Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những câu đối chữ Việt của cố HT. Thích Thiện Siêu

02/02/201905:37(Xem: 15224)
Những câu đối chữ Việt của cố HT. Thích Thiện Siêu
ht-thien-sieu
Những câu đối chữ Việt
của cố HT. Thích Thiện Siêu
***

01. Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội;
Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân.
(Phụng điếu Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân – Huế, 1972)

02. Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ;
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.
(Tặng Giảng đường Từ Đàm - Huế)

03. Tánh lặng đất trời chung một cõi;
Tâm không trăng gió trải muôn phương.

04. Biển ái lấp bằng, Tịnh độ đi về đâu mấy chốc;
Sông mê tát cạn, Niết-bàn an trú vốn không xa.
(Tặng tháp Thượng tọa Thiện Lộc, chùa Thuyền Tôn-Huế)

05. Ngộ thấu nguồn chơn, tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
Rõ cùng lý đạo, niệm thị phi bay lẫn chòm mây.

06. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo;
Cửa thiền thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi.
(Tặng chùa Kim Quang - Nha Trang)

07. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã chiếu tan niềm tục;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương.
(Tặng Khuông hội Phật giáo Lăng Cô và Tây Lộc – Huế)

08. Trừ vọng tưởng, dứt mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác;
Hết vô minh, sạch nghiệp chướng, giương cao đèn tuệ vượt sông mê.

09. Rũ sạch lòng trần, giọt nước cam lồ, rưới tắt não phiền chín cõi;
Mở tròn tuệ giác, soi đèn Bát-nhã, hiển bày tướng hảo ba thân.

10. Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội;
Chim dầu xa tổ nhớ ơn cây.

11. Tấc cỏ ngậm ngùi, hương khói tỏ lòng con cháu thảo;
Ba xuân thương nhớ, lớn khôn nhờ đức tổ tông hiền.

12. Mắt Trí rạng ngời, đèn vô tận chiếu tan niềm tục;
Tay Từ tế độ, nước dương chi gội sạch lòng trần.
(Tặng chùa Giác Hải, Nha Trang)

13. Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời giác ngộ;

Cửa Tam quan tình thương rộng mở, chuông khua đồng vọng tiếng từ bi.

14. Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy, thấy không tùy mắt ngắm;
Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư hư thật hỏi lòng xem.
(Tặng chùa Thanh Phước - Huế)

15. Tiếng chuông Linh Mụ vọng về đâu, sáu nẻo luân hồi chúng sanh mong tế độ;
Cội cả tòng lâm đà ngả xuống, hai hàng mê ngộ đệ tử xót bơ vơ.
(Điếu Hòa thượng Thích Đôn Hậu)

16. Sạch phiền não, hết tham sân, cửa Phật đây rồi thôi chạy kiếm;
Phá si mê, trừ nghiệp chướng, đường trần đó mặc hết rong tìm.

17. Cửa Không trống dậy mấy hồi, đọc kinh chú xua tan mộng ảo;
Cõi Phật chuông đưa vài chập, niệm Nam mô xóa sạch não phiền.

18. Lặng nhìn mây trắng núi xanh, hương giải thoát xông lừng cây cỏ;
Vẳng tiếng thông reo chim hót, gió từ bi thổi mát đất trời.

19. Mây núi chập chùng, trăng Bát-nhã lồng soi vũ trụ;
Cỏ hoa tươi tốt, gió Từ bi thổi mát sinh linh.

20. Đây chùa đây Phật, đây mõ sớm chuông chiều, nhắn nhủ khách trần về nẻo giác; 
Này trăng này gió, này kinh vàng kệ ngọc, khuyên răn người tục bỏ lòng mê.

21. Phật đạo có gì đâu ! thả chiếc thuyền Từ chờ kẻ giác;
Pháp môn không kể xiết, khêu đèn Bát-nhã đón người mê.

22. Vô minh tham ái buộc ràng, đối cảnh sinh tình thêm lụy tục;
Bát-nhã từ bi giải thoát, xem kinh mở trí rạng lòng chơn.

23. Đạo Tổ sáng hoài cỏ cây đượm nhuần mưa pháp;
Chùa xưa mới mãi cháu con tiếp nối đèn thiền.

24. Dứt sạch mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác;
Trừ không nghiệp chướng, giương cao đèn Tuệ vượt sông mê.

25. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mê muội;
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chiều khua rã mộng ba sinh.

26. Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh.
(Đối thiền)

27. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã soi cùng vũ trụ;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi dội khắp non sông.

28. Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời Giác ngộ;
Cửa Tam bảo đạo tình mở rộng, chuông khua đồng vọng tiếng Từ bi.

29. Mười hiệu Phật, vài câu kinh, đánh thức ngàn năm mê muội;
Một hồi chuông, mấy nhịp mõ, gõ tan bao kiếp trầm luân.

30. Người nương pháp, pháp nương người, động tịnh theo duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác rõ lời chơn.

31. Lòng mẹ tìm con xót xa, luân hồi đày đoạ, trần thế mây che, tấc dạ Kiền Liên đau đớn bấy;
Ơn Phật nhờ thầy tế độ, pháp chứng vô sanh, Lăng già trăng hé, tấm lòng Bồ-tát nhẹ nhàng thay !

32. Cảm tác
Năm tháng phù sanh dệt kiếp người,
Cuộc đời như thể áng mây trôi;
Buông tay mộng huyễn về theo Phật,
Chín phẩm đài sen ánh tỏa ngời.
(Văn điếu hương linh thân mẫu của PT. Thái Kim Lan)



Xin mời xem tiếp trang tác giả Ôn Thiện Siêu

ht-thien-sieu_5HT. Thich Thien Sieu



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/10/2016(Xem: 7282)
Rồi một ngày sẽ đến Thân xác này rã tan Đất trở về với đất Còn chi nữa mà tham.
07/10/2016(Xem: 9910)
Chùm Tứ Cú Lục Bát có Nụ Cười hưởng ứng. Chào ngày mới Chào nhau ngày mới nắng vàng Từng tia hi vọng ấm tràn ước mơ Chào nhau ngày mới bài thơ Tiễn ngày qua đã trống trơ tiếng cười.
07/10/2016(Xem: 11216)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
07/10/2016(Xem: 7937)
Hoàng cung cảnh đẹp vô cùng- Hoa thơm, cỏ lạ một vùng tươi xinh- Có hòn non bộ hữu tình- Có hồ bán nguyệt in hình trời mây
07/10/2016(Xem: 7470)
Anh chàng Đại Lãng thuở xưa- Có tài đô vật rất ư tuyệt vời- Lại thêm sức mạnh hơn người,- Khi trong nội bộ ngay nơi viện nhà
07/10/2016(Xem: 7645)
Mười tám năm - Hoa Vô Ưu - Vườn xưa lấp lánh cánh hoa tâm - Mười tám năm Kẻ còn người mất - Hương Vô Ưu - Thơm ngát cõi vô thường
06/10/2016(Xem: 7228)
Cái chết từ từ sẽ đến Lo chi cho lắm cực thân Thảnh thơi nhẫn tu mà sống Có gì ta phải rối răm .
03/10/2016(Xem: 9832)
Ta đứng giữa rừng thu hắt hiu Sợi thu vàng vọt rớt trong chiều Hoàng hôn phủ gót chân hoang dã Nghe nàng thu chết giữa cô liêu
03/10/2016(Xem: 7533)
Đời người trong hơi thở Ra vào từng phút giây Thở ra mà không lại Là vĩnh biệt từ đây .
01/10/2016(Xem: 7559)
Ngồi thuyền Bát Nhã ngắm trăng Bát cơm Hương Tích trăm năm vẫn về Tào Khê trà uống bên lề Lăng Già sáng tỏ tứ bề không gian
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]