Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lên Non Xuống Núi Ung Dung

27/06/201705:59(Xem: 9183)
Lên Non Xuống Núi Ung Dung



Ong Rua Da Ngo


LÊN NON XUỐNG NÚI UNG DUNG – ÔNG RÙA ĐÁ NGỘ

Sáng nay, trong không gian yên tĩnh, ngồi đọc thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du, người có tên thân thương khác mà chúng tôi thường gọi là Ông Rùa Đá, ôi sao nhẹ nhàng và diệu vợi như tiếng chuông ngân. Một sáng mai, trong lành như Buổi Sáng của NHLD,

Trên hồ xanh
Con cá quẫy
Bỗng động đậy
Mặt trời hồng.

Trong cái động đậy đó chúng tôi chợt nhớ đến Cội Nguồn của anh, cũng như của tất cả chúng ta.

Mai đây khi trở về nguồn
Suối trong róc rách nước ngon môi mềm
Giữa rừng cây quế đứng im
Ta say giấc giữa tiếng chim gọi đàn.

À thì ra, anh cũng đã và đang gọi đàn, vậy mà bấy lâu nay chúng tôi cùng đồng hành với anh lúc nào không biết. Trong thơ anh, chúng tôi thấy những thao thức, khát khao, cay đắng, hy vọng, tin yêu và tình thương mà người luôn muốn được chia sẻ cùng nhau. Cũng như bao nhiêu người Việt ly hương, anh luôn nhớ về nguồn cội và tìm mọi cách để góp phần xây dựng quê hương, nhất là lãnh vực giáo dục và văn học nghệ thuật. Anh còn là một trong những người sáng lập trang nhà Làng Huệ.
Tấm lòng cao thượng của anh là thế. Từ bi và trí tuệ song toàn; bút lực sung mãn. Anh vẫn âm thầm cống hiến cho cho văn thơ Việt Nam nói riêng và cho nền giáo dục Viện Nam nói chung. Âu đó cũng là những Phẩm Vật của Trần Gian mà anh hằng ấp ủ trong cuộc đời mong manh và ngắn ngủi này. Hãy nghe anh gởi gấm những thông điệp yêu thương, hoài niệm, trầm uất, khát khao, bi hùng, chí lý, dõng dạc, hiên ngang, đầy nghĩa tình, đầy khí phách, có khi buồn man mác nhưng lạc quan và nhân bản – Bài thơ Trên Giòng Sông Trắng là một trong nhiều bài thơ bất hủ của anh mà chúng tôi luôn đồng cảm.


Trên Giòng Sông Trắng  

                    
Đã có lần nơi đầu nguồn im vắng
Anh làm thơ trên lá thả theo giòng.
Em giặt lụa tay thơm bờ sông trắng,
Bóng xuân hồng cúi xuống vớt thơ trăng.
Ôi cái thuở lòng anh thơm gió núi
Và tình em hương lúa chín trên đồng.
Chim chóc hót những ngày như mở hội.
Thơ chúng mình tinh-khiết tựa sương trong…
Rồi quê-hương đêm ngút trời khói lửa.
Viên đạn đồng tàn-nhẫn đã bay qua.
Em nhắm mắt.. Đường mình chia hai ngả.
Anh lang thang, mưa gió mãi không nhà.
Sau cuộc chiến tìm về nguồn lạnh vắng.
Thơ không làm, lấy lá thả đời trôi.
Nơi cuối giòng vẫn nắng vàng, sông trắng.
Không còn người âu-yếm vớt hồn tôi.
Anh là thế hệ đi trước, đã trải nghiệm biết bao nhiêu thăng trầm và gian truân trong cuộc đời; anh đã sống qua thời Cải cách ruộng đất đến Chiến tranh Việt Nam. Từ Việt Nam ra hải ngoại, anh đã dọc ngang ngang dọc mọi thời khắp trời Đông Tây, cũng để rồi “tìm về nguồn lạnh vắng” để rồi anh ôm ấp Tình yêu thương rộng lớn của cõi đời hầu “ta giữ đến mai sau”.

Hay nói một cách khác, giữa sống và chết, giữa khỏe mạnh và ốm đau, giữa có và không, giữa còn và mất, anh vẫn giữ tấm tâm trong với thông điệp Yêu thương, Từ bi, Bác ái cho chính anh và cuộc đời. Âu đó cũng là chìa khóa cho một cuộc sống an bình và hạnh phúc cho mình, cho người và cho muôn loài. Hãy nghe nhà thơ tâm sự khi ngưỡng cửa thứ ba trong đời chào đón anh:



Giữa Cõi Đi Về

Trăng vẫn chiếu cuộc chơi từ cổ-độ,
Chợt vòng quay đảo lộn cả phương trời.
Nơi bãi vắng đóa hoa vừa nở rộ,
Thuyền ơi thuyền nước chẩy cứ trôi xuôi.
Cửa Trời Đất vô cùng đâu có hẹp.
Ta yêu nhau khi trăng thuộc về người.
Tới hay lui, lối đi nào cũng đẹp.
Ở hay về, đường vọng những lời chim.
Đây là chút yêu thương làm rượu ngọt,
Cho anh em chuếnh-choáng với mâm đời.
Rừng sương mộng, môi mềm ta cứ uống.
Giữa chợ chiều, tâm-thức nhớ an-vui.
Có tiếng hát mơ-hồ trên bến hẹn,
Tiễn chân nhau tới chốn ít ai tìm?
Cơn sóng lớn băng qua nguồn tắc-nghẽn.
Giòng máu nồng theo lối chẩy về tim.
Hỡi chăn gối đã đưa ta trở lại,
Tạ ơn nhiều êm-ái lúc thân đau.
Hỡi viên thuốc trên đầu môi tê-dại.
Dư-vị này ta giữ đến mai sau.


Anh vẫn lạc quan, yêu đời và biết ơn với cuộc sống. Âm điệu, thi ảnh, mầu sắc, và tư tưởng đều có đầy đủ trong bất cứ một bài thơ hay nào, mà anh thì có quá nhiều bài thơ tương tự để liệt kê nơi đây. Mà thơ nói chung, theo luận điểm 29 trong Mỹ Học của Geghen mà Phan Ngọc dịch, là "Vì ngôn ngữ là thực tại trực tiếp của tinh thần, cho nên thơ bao quát được đối tượng, mọi đề tài, "mọi nội dung, mọi sự vật, mọi biến cố, hành động, lịch sử, trạng thái bên ngoài hay bên trong. Nó lại thể hiện đối tượng trong sự vận động (điều mà điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ không thể làm được). Đồng thời, thơ lại có thể dịch ra một ngôn ngữ khác mà vẫn không bỏ mất giá trị khi đọc hay xem bản dịch. Mỗi nghệ thuật điều có cái thời cực thịnh của mình..."
Những trang thơ của Nguyễn Hoàng Lãng Du đăng trên Làng Huệ là ‘thời cực thịnh’ của anh. Tư tưởng Mang Tình Yêu Thương Lớn (Bác Ái) của Thiên Chúa giáo hay Tứ Vô Lượng Tâm của Phật giáo đem vào cuộc đời để thắp sáng ngọn lửa tin yêu, hy vọng, an bình và giải thoát. Nhà thơ đi và về giữa cuộc đời với bao phong trần, khổ lụy mà không hề bám víu, hối tiếc hay khóc thương, xem lợi danh như bọt biển mây chiều.


…Đây chén đắng, môi sầu ta mãi nếm.
Em xót-xa nên nước mắt lưng tròng.
Canh bạc đời một lần thôi đã kém.
Mỉm miệng cười, đứng dậy thấy tay không (Bến Nhớ).

Để rồi nhà thơ thong dong phủi tay lên núi Tiên tu đạo làm người.

Trên Núi Cao

1
Trên núi cao bỗng có cơn gió lớn
Cuốn hồn ta thành một kẻ trọc đầu.
Gã lang-thang nơi cuối trời mây trắng,
Chốn quê nghèo thoang-thoảng chút hương cau.
2
Ở nơi đó có mùa  trăng cổ-tích,
Mẹ hàng ngày quang gánh nặng yêu thương.
Cha ngạo-nghễ nên vui đời áo rách,
Thua-thiệt gì vẫn giữ cái tâm trong
3
Ở nơi đó có người em bé nhỏ,
Trái cam vàng em nhịn đợi chờ anh.
Chiều ly-biệt chao ơi tha-thiết quá!
Em ôm anh khóc ngất lúc xuân tàn.
4
Ở nơi đó có người tình thuở cũ,
Vỡ lòng yêu khi đi học chung trường.
Có ngờ đâu giòng đời như thác lũ,
Ngọn tre già nặng chĩu những tang-thương.
5
Ở nơi đó có căn nhà mái dột
Mẹ thở dài đêm trắng đợi mưa qua…
Trên núi cao đầy hoa thơm ngào-ngạt.
Con tu tiên quên cả chuyện quê nhà!

Anh lên núi buông bỏ tất cả những bụi bặm trần thế, thua-thiệt làm gì cho đời mãi long đong. Nên anh vẫn giữ cái tâm trong, mà trong cái tâm trong đó, dù kiếp này hay kiếp sau, anh cũng vẫn nhớ “chuyện quê nhà!” và anh đã thấy rằng:

“...Hôm nay trên đời
Anh em cơ-cực.
Ta ôm mặt khóc
Thân-phận làm người.”  (Kiếp Sau)

Ngộ ra đây là thân phận làm người Việt Nam, một dân tộc anh hùng nhưng đã ngàn năm thăng trầm và trầm luân đau khổ. Nhưng cũng bao nhiều thế hệ trước, anh vẫn lạc quan và nguyện cùng đồng hành cùng với tuổi trẻ, với dân tộc, anh vẫn “Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh. Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.” Chúng ta có thể hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du qua loạt bài Chủ đề Tiếng Gọi Núi Sông, Giáo dục Thiếu nhi, Tranh-Thơ-Nhạc, hay chỉ riêng bài Gọi Dậy Ngàn Năm mà Giáo sư Nguyễn Văn Thái dịch ra tiếng Anh dưới đây.


Gọi Dậy Ngàn Năm

1
Rồi gã mù ôm mùa đông thức dậy.
Tiếng độc-huyền vang động tới ngàn năm.
Ngày Quê-Hương có gió xuân thổi lại.
Đêm linh-thiêng thơm ngát với hương trầm.
2
Đàn reo vui theo tiếng cười Uy-Viễn.
Thuở tiêu-dao ngất-ngưởng cưỡi lưng bò.
Đây núi sông,Tướng-Quân đùa với chén.
Bụi-bặm đời trôi-nổi dưới chân co.
3
Đàn giục-giã, trống đồng khi thúc trận.
Trên lưng voi thân gái trả thù nhà.
Muôn tiếng thét, quân reo tràn uất-hận.
Một cõi bờ dựng lại mặc phong-ba.
4
Đàn hào-hùng, điện Diên-Hồng sấm động.
Những cha già tóc trắng sát bên nhau.
Lời quyết-chiến tung bay theo gió lộng.
Người lên đường hăm-hở bước chân mau.
5
Đàn hiền-hòa, Đế-Vương khi mở nghiệp.
Núi La-Sơn thành-khẩn những ba lần.
Đây Quân-Đức, Dân-Tâm và Học-Pháp.
Thanh-âm này chĩu nặng ý Giang-San.
6
Đàn xót-thương, tiếng bom vang Sa-Điện.
Một ngày buồn, bão-tố ngập Quê-Hương.
Tráng-Sĩ đi một lần không để thẹn.
Rồi người người đứng dậy quyết noi gương.
7
Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh.
Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.
Mơ làm đuốc soi đường đêm giá lạnh.
Trong rừng đào ôm sử đợi xuân sang.


Awakening from Millennia
1
The blind bard from winter awakes.
The sound of his monochord resonates from millennia:
The day when Motherland enjoyed the breezes of Spring
And the sacred night was embalmed with frankincense.
2
The monochord is cheering along with Uy Vien’s laughter;
In a leisurely manner, he wanders here and there riding a cow,
Frolicking with a flask of rice wine in peaceful Fatherland,
Scorning all ephemeral matters that pass under his feet.
3
Its sound is hurrying, when the brass drums press for the battle.
On elephants’ backs the heroines seek revenge:
Through thousands of war cries, soldiers’ outrage clamors
For the rebuilding of the nation in spite of adversities.
4
The sound is becoming daring, when the Dien Hong Palace thunders,
By the gray-haired patriarchs shoulder to shoulder,
With the roar of the war cries ballooning the immense winds
That push people to eagerly accelerate the speed of their steps.
5
The sound is currently gentle: Forefather of our kingdom, Our Emperor
Has thrice sought advice from the Sage of Mount La-Son.
Here you are, “Virtues of a King, Hearts of the People, Practical Education.”
This tune is laden with multiple meanings of nationalism.
6
The sound now turns elegiac, when the bomb detonates in Sa Mian:
A sad day when the storms ravage Fatherland;
The hero once passed didn’t leave shame behind.
And people one after another rise up following his footsteps.
7
My eyes are blind, but I enjoy my loneliness:
I’m pouring love down onto the monochord,
Living the dream of a torch that lightens up the freezing cold night.
Embracing history, waiting for Spring to come again, in the cherry blossom tree garden.
 

Poem by Nguyễn Hoàng Lãng Du; English translation by Nguyen Van Thai
Notes: 2. Nguyễn Công Trứ; 3. Hai Bà Trưng; 5. Quang Trung và Nguyễn Thiếp; 6. Phạm Hồng Thái


Nhà thơ khiêm cung lắm, trí tuệ đó, cái oai hùng đó, mà anh bảo rằng, “Ta mắt mù, vui với đời cô-quạnh” nhưng để rồi anh lại “Mang yêu-thương trút xuống một dây đàn.” Mà thiệt những người như anh, những người âm thầm làm văn hóa và giáo dục nhân bản là những kẻ bơi ngược dòng, cô quạnh và đơn côi. Có lần Vũ hoàng Chương cũng nói về tâm trạng đó--thân phận làm người Việt Nam.


“Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.”


Cảm nhận như vậy để thấy và biết rằng mọi sự trên đời đều qua những gian đoạn thành trụ hoại không. Cuộc đời chúng ta cũng thế, vốn là vô thường, có rồi không, còn rồi mất, lúc có lúc không. Nhưng bên cạnh nhà thơ luôn có những gã đồng hành; vậy thì hãy giữ lại những kỷ niệm đẹp như trong Cõi An Bình.


“Em giữ hộ mùa đông dăm giọt nắng,
Câu ngọt-ngào xót lại tự xa-xưa.
Hồn cổ-thụ, hoa sầu đơm trái đắng,
Thân trăm năm bụi-bặm thấy dư-thừa...”


Những cảm giác bùi ngùi, khắc khoải, thế thái nhân tình cũng chỉ là những hạt bụi dư thừa mà thôi. Vậy nhé,


“Mai ta lên rừng
Làm con chim nhỏ.
Lá thơm, trái đỏ
Thỏa chút rong chơi.
Mai ta xuống đồi
Làm con cá lội.
Vài hàng đá cuội
Tung tăng một giòng.
Mai ta về đồng
Làm giây cỏ lạ.
Hoa vàng nắng hạ
Uống giọt sương trong...(Kiếp Sau)


Nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du đó, một đời lên non xuống núi, để rồi cũng ngộ rằng anh cũng chỉ là Hạt bụi bay giữa trời. Anh viết,


Thoáng nghe hạt bụi giữa trời,
Bay trong nắng hạ gọi người lãng-du.
Em về rủ gã chân tu,
Leo lên núi biếc đường mù khói sương.

 
Vậy gã chân tu hãy cùng em hiểu bài kệ ngài Như Trừng như là một sự thực tập nhé, “Bản tùng vô bản. Tùng vô vi lai. Hoàn tùng vô vi khứ. Ngã bản vô lai khứ. Tử sinh hà tằng lụy.” Tạm dịch “Tất cả các Cội nguồn / Gốc rễ bắt nguồn từ nơi không gốc rễ. Mọi sự từ vô vi đến và lại trở về với vô vi. Chúng cũng không đến không đi, thì tử sinh làm sao hệ lụy được.” Bải kệ này được cụ Võ Đình dịch ra tiếng Anh như sau:

The source begins from no source
It comes from nothingness
And it goes back to nothingness
We neither come nor go
Life and death are then of no concern.


Sacramento, đầu hè 2017
Mừng anh về thăm California.
Bạch Xuân Phẻ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/07/2020(Xem: 7035)
“Hoa Tâm Vườn Đạo Vô Ưu” Anh đi vội quá... Bao người tiếc thương Tiễn anh tháng 6 trời mưa Lời thơ nghe đắng bên đời hợp tan Cuộc đời anh sống hiên ngang Chân thành giản dị chứa chan lòng mình Đi qua sóng gió nhục vinh Thăng trầm dâu bể tử sinh vẫn là Vẫn là đôi mắt tinh anh Đạo tâm bút lực nếp lành quê hương Anh xong một kiếp dạo chơi Nhân gian còn lại một trời văn chương Chiều mưa tháng 6 tiếc thương Vô ưu tỏa ngát một vườn hoa tâm Cõi về anh bước thênh thang Tử sinh một thoáng để mà nhớ nhau…
23/07/2020(Xem: 7045)
Nghiên cứu lại danh tăng nhân tài thời đại ! Ngưỡng phục thay... bậc gìn giữ gia tài ... Nào Phật học Tự điển, Đại tạng kinh ... miệt mài. Cùng những bài pháp thoại thâm uyên hiếm có , Từ Đấng Từ Phụ , Cha lành đã giao phó ... Cúi đầu lễ kính Tôn Túc nguyện tri ân , Tiếc hơi muộn... để có thể dấn thân , Tự hứa còn hơi thở ...sẽ còn gắng sức!
19/07/2020(Xem: 4975)
Có đôi lúc vẻ ngoài thật bình tĩnh ! Ai biết cho ....trong lại rối thế này, Tin buồn thân quyến cứ đến hàng ngày . Nhủ nhủ thầm .. cộng nghiệp của thế kỷ !
16/07/2020(Xem: 7538)
Độc cư nhiều năm chẳng đi đâu ! Nên chi phong tỏa tại Úc Châu, Chẳng nghĩ mình đang chịu quản thúc ... Hai bốn giờ ...thời gian qua mau . Từ lâu tri túc nên chưa thiếu, " Huyễn, hoá " luôn ghi nhớ trong đầu Hãy lo bồi dưỡng thêm công đức, Kiên trì.. nhẫn nại thoát bễ dâu?
15/07/2020(Xem: 5722)
Cuộc sống nơi trần gian này ngắn lắm! Muốn thanh thản an hòa học chữ buông Những lục dục thất tình khi ngồi ngẫm Có lúc thật vui nhưng cũng thật buồn "Ba vạn sáu nghìn ngày" đâu là mấy Nhắn nhủ cuộc đời ngắn ngủi ai ơi! Vì cơm áo gạo tiền nên cật lực Mấy ai tránh khỏi vất vả thân người
15/07/2020(Xem: 5344)
Mâu Thuẫn ! Kính dâng Thầy bài thơ sám hối của con mỗi khi tâm loạn động Kính chúc Thầy pháp thể khinh an , HH Có bao giờ tự mình thấy ra mâu thuẫn ? Quay vòng vòng trong loạn động ngã tâm Làm sao phân biệt thiện ác tránh sai lầm, Cần tinh tấn mới diều phục và tỉnh giác .
15/07/2020(Xem: 6173)
Cưỡi hạc bay về tận cõi xa Sinh thành dưỡng dục thấm trong ta Đem đường chân chất nhờ tình Mẹ Giữ lối hiền hòa cảm đức Cha Hết cả phần đời nào quản ngại Nhiêu khê mọi thứ chẳng nề hà Theo hương sống nguyện, sao cho xứng Con cháu noi gương rõ phúc nhà.
13/07/2020(Xem: 13406)
Mô Phật- Xin thầy giảng giải về sự khác nhau giữa Phước đức và Công đức? - Công đức là sự xoay nhìn lại nội tâm,(công phu tu hành) dùng trí sáng suốt, thấu rõ sự thật, dứt trừ mê lầm phiền não. - Công đức có thể đoạn phiền não, có thể chứng được bồ đề, còn phước đức thì không. Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người… - Phước đức không thể đoạn phiền não cũng không thể chứng bồ đề, chỉ có thể mang đến cho bạn phước báu. “Do đó chúng ta nhất định phải phân biệt rõ ràng công đức và phước đức.”
13/07/2020(Xem: 5592)
Đời ! Kính bạch Thầy , nhân có bạn gửi email: Than rằng nghe tin tức hoài khổ quá , con vội gửi bài thơ này . Kính dâng Thầy xem cho vui HH Bàn cờ thế giới hiện sắc không ! Đừng nhìn, nghe, đọc sẽ băn khoăn. Hãy cười tự nhủ mưa ...rồi nắng, Dành chút thời gian lặng soi mình . Lỡ vướng luân hồi chịu tử sinh, Xem như lửa cháy đến mặt . đầu Làm sao tháo gỡ mầm nhân xấu Niệm..trước chấp tàng ... đấy vô minh
12/07/2020(Xem: 6069)
Rạng sáng ngồi vui với tách trà Bao điều đắng ngọt chuyện cùng ta Hương tràn đọng thấm quanh thềm cỏ Khói tỏa quen đùa khắp nhánh hoa Mấy khỏang xuân sang nào chậm lại Nhiêu lần hạ đến vẫn đều qua Thời gian,vạn vật luôn bình thản Chỉ có con người… cứ thở ra….
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]