Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trường Ca Larung Gar

12/08/201618:44(Xem: 10112)
Trường Ca Larung Gar
 Larung gar-2


TRƯỜNG CA LARUNG GAR
 
(Sakya Như Bảo)

 

 

 

Larung Gar! Larung Gar!

Sừng sững nguy nga

Điện đài tráng lệ

Ai đã từng đến với Larung Gar,

Để ngắm mặt trời lên sáng ngời trên những ngọn đồi xanh ngát?

Và trầm tư soi mình xuống thung lũng lúc về đêm?

 

Larung Gar! Larung Gar!

Bỏ lại sau lưng những náo nhiệt phồn hoa

Những lo toan tất bật

Những danh lợi mịt mù

Vượt những rặng núi tuyết cheo leo

Những cung đường hiểm trở

Những thảo nguyên hoang sơ nắng gió

Qua những cánh đồng hoa cải mênh mông rực rỡ sắc vàng óng ả

Ta về với Larung Gar

Nơi giữa lưng chừng thời gian và trời đất

Nơi mà bạc tiền và tri thức thế gian chẳng đáng giá một xu!  

 

Larung Gar! Larung Gar!

Học viện với ngàn ngôi nhà đỏ thẫm kề nhau

Được viền quanh bởi những ngọn đồi xanh mướt

Đêm đêm trên thung lũng tuyết rơi gió hát

Muôn vạn nến đèn rực rỡ ánh huyền linh

Trong tĩnh mịch khói sương hoa cỏ hữu tình

Tiếng Chuông ngân, tiếng Tù Và rền vang hòa trong lời Kinh trầm lắng:

 “Aum Mani Pad me Hum….”

Choáng ngợp, ngất ngây đêm Đông phương huyền bí

Ôi! Larung Gar kỳ vĩ!

Khiến bao kẻ đắm say, sững sờ, mê hoặc

Tuyệt tác thiên nhiên, quà tặng của đất trời

Ôi Larung Gar!

Không phải trí Du-già

Nào đủ sức ngợi ca!

 

Larung Gar! Larung Gar!

Đâu rồi dáng Tượng vương

Lẫm liệt uy nghi trên đỉnh đồi cao ngất

Đâu rồi tiếng Ca-lăng-tần-già

Lảnh lót buổi ban mai?

Đồi hoa dại trắng xóa li ti sáng nay

Còn chưa tan những hạt sương đêm óng ánh

Mà từng cọng cỏ non đã thảng thốt trở mình,

Nức nở mộng tàn canh! (xem tin tức Larung Gar bị phá hủy)

 

Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar!

Thôi hết rồi một thuở hoàng kim

Điện vũ vàng son, đền đài lầu cát

Nào nến, nào hoa, nào cờ, nào phướn

Nào trầm hương thơm ngát những ngày vàng!

Larung Gar hôm qua còn Phật viện thênh thang

Muôn tịch cốc trùng trùng san sát

Thung lũng đỏ giữa ngàn mây xanh ngát

Bốn vạn Tăng sĩ mười phương

Rợp đỏ rừng y diệu thường rực rỡ

Sáng nay biết phải về đâu?

 

Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar!

Từ nay, mỗi sớm mặt trời lên

Sẽ không còn tiếng chuông ngân thanh thoát

Tiếng Ốc Loa, chim hót

Bánh xe Mani ngỡ ngàng chệch choạng

Những vòng quay bất chợt đứt lìa

“Aum Mani Pad Me Hum”….

 

Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar!

Ngày hai mươi tháng bảy vừa qua

Cuồng phong từ đâu ập tới

Lửa cháy ngút trời

Kèo cột rụng rơi

Hàng ngàn tượng, tranh ứa lệ

Muôn vạn Kinh sách oằn mình rũ rượi

Lớp lớp Tăng chúng chơi vơi!

Mạn-đà-la lấp lánh vỡ tan rồi!

 

Ôi! Larung Gar! Larung Gar!

Tuyết sơn sáng nay máu nhuộm đỏ đồi

Những ngôi nhà gỗ bậc thang với hàng cờ ngũ sắc

Những rừng y rực màu đỏ thẩm

Chìm trong biển lửa bạo tàn!

 

Larung Gar! Larung Gar!

Sáng nay chú tiểu thơ ngây tung tăng đi tìm hoa dại

Đâu hay đám sài lang kéo đến

Nghiến nát nụ cười em

Tuổi thơ trong veo em cất kỹ tận cuối chân trời

Cách rất xa ngoài kia thế giới

Những tưởng an bình, vuốt nanh không với tới

Thế mà cũng chẳng thoát nổi móng sắc dài

Của loài cọp sói hùm beo!

 

Ôi Larung Gar! Larung Gar!

Ráng đỏ chiều nay vàng vọt mất rồi

Thung lũng tươi xanh ủ ê mùi cỏ nát

Rừng hoa dại hôm qua còn thơm ngát

Chiều nay rúm ró nỗi kinh hoàng!

Trên đỉnh đồi từng cụm tuyết điềm nhiên đông đặc

Chẳng nương tay ném thẳng xuống đất Phật bình an!

 

Ôi Padmakara! Ôi Milarepa!

Người có hay chăng?

Larung Gar giờ này

Rã rời một bãi tha ma

Rập rờn bóng rằn ri, họng súng

Những đàn chim Kên chờ chực

Mùi tử khí bao trùm khắp rặng núi Tuyết đớn đau!

Những cánh hoa rừng quắc quéo tụm vào nhau

Thung lũng chiều nay mặt trời ứa ra màu máu 

Núi không còn xanh, núi ngằn ngặt tím.

Ba ngàn thế giới im lìm

Nhìn Larung Gar trút hơi tàn vĩnh biệt!

 

Larung Gar! Larung Gar!

Tiếng kêu cứu chìm trong tuyệt vọng

Bởi người ta đang bận dự Hội nghị Nhân quyền

Người ta đang bận vỗ tay tán thưởng những Tham luận triền miên

Về một thế giới tự do, không bạo cường, không xâm lấn.

Những giọng người vẫn hùng hồn trong những Hội trường kín mít

Biết nổi sao, Larung Gar đang hấp hối, cong oằn?

Nghe làm sao tiếng gió rít trở trăn?

Tiếng giầy đinh đóng xuống đường nhức nhối

Phật điện trang nghiêm lố nhố bọn sài lang phách lối

Tăm tắp những cánh tay trụi trần hắc ám

Và dùi cui giáng thẳng xuống đời nhau!

 

Larung Gar! Larung Gar!

Tiếng kêu cứu chìm trong tuyệt vọng

Chỉ có núi rừng hoang vu gào thét xé lòng

Đêm nay Larung Gar

Không tiếng Kinh cầu

Không tiếng Linh, Tiêu, Loa, Ốc

Chỉ có tiếng ma quỷ rú lên ghê rợn

Tiếng đập cánh hả hê của bầy Kên Kên, và Quạ, và Diều

Loẹt xoẹt ngấu nghiến trên những thân người sõng sượt…

Nhì nhùng…. day dứt….

Những làn roi quất thẳng vào tim!

Đau lịm thắt trời xanh ơi, tình Linh sơn cốt nhục!

 

Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar!

Giấc mộng Nalada một thời thôi tan vỡ!

Larung Gar huy hoàng, Larung Gar điêu tàn

Rừng núi xác xơ!

Thung lũng đỏ chìm trong màn lửa đỏ

Chiều nay, loang lỗ trên vùng cỏ xanh tuyết trắng

Rực lên, đỏ ối những phận người!

 

Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar!

Nỗi đau câm lặng

Hong lên buổi chiều tàn thu

Khói sập soài không dứt

Trợn trạo rừng xanh nuốt không trôi niềm tủi nhục

Quốc phá gia vong!

 

Vĩnh biệt Larung Gar! Vĩnh biệt Larung Gar!

Gió vẫn rít từng cơn đau nhói

Nến khuya nức nở nghẹn ngào

Tràng hạt đứt lìa lăn lóc

Hiền giả tôi, biết phải về đâu?

 

Từ tạ nhé Larung Gar!

Đêm trắng này ta tặng nhau khúc trường ca vĩnh biệt

Như bao người, như bao loài có máu, có tim

Qua khỏi đêm nay, tôi sẽ không nhớ về một Larung Gar kỳ ảo

Ở tận vùng đất Tạng xa xôi

Bởi trong tim tôi Larung Gar đã có sẵn đây rồi!

Tượng Phật không còn, Điện đài thành tro bụi

Nhưng có một điều nhân loại phải tin

Rằng Phật Tâm vẫn bất diệt dẫu vô hình

Những ngôi Chùa tâm linh vẫn sáng ngời vững vàng hùng vĩ

Trong muôn vạn tâm hồn Tăng sĩ nơi đây.

Lửa dẫu thiêu tàn hàng ngàn Kinh sách

Đốt làm sao Trí tuệ bậc xuất trần?

Đèn nến gãy rời, tràng hạt dẫu đứt tung

Ngăn sao nỗi đạo tâm hàng Thượng sĩ?

Chùa vẫn trong ta

Phật đang trong ta

Trời Tự Tánh bao la

Tâm Kim Cương bất hoại

Trí Bát Nhã nào xa

Ngọc thiêu sắc vẫn trong ngần

Sen trong biển lửa thơm lừng trổ hoa.[1]

 

Đại Tòng Lâm, 23:30, 20/7/2016

Sakya Như Bảo

 

 

 



[1] Dịch ý từ hai câu cuối trong bài kệ Thị Tịch của Thiền sư Ngộ Ấn (thời Lý):

“Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, 
Liên phát lô trung thấp vị càn.”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/04/2023(Xem: 2783)
Nhòa nhạt nẻo TÂM chỉ khép đời, Ngát hương TÂM nhật sánh xanh trời. Hoa tàn, cảnh mệt TÂM rầu nhớ, Đạo có, TÂM lành phúc khó rơi.
27/04/2023(Xem: 2778)
Mai này đi vào núi Đường mây bặt dấu hài Thân tâm chút cát bụi Điểm hồng đời thêm vui!
27/04/2023(Xem: 5298)
Kính đa tạ quý Giảng Sư đã truyền trao kinh nghiệm, Khi chọn lựa chủ đề tinh yếu giáo pháp Như Lai Hành trình độ sanh, xuyên suốt 45 năm dài Mà kinh “Tứ Thập Nhị Chương” có thể gọi là tiêu biểu !
27/04/2023(Xem: 4935)
Đã mấy tháng nay, cứ sáng ra tôi lại nhận được một bài thơ, đều đặn. Có bài là một pháp số, có bài là một tâm nguyện mà hành giả sau khi tu tập chiêm nghiệm đúc kết lại, nhất là khi đã trải qua mọi biến cố thăng trầm, hiểu sự hữu hạn của kiếp người khi mỗi ngày trôi qua là một phần thưởng kéo dài sự sống nên làm sao sống vui, sống trọn vẹn với tri kiến về đạo pháp. Nhà thơ, hành giả, Thầy Thích Đồng Bổn đã cảm nhận nguồn thơ tuôn trào qua kiến
27/04/2023(Xem: 4054)
Nhân dân ta yêu thơ, thích làm thơ cũng là chuyện đáng mừng, bởi ít ra đó cũng là niềm vui nơi trần thế. Đạo Phật nói đời là bể khổ, nhưng hơn bảy mươi năm chìm nổi trong bể khổ ấy, tôi thấy không thiếu niềm vui. Tôi tin, hễ ai tìm được niềm vui cho mình, cho người quanh mình là hạnh phúc. Phật hoàng Trần Nhân Tông cũng từng nhắc nhở: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch/ Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (Trong nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền). Phật tạ i tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tịnh thì lập tức thành Phật, nhưng chuyện đó xa xôi quá; theo tôi, trước mắt cứ như lời bài hát của Trịnh Công Sơn: “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” trong bể khổ ở cõi Ta bà này là sướng lắm rồi.
27/04/2023(Xem: 5268)
Cuộc đời vốn dĩ vô thường Xuân sang năm ấy bây giờ tàn phai Giật mình tỉnh giấc bàn hoàn Kiếp người nhanh quá chỉ mành treo chuông
26/04/2023(Xem: 2570)
Học lời dạy Phật là bước đầu căn bản Tìm thấy trong Kinh, Luật, Luận đấy mà Tuỳ căn cơ tìm phương tiện hợp ra Với MP3, video pháp thoại chủ đề thực tiễn !
26/04/2023(Xem: 2227)
Mạt Pháp nào hay sanh nhầm thời Oán kết nhau chi đáng nực cười Cá chậu,chim lồng ai giải thoát ? Chiến tranh, dịch bịnh thảm đầy vơi!
25/04/2023(Xem: 3305)
“Con đường trúc biếc“ là tuyển tập 40 bài thơ của nhà thơ Thanh Trúc, trải dài hơn 50 năm của một dòng sống, kể từ lúc tác giả còn ngồi ở ghế nhà trường cho đến bây giờ. Với tác giả, dù mái tóc đã trải qua hai giai đoạn đen và bạc, và dù hai mái đầu tuần tự nhường chỗ cho nhau nhưng vẫn còn đó một tâm hồn không hề đổi thay trong dâu bể và tâm hồn ấy vẫn trong trắng tinh khôi màu nguyên thể, màu của trúc biếc, màu của chân tâm thường trú, bất sanh bất diệt.
25/04/2023(Xem: 4286)
Thầy hát cùng chúng tôi bằng cả trái tim. Thầy rất thích nghe các con của Thầy hát bài này. Bài thơ ấy cũng hàm chứa một sự thực tập rất sâu sắc mà Thầy muốn nhắn nhủ. Đêm nay, giữa khung cảnh ấm tình này, Thầy đã hát và phát âm rõ ràng nhiều từ. Các con của Thầy vui quá, xúc động quá, nhiều sư em đã vừa hát vừa đưa tay lên quẹt những giọt nước mắt không ngăn được. Mà thực sự không ai cần phải cố gắng ngăn cản những giọt nước mắt hạnh phúc ấy. Các anh chị em đã nói lên niềm vui khi nghe được những từ Thầy phát âm tròn chữ trong bài hát. “Bạch Thầy, Thầy hát rõ chữ lắm!”,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]