Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dạ thưa phố Huế bây giờ (thơ)

21/08/201718:25(Xem: 12323)
Dạ thưa phố Huế bây giờ (thơ)
Song_Huong nui ngu

Bùi Giáng làm thơ về xứ Huế

Với xứ Huế, thi sĩ dị thường Bùi Giáng đã định danh bởi hai câu thơ như sấm truyền khiến hậu thế khi nói về Huế đều trích dẫn. Nhưng hình như không thấy ai để tên của bài thơ đó và cũng chỉ thấy mọi người trích đúng hai câu thơ khiến nó đi vào trong dân gian một cách không đầy đủ. Trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước, tôi thường đi tìm kiếm sách cũ, tình cờ thấy được chùm thơ của Trung niên thi sĩ in trong tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, lẫn lộn với những tạp chí Sáng Tạo, Văn, Thời Nay… Đọc chùm thơ của thi sĩ Bùi Giáng vốn lừng danh và kỳ dị, tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy bài đầu tiên có nhan đề “Thôn xóm Thừa Thiên”. Vẫn cái chất trí tuệ siêu vượt cùng với cái điệu cà rỡn của con người có một không hai đã đi vào huyền thoại thi ca, chứng tỏ rằng loạt thơ này ông sáng tác vào thời kỳ “Sa mạc phát tiết” và ông đã ra phố Huế ngao du thiên hạ, xin được trích bài thơ gồm sáu câu tặng cho “Thôn xóm Thừa Thiên”:


Vào thôn xóm trọ một mùa

Qua xuân tới hạ ghé chùa chiền hoa
Cô nương mắt ngọc răng ngà
Nhìn bồ tát gọi rằng là: dạ thưa
- Dạ thưa phố huế bây giờ
Vẫn còn núi ngự bên bờ sông hương


Bui giang va Trinh Cong SonBùi Giáng (phải) và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. (Ảnh tư liệu)


Trong bài thơ trên, hai câu cuối (in trong tạp chí Tư Tưởng) có những địa danh về Huế không viết hoa như “phố huế”, “núi ngự”, “sông hương”, có thể với thi sĩ Bùi Giáng đó là cách chơi chữ mà ông vẫn thường sử dụng, vì “núi ngự” và “núi Ngự” hoàn toàn khác nhau nhưng vẫn không dị biệt, hoặc có thể “sông hương” và “sông Hương” cũng có ý nghĩa như vậy. Vì theo tôi, “núi ngự” và “sông hương” có nghĩa rộng và sâu hơn “núi Ngự” và “sông Hương” trong ý nghĩa thi ca.

Vậy xin được in toàn bài thơ trên để những người quan tâm về Cố đô Huế,  quan tâm về Bùi thi sĩ  biết được nguồn gốc để trích dẫn.

Bài thơ thứ hai là “Đêm Vỹ Dạ” được đề tặng Hàn Mặc Tử đã khiến người đọc ngạc nhiên hơn cũng với thi pháp rất Bùi Giáng, đảo chữ, nói lái nhưng lại rất trí tuệ theo kiểu triết lý mà không sáo mòn. Trong bốn câu thơ này được thi sĩ viết hoa địa danh Vỹ Dạ. Cũng cái kiểu lấy hữu hạn đong đếm vô cùng của triết gia thi sĩ họ Bùi khiến người đọc dao động từ biên độ hữu hạn đến cõi vô cùng, qua sự đối ngẫu của ngôn ngữ hoặc hình ảnh không gian gợi tưởng như: “gần” và “xa”, “một vùng” và “song trùng”,…

Đêm Vỹ Dạ

Hai chân bỏ xuống một vùng
Đêm thưa Vỹ Dạ song trùng lời vâng
Dạ thưa Vỹ Dạ về gần
Đã từ xa lắm thiên thần nhớ em

(tặng Hàn Mặc Tử)

Hai bài thơ tiếp theo của thi sĩ Bùi Giáng về xứ Huế viết về vùng Vỹ Dạ có thể được ra đời qua trường liên tưởng từ bài “Đêm Vỹ Dạ” tặng Hàn Mặc Tử, là bài “Dạ Vỹ thưa” và “Vỹ Dạ thưa”, chỉ cần thấy hai nhan đề bài thơ đã biết chính hiệu Bùi Giáng thi nhân.

Dạ Vỹ thưa

Hai chân bỏ xuống một miền
Thưa vâng dạ vỹ em phiền thế sao
Dạ vâng đêm lục hồng đào
Đã từ vĩnh biệt quận vào quê xa

Vỹ Dạ thưa

Hai tay bỏ xuống một vùng
Ngón xanh ngón đỏ ngón ngần ngại gieo
Ngón về vẽ lục tường rêu
Vẽ vu sơ thái trong veo thanh cần

Hai bài thơ trên vẫn bắt đầu bằng hình ảnh tứ chi, “hai chân bỏ xuống”, “hai tay bỏ xuống”. Rồi với cái điệu đùa giỡn với các từ: “thưa, vâng, dạ” rất trịnh trọng nhưng với thi nhân là “phiền thế sao”. Trong câu “Dạ vâng đêm lục hồng đào” cho thấy sự uyên thâm của Bùi Giáng đã khiến câu thơ nhiều nghĩa, ông cố tình không dùng dấu phẩy để ngắt nhịp để người đọc tự do ngắt theo tri nhận của từng người. “Dạ” trong câu thơ trên cũng có thể là “đêm” hoặc “Dạ” cũng có ý nghĩa trong gọi dạ bảo vâng.

Bài thứ năm trong chùm thơ đó là “Thanh hiên ca” ông để tặng Lão Thần, cũng là một mật mã của Bùi Giáng với những ẩn nghĩa siêu phàm.

Thanh hiên ca

Lên rừng hỏi lại chóc chim
Vùng sương cố quận ai tìm ở đâu
Lão thần liêu tác vãn câu
Trung lai vần cú mối sầu sau lưng
Chóc chim kỳ mộng luồng từng
Tình vân như mạo chưa từng kể tên
Quyện ngâm sầu khách cuối ghềnh
Đầu truông ưu lự nếp nền tiểu khê
Cỏ khe tồn lý tê mê
Tìm sương dưới nguyệt lối về trong hoa

(Tặng Lão Thần)

Từ ngày tình cờ đọc được chùm thơ của Bùi Giáng trong Tạp chí Tư Tưởng (Số 1 {18} 15-03-1971)) khi mua sách cũ đến bây giờ đã trên dưới ba mươi năm. Trong lòng hứa sẽ viết bài để đính chính hai câu thơ dị bản mà mọi người vẫn thường đọc và trích dẫn khi nhắc đến Bùi thi sĩ hoặc nhắc đến xứ Huế như một slogan:

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương

Tìm mãi không ra tạp chí Tư Tưởng, cứ áy náy đến tận bây giờ, hữu duyên thì sẽ gặp. Vậy là tình cờ trong tình cờ, khi tìm lục sách cũ để xác minh nguồn gốc hai câu thơ của thi sĩ Bích Khê lại gặp thi sĩ Bùi Giáng, vậy là ngồi viết một mạch để hiểu rằng: “Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm”, và mong rằng từ nay dị bản sẽ được trả về nguyên bản:

- Dạ thưa phố huế bây giờ
Vẫn còn núi ngự bên bờ sông hương

LÊ HUỲNH LÂM



 

Kính mời xem trang tác phẩm
của Nhà Thơ Bùi Giáng
buigiang3




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/08/2011(Xem: 9403)
Lần nọ ở Xá Vệ, Chính tôi, A Nan Đà, Biết chuyện này có thật, Khi theo hầu Thích Ca. Lúc ấy, Ba Tư Nặc, Ông vua tốt, qua đời, Người lên thay tàn ác, Làm mất lòng nhiều người.
08/08/2011(Xem: 9402)
Lần nọ, ở Xá Vệ, Chính tôi, A Nan Đà, May mắn được chứng kiến Chuyện này của Thích Ca. Hôm ấy, tôi và Phật, Vừa sáng, trời đầy sương, Đi vào thành khất thực Thấy lũ trẻ bên đường Đang chơi trò đắp đất, Xây thành phố, xây nhà, Xây cả kho chứa thóc Và cả những tháp ngà. Một đứa trong bọn chúng Thấy chân Phật phát quang,
08/08/2011(Xem: 9366)
Tôi may mắn chứng kiến Chuyện này của Thích Ca Khi Ngài đang tá túc Trong vườn cây Kỳ Đà. Triều vua Ba Tư Nặc Có vị quan đại thần, Bảy con trai, trong đó Sáu người đã thành thân. Ông giàu có, hiền đức,
08/08/2011(Xem: 9320)
Ở đời có ba việc. Một là việc của mình. Hai, việc của người khác. Ba, việc của thần linh. Ta thất bại, đau khổ, Sợ thần linh, sợ trời. Việc mình làm không tốt, Cứ thích xen việc người. Muốn vui ư? Đơn giản: Hãy làm tốt việc mình. Không xen việc người khác, Không sợ việc thần linh.
01/08/2011(Xem: 11583)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
01/08/2011(Xem: 14002)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
01/08/2011(Xem: 17099)
"TámTiết thơ giúp tập luyện Tâm thức"là tựa của một bài thơ ngắn do một nhà sư Tây Tạng là Guéshé Langri Tangpa (1054-1123) trước tác với chủ đích giúp phát huy tinh thần giác ngộ qua phép thiền định về hoán chuyển giữa ta và người khác, (một phép thiền định rất phổ thông của Phật giáo Tây Tạng: đó là cách tự nguyện xin được nhận về phần mình tất cả khổ đau của người khác, và trao lại cho họ tất cả những gì đạo hạnh của mình), và xem đấy là mục đích cao cả nhất trong cuộc sống của chính mình... Từ bi là một phản ứng của tâm thức khi nó không thể chịu đựng nổi trước những cảnh khổ đau của người khác và phát lộ những ước nguyện mãnh liệt...
31/07/2011(Xem: 10485)
Làn tóc rối trải dài trên thềm vắng Trăng có về, ngây ngất bức thảm hoang Người lữ hành trên đường đời cô quạnh Từng bước chân nghe nặng nỗi vô thường
31/07/2011(Xem: 9803)
Cuộc đời người, ai là người không đi kiếm mùa xuân, một mùa xuân viên viễn, cho chính mình hoặc gia đình, thân nhân. Một sớm mai thức giấc, nhìn nhau lại hỏi xuân là gì và có mặt tự bao giờ.
31/07/2011(Xem: 10610)
Xin gửi đến nhau tâm tình của người con Phật, khi chung quanh mây mù của lòng tham sân si còn dày đặc. Bàn tay, tấm lòng của chúng ta đến với nhau với tâm tư vì người, sẽ là những hạt tư lương đẹp tràn lan trên mọi nẽo đường vũ trụ, sẽ làm ấm lòng người và nước mắt có rơi, cũng chỉ là nước mắt của hạnh phúc, vì còn những con người vẫn mang tâm nguyện làm đẹp cuộc đời…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]