Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ra mắt tập thơ "Như mây đầu núi" của Hàn Long Ẩn - Vườn hoa vô ưu...

14/11/201717:28(Xem: 10162)
Ra mắt tập thơ "Như mây đầu núi" của Hàn Long Ẩn - Vườn hoa vô ưu...
Han Long An (1)


Han Long An (4)

Ra mắt tập thơ "Như mây đầu núi" của Hàn Long Ẩn - Vườn hoa vô ưu...

 

Chiều nay 17-6, trong không gian thân mật và ấm cúng tại lầu 1 nhà hàng chay Đóa sen vàng trên trên đường Cao Thắng, nhà thơ Hàn Long Ẩn đã có buổi giao lưu trong tình thân hữu đạo vị nhân tập thơ Như mây đầu núi vừa được in còn thơm mùi mực.

 

Thi ca với tác giả là những tâm tình tự nhiên trong đời sống đạo, nói như cư sĩ Nguyên Giác, "Và những trang thơ Như mây đầu núi tựa như những vườn hoa vô ưu vậy!”. 

51 bài thơ với nhiều nguồn cảm, “mượn những hình ảnh cụ thể để nói về những khái niệm trừu tượng; dùng con chữ giản dị, đời thường thay cho những con chữ phức tạp, cao siêu; dùng cỏ cây, hoa lá, để diễn đạt sự từ bi, hỷ, xả”, như cư sĩ Nguyên Giác đã cảm trong lời nói đầu, Như mây đầu núi cho người đọc những minh triết ý vị, từ đó gợi một hướng sống nhẹ nhàng, ứng xử hòa đồng, thiết thực hiện tại, trong ước mong cuối cùng là an lạc tự nội. 

Được biết Hàn Long Ẩn là bút danh của thầy Thích Thiện Long, xuất gia tại cố đô Huế, từng du học tại Trung Quốc, hiện đang hành đạo tại Hoa Kỳ. Đây là tập thơ thứ tư của tác giả ra mắt bạn đọc, nhiều tác phẩm của Hàn Long Ẩn cũng đã được phổ nhạc, hiện phổ biến trong và ngoài nước.

Như mây đầu núi được trình bày trang nhã, với các minh họa nhẹ nhàng, thiền vị, công ty Thái Hà thực hiện, nhà xuất bản Thế giới cấp giấy phép.

 

Nhiệm Vy

 

(Tập thơ có trên tất cả các nhà sách Thái Hà và hầu hết trên các nhà sách toàn quốc. Ngoài ra, độc giả có thể đặt qua online).



Han Long An (7)

LỜI GIỚI THIỆU

 

Đọc Thơ Hàn Long Ẩn

 

Một phần rất lớn trong Kinh Phật được viết theo thể thơ. Như Kinh Pháp Cú. Hay Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ. Tương tự, nhiều phẩm trong Kinh Tiểu Bộ cũng viết theo thể thơ. Như thế, chúng ta thấy rằng Đức Phật và rất nhiều vị Thánh Tăng, Thánh Ni đã ưa sử dụng thể thơ để trình bày những suy nghĩ từ các thời rất xưa.

Có thể (chúng ta chỉ đoán thôi) vì ngôn ngữ thơ là một cách cô đọng, dễ nhớ. Nhưng cũng có thể (cũng đoán), vì ngôn ngữ thơ thường tạo ra một cảm hứng, và vì thơ đã có sẵn nhạc tính và là những khoảnh khắc dịu dàng trong đời thường giữa cõi ngôn ngữ văn xuôi khó nhớ và kém vần điệu...

Đọc thơ Hàn Long Ẩn, chúng ta cũng sẽ gặp những khoảnh khắc của ngôn ngữ cô đọng, dễ nhớ, cảm hứng, nhạc tính, dịu dàng. Và nhà thơ cũng mang giáo lý vào thơ một cách tự nhiên... Dĩ nhiên, đó cũng là chức năng của Hàn Long Ẩn, trong cương vị một nhà sư.

Chúng ta sẽ thấy rất nhiều chữ thuần Việt trong thơ Hàn Long Ẩn, kể cả khi ông mượn các hình ảnh cõi này để nói về vô thường, vô ngã... kể cả khi ông khuyến tu.

Thí dụ, trong bài thơ "Bến Nọ Bờ Kia," Hàn Long Ẩn nói về bước chân đi và bước chân dừng lại. Phải chăng, bước chân đi là khi Đức Phật trách tôn giả Angulimala rằng sao cứ đi mãi (hiểu là, chạy mãi theo dòng sinh tử luân hồi) mà không chịu đứng lại, dừng lại (hiểu là, khi tất cả các tâm tham sân si đã dừng hoàn toàn)?  Và vì đã lỡ đi mãi trong sinh tử luân hồi, nên phải biết theo chánh pháp để đứng lại... và phải dùng thân huyễn này để ra sức tu hành.

Bài thơ mang ý khuyến tu, nhưng không hề nặng nề thuyết giảng. Lại khéo léo mang những hình ảnh đối nghịch nhau (bão tố, biển lặng) để nêu lên niềm an lạc của giải thoát. Bài thơ trích như sau:

 

... Nếu không bước chân đi

Thì lấy đâu đứng lại?

Kiếp người không ngang trái

Hạnh phúc chẳng ai cần!

 

Nếu không có huyễn thân

Dựa vào đâu giác ngộ?

Nếu trời không bão tố

Biển lặng cũng vô hồn... (ngưng trích)

 

Một điểm đặc biệt trong thơ Hàn Long Ẩn là sử dụng nhiều hình ảnh cụ thể để nói về những khái niệm rất trừu tượng. Và trong khi gói vào thơ rất nhiều hình ảnh, nhà thơ đã dùng nhiều chữ đơn giản, chữ đời thường... để thay cho các chữ phức tạp, khó nhớ.

Hình ảnh cụ thể, thí dụ như cỏ, như đất trong bài thơ nhan đề "Cỏ và Đất"...

Các khái niệm phức tạp và trừu tượng của từ, của bi, của hỷ, của xả... được thay bằng cỏ và đất thương nhau, thường hoài nhau, bỏ qua cho nhau bao dung cho nhau.

Như một trích đoạn bài này:

  

Thương tất cả và bỏ qua tất cả

Để bao dung, để gần gũi lẫn nhau

Và như đất thương hoài cỏ úa

Mặt trời lên từ phía... tối màu.(ngưng trích)

  

Khi nói về khái niệm vô thường, tức là hiện tượng chi phối tất cả pháp hữu vi, và là một pháp ấn chính yếu, nhà thơ Hàn Long Ẩn cũng dùng tới hình ảnh cụ thể của đời thường quanh ta như: nắng, ngày, bầu trời, sông, mưa, mùa đông, gió, cánh đồng, xuân, vầng trăng, chim bay, ráng chiều... nghĩa là, mắt chúng ta không thấy được khái niệm vô thường, nhưng thấy được chuyển biến của nắng, mưa, gió, vầng trăng, chim bay, vân vân.

Trích bài "Cuộc Mộng" nơi đây:

  

Nắng rồi cũng bỏ ngày thôi

Mây rồi cũng bỏ bầu trời về sông

Mưa rồi cũng bỏ mùa đông

Gió rồi cũng bỏ cánh đồng bay xa

  

Xuân rồi cũng bỏ ngàn hoa

Vầng trăng bỏ lại đêm và cô liêu

Chim bay bỏ lại ráng chiều

Tuổi thơ bỏ lại cánh diều hôm kia. (ngưng trích)

 

Lời nhà thơ Hàn Long Ẩn khi nói với Phật tử, đã đưa ra những lời khuyên ứng dụng được ngay trong đời thường, không cần gì tới cao siêu, phức tạp. Như khyên rằng hãy thở, hãy cười, hãy buông xả, hãy lên chùa lễ Phật... Như trong bài thơ "Đôi Khi"  trích như sau:

 

Đôi khi đời đau khổ

Tập thở nhẹ và cười

Nếu không làm như thế

Chỉ thiệt mình mình thôi

 

Đôi khi người gian dối

Hãy buông xả bao dung

Làm sao ta biết được

Mình sẽ không sai lầm?

 

Đôi khi lòng trống trải

Vì chẳng hiểu lý do

Ta lên chùa lễ Phật

Biết buồn là hư vô. (ngưng trích)

 

Qua tập thơ này, Hà Long Ẩn đã hoàn tất xuất sắc vai trò một nhà thơ -- sử dụng ngôn ngữ nhiều nhạc tính, dịu dàng, đầy cảm hứng và chuyển các khái niệm trừu tượng sang hình ảnh đời thường. Và cũng đã hoàn tất vai trò một nhà sư khi giải thích về vô thường, về từ bi hỷ xả...

Khi ngôn ngữ thơ thuần Việt đã ngấm vào thịt da xương tủy của nhà sư Hàn Long Ẩn, các dòng chữ chỉ ra diệu nghĩa vô thường cũng hiển lộ thành hoa. Các trang thơ Như Mây Đầu Núi là những vườn hoa vô ưu như thế.

 

Nguyên Giác

 

 

 

 

Han Long An (2)Han Long An (3)Han Long An (4)Han Long An (5)Han Long An (6)Han Long An (7)
Han Long An (8)


Xem tiếp trang tác phẩm của nhà thơ Hàn Long Ẩn
https://quangduc.com/author/post/4887/1/thich-thien-long-han-long-an-








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2010(Xem: 8404)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6873)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6253)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6965)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6692)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8975)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12500)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25229)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 7993)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6625)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567