu Hơn ngọc như ý Để thành tựu mục tiêu tối thượng.
06/10/2015(Xem: 16629)
Con xin đảnh lễ tâm đại bi. Con xin đảnh lễ chư đạo sư cao cả. Con xin đảnh lễ chư Bổn Tôn, Là chư vị ban nguồn cảm hứng về lòng tín tâm và sùng mộ.
05/10/2015(Xem: 10148)
Lại thêm thu nửa trở về, Nghĩ thân đất khách mà tê tái buồn. Nhớ về quê mẹ cội nguồn, Khi nhìn đôi cánh lá vàng nhẹ bay, Nhón chân dạo bước vườn ngoài, Nghiêng mình nhặt lá rụng rơi bên thềm. Sắp từng chiếc lá gọi tên, Thì thầm tên lá theo miền thế gian. Cảnh thu dễ gợi u buồn, Hỏi sao tâm để rộn ràng triền miên. Nhắn lòng ta ráng tịnh yên, Đem sao cho được chữ Thiền vào Thu !
03/10/2015(Xem: 20126)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
02/10/2015(Xem: 12770)
Bài thơ vô cùng súc động Do not stand at my grave and weep (Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ) của Mary Elizabeth Frye (1905-2004) đã được dịch ra không biết bao nhiều thứ tiếng và đã được đọc lên, phổ nhạc, trình bầy không biết bao nhiêu lần bởi các ca sỹ trứ danh. Mary Elizabeth Frye là một bà nội trợ người Mỹ, làm nghề bán hoa. Bà được cả thế giới biết tên vì một lý do độc nhất : bà là tác giả bài thơ « Đừng đứng khóc bên nấm mồ của mẹ », được viết vào năm 1932. Mary Elizabeth sinh ra ở Dayton, Ohio. Mới ba tuổi đã mồ côi. Sau đến ở Baltimore, Maryland. Năm 27 tuổi lập gia đình với Claud Frye, ông làm nghề buôn bán quần áo. Bài thơ làm bà sau này trở nên nổi tiếng được viết trên một chiếc túi mua sắm, lấy cảm hứng từ chuyện một cô gái trẻ tuổi, Margaret Schwarzkopf, ở với gia đình Frye, đã không thể đến thăm mẹ đang hấp hối ở Đức, vì cô gái là dân Do Thái. Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 12 dòng, không có chủ đề. Frye thấy bạn bè thích nên đã sao nhiều bản và lưu hành, nhưng chưa bao giờ
29/09/2015(Xem: 9447)
Dáng ngồi như núi như non Trăm năm sương gió vẫn còn uy nghiêm Trên cao sừng sững bóng hiền Mưa sa nắng chiếu địa thiên lưu tình Giữa đời lặng lặng thinh thinh Tỏa hương đạo hạnh hậu sinh hồi đầu Tử tôn gánh đội ân sâu Chuông ngân trưa tối, kinh cầu sớm khuya Bước chân hoằng độ đi, về Vườn ươm tỏa bóng bồ đề mát tươi Như non như núi không dời Đạo thành như ý, dáng ngồi thiên thu.
27/09/2015(Xem: 10726)
Nhìn lá rơi VÔ THƯỜNG luôn biến hoại Thân xác nầy cũng duyên hợp tử sanh Vũ trụ kia do tứ đại hợp thành Đâu còn mãi mà thâu gom chấp thủ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]