Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thăm Bệnh Ca

11/02/201723:02(Xem: 7118)
Thăm Bệnh Ca

THÍCH NỮ TRÍ HẢI

 

 

 

NGỌA BỆNH CA

(Tập 2)

 

Ghi lại những ngày nằm bệnh từ 15/03/2003 đến 15/4/2003

 

 

 

 

 

MỘT – THĂM BỆNH CA

 

 

 

TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG

ĐỨC DANH TỎ RẠNG

Ni sư quả lạ lùng

Đang bệnh tình trầm trọng

Tâm thức vẫn lắng trong

Gieo vần thơ cảm hứng

Như mạch suối tuôn dòng…

 

An vui và tự tại

Nhìn đời với nụ cười

Tâm sáng ngời ánh đạo

Trí nhẹ nhàng, thảnh thơi

 

Nhớ thương từng khuôn mặt

Đặc biệt của mọi người

Viết câu thơ mến tặng

Gửi đi - về khắp nơi

 

Quý thương biết mấy ai ơi!

Đức Danh tỏ rạng cho đời mến yêu.

 

(Cảm xúc sau khi đọc Ngọa Bệnh Ca I của Ni sư Thích Nữ Trí Hải do cô Tuệ Dung gởi qua lúc chiều, đêm 11.04.2003)

 

 

 

BÁC SĨ BÌNH

ĐẠI DƯƠNG VÀ HẠT CÁT

Trí mênh mông như biển

Thân hạt cát nhỏ nhoi

Ví như không hòa hợp

Thân ắt phải quỵ thôi.

 

 

 

BÁC SĨ ĐỒ HỒNG NGỌC

CÓ KHÔNG

Có có không không, có có không

Không không có có, có không không

Âm vang một tiếng hư không lạnh

Lấp lánh ngàn hoa nguyệt ánh lồng

Tuyết cũ năm nao còn lắng đọng

Hương xưa dạo đó đã mênh mông

Áo ai thấp thoáng bên bờ giậu

Vẫn có mà không chút bụi hồng.

 

 

 

HUỆ LIÊN

GẶP SƯ

Gặp sư chỉ mới vài lần

Mà sao con thấy muôn phần kính thương

Giữa dòng biến chuyển vô thường

Mà tâm Sư mãi sáng dường ánh trăng

Lòng từ chẳng quản nhọc nhằn

Vì hàng hậu học ni tăng quên mình

Trọn đời sống với kệ kinh

An nhàn trong cảnh tịnh minh chơn thường.

 

 

 

TUỆ NHÃ

THĂM BỆNH

Thăm bệnh như đang bệnh

Thấy đời thực vô thường

Rập rình như ra lệnh

Tu đi, chớ coi thường!

 

Hầu chuyện bên giường bệnh

Mới hay pháp nhiệm mầu

Thân bệnh tâm không bệnh

An lạc chẳng âu sầu.

 

Tích tắc, tích tắc cứ trôi qua

Hơi thở hết vào rồi lại ra

Mấy ai thấu được đời nhân thế

Mạng sống vô thường trong sát na.

 

Gẫm lại thấy mình hạnh phúc thay

Được thầy dạy bảo tỏ lẽ ngay

Học đâu cho lắm ngay tầm mắt

Thấu lẽ vô thường quý hóa thay.

 

 

 

THẦY TÔI

Thầy tôi vui đọc sách trồng hoa

Sở thích không chi bằng uống trà

Tiếng kệ lời kinh vang sớm tối

Chuông chùa ngân đổ thoảng bay xa

Lòng Từ bao phủ tình chan chứa

Gieo rắc Bi tâm ý đậm đà

Khắc khoải lo toàn đàn hậu duệ

Lời vàng giáo huấn mãi ngân nga.

 

 

 

KHỔ

Khổ vì mãi chạy theo vật chất

Mai thứ này mốt lại thứ kia

Chẳng bao giờ bằng lòng hiện tại

Thất điên bát đảo vẫn không lìa.

 

 

 

HỌA VẦN

Đã bao lần về chơi thôn Vỹ

Viếng cảnh chùa xưa ngắm trăng lên

Hàng cau xanh ngắt cao vun vút

Bát ngát bao la ruộng với điền

 

Từ nhà đến đó đường rất xa

Chùa xưa đổi mới vẫn nhìn ra

Chuông chùa thoang thoảng ngân trong gió

Cảnh cũ người xưa thêm đậm đà

 

Hương trầm quyện tỏa tựa khói mây

Tín tâm bền vững chẳng lung lay

Mai sau dù có đi xa mấy

Vẫn nhớ chùa xưa cảnh cũ này.

 

(Cảm hứng sau khi đỏc: Họa vần bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Sư phụ)

 

 

 

HẠNH CHƠN

PHÁP ÂM

Âm vang tiếng pháp nhiệm mầu

Từ nguồn thanh tịnh làu làu khai thông

Tâm con như thể lòng sông

Đón dòng suối pháp mát trong dịu hiền

Ni sư như Bụt hiện tiền

Truyền trao chánh pháp tâm truyền dĩ tâm

Hay thay đâu chỉ pháp âm

Pháp thân bất diệt thậm thâm tỏa thiền.

 

 

 
GIẢ BỆNH

Giả thân ngũ uẩn đau thương

Cũng là chân lý bình thường duyên sinh

Riêng tâm luôn giữ chánh minh

Vầng thơ đạo pháp đậm tình từ bi.

 

 

 

LÊ HÀ THĂNG

NHƯ VẦNG TRĂNG TỎ

Kính tặng Ni sư Trí Hải (22.04.2003)

 

Một tấm lòng rộng mở

Bao la ánh mặt trời

Lợi danh không vướng bận

Chỉ mong người an vui

 

Ước là con sông nhỏ

Hòa trộn cùng biển khơi

Ước làm vầng trăng tỏ

Soi khắp nẻo cuộc đời

 

Nhưng rồi thầy ngã bệnh

Sau những ngày đi xa

Góp niềm vui nho nhỏ

Cho em bé cụ già

 

Từ Lộc Ninh, Bình Phước

Đến thôn nghèo Sóc Trăng

Cả miền Trung miền Bắc

Đèo dốc chẳng băn khoăn

 

Vẫn biết câu vô thường

Đời không không sắc sắc

Thầy là một tấm gương

Con soi vào trầm mặc.

 

 

 

NHỚ MẸ TA XƯA

Chiều buồn ngồi nhớ mẹ xưa

Bỗng dưng thèm tiếng hát đưa nôi buồn

Dù đi trăm núi ngàn sông

Làm sao hiểu thấu nỗi lòng mẹ yêu

Ầu ơ …  chim vạc kêu chiều

Gian nan đời mẹ bao điều đắng cay

Lưng còng tóc bạc răng lay

Mẹ hy sinh cả những ngày xuân xanh

Cho con cơm áo học hành

Cho con cả ước mơ xanh bầu trời

Con đi gần trọn đời người

Vẫn không nhớ hết những lời mẹ khuyên

Giang tay ôm mọi ưu phiền

Đổi cho mẹ chỉ một niềm vui thôi.

25.04.2003

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/08/2010(Xem: 7162)
Nửa đời người tôi hiểu được Vô thường - ấy lẽ thường nhiên Và ta chỉ là chiếc lá Trong rừng nhân loại vô biên..
28/08/2010(Xem: 9550)
Chén cơm trong chốn lao tù, Con xin cúng Phật con tu quá đường ! Thế gian huyết hận đau thương ! Nghẹn nào lệ nhỏ vô phương kêu gào !.
12/08/2010(Xem: 8411)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6876)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6255)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6965)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6694)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8983)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12509)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25258)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567