Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bà Triệu (thơ)

15/12/201506:23(Xem: 19009)
Bà Triệu (thơ)

Trieu Thi Trinh
BÀ TRIỆU - Triệu Thị Trinh

 

- Tên thật: Triệu Thị Trinh, hoặc Triệu Thị Chinh, Triệu Trịnh Nương, còn có tên: Triệu Ẩu, Nhụy Kiều Tướng Quân, Lệ Hải Bà Vương.

- 19 tuổi, thu phục con voi trắng một ngà dữ dằn, phá hại mùa màng, giết hại dân lành. Chính con voi này Bà cỡi mỗi khi ra trận. Cũng năm 19 tuổi này, Bà đã vào rừng lập chiến khu tại Sơn Tùng, hàng ngàn tráng sĩ xin theo, học kỹ chiến thuật, rèn binh bày trận. Và chính nơi đây là Trung tâm cuộc Khởi Nghĩa vào năm 248, thời kỳ Bắc thuộc lần Thứ Hai.

- Bà tuẩn tiết ngày 21 tháng 02 năm Mậu Thìn 248 tại Núi Tùng, Thanh Hóa, lúc bấy giờ Bà mới 23 tuổi.

- Bà sinh tại huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Nhưng về năm sinh, tôi xin đánh dấu hỏi ở đây: Nhiều sử sách bài viết đã ghi nằm trên tủ sách và online trên hệ mạng, rõ ràng rằng: "Triệu Thị Trinh - Bà Triệu (225-248)" ; Lại rõ ràng rằng: "Bà Triệu Thị Trinh sinh ngày 02 tháng 10 năm 226 (Bính Ngọ)". Điểm này xin dành cho những bậc Thức giả và các nhà Sử học.

Trân trọng.

 

Nhớ về Bà Triệu nước ta

Nửa đầu thế kỷ thứ ba diệt Tàu

Tên Bà rực sáng minh châu

Thoi đưa không đổi sắc màu thời gian

Đọc kỹ sử sách rõ ràng

Truyền trao dấu ấn thiếp vàng điểm son

Vừa mới mười chín trăng tròn

Mà lưu đậm nét kiêu hùng tuyệt luân

Hăm ba đang độ thanh xuân

Mà lưu đậm nét non sông nước này

Sơn Tùng còn mãi xưa nay

Hàng năm Mở Hội tỏ bày nhớ ơn

Ơn Bà cao cả ngàn cân

Khắc ghi tưởng nhớ ân cần nêu gương

Cái gương Nữ Kiệt đường đường

Anh Thư Nước Việt phi thường mấy ai

Cái gương tuổi mới hoa cài

Hai ngàn năm sử không phai bụi mờ

Cái gương tuổi mộng ươm mơ

Mà cả Đất Nước phụng thờ ngưỡng tôn

Cái gương tuổi ngọc chưa tròn

Mà cả Dân Tộc bảo tồn truyền lưu

Sánh cùng quân tử trượng phu

Có trang oanh liệt Nữ Lưu Lạc Hồng

 

Tất cả cùng một lòng yên lặng

Tất cả cùng một dạ nhớ ghi

Từng chữ của Bà, ngân hà xao xuyến

Từng lời của Bà, vũ trụ ngất ngây

Con tạo ngưng lay

Con quay thôi động

Huống gì ếch nhái

Đáy giếng thổi bộng

Huống gì giun dế

Lải nhải lao chao

Vũ trụ thắp trăng sao

Thái hư soi tinh tú

 

Trên trái đất này, ai nổi bật nhất trong hàng nữ giới

Hiệp nhất đồng tình, đó là Nữ Kiệt Việt Nam

Khắp nhân loại này, ai oanh liệt nhất trong hàng nữ giới

Hiệp ý nhìn nhau, đó là Anh Thư Nước Việt

 

Hãy công bằng nói ra cho biết

Hãy công tâm nói thiệt cho nghe

Ô hay, truyền tụng thành vè

Sao không lên tiếng, e dè thế sao

Ô hay, tục ngữ ca dao

Mà không há biết, thảo nào mù u

Mù u mù ũ mù ù

Cho lòe chút sáng bớt ngu tối òm

Tối òm tối õm tối om

Con đom đóm thắp chập chờn đêm đen

Xin thêm chút nữa ánh đèn

Đèn dầu cũng quý vén rèm hoang vu

 

Xin mạn phép tuyên xưng ngôn tự

Xin chân thành tuyên đọc ngôn từ

Lời Bà Triệu trả lời Cha hỏi:

- "Lớn lên con sẽ làm gì?"

- "Thưa Cha,

Lớn lên, con đánh đuổi giặc

Như Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị"

Lúc 19 tuổi đẹp hơn son

Có người gạ hỏi việc chồng con

Bà nói:

"Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh

Chém cá kình giữa Biển Đông

Đánh đuổi quân Ngô

Cởi ách nô lệ

Há chịu cúi đầu làm tì thiếp người ta ư."

 

Nhìn trông lên cả thái hư

Thử xem có đẹp được như thế này

Nhìn trông lên khắp trời mây

Thử xem vũ trụ tỏ bày nghe sao

Rằng, không có chỗ còn cao

Huống chi lởm chởm gió vèo tả tơi

Rằng, không còn chỗ tuyệt vời

Huống chi cát bụi lở bồi trần gian

Càn khôn ê ẩm khôn càn

Khó ghi khắc nổi son vàng Triệu Trinh

 

Đồng dao phát động

Rừng núi vọng vang:

"Có Bà Triệu tướng

Vâng lệnh Trời ra

Trị voi một ngà

Dựng cờ mở nước

Lệnh truyền sau trước

Theo gót Bà Vương."

 

Sá gì quân giặc Ngô

Hỡi Tàu phù Phương Bắc

Không mặt mày tái mét

Không bủn rủn tay chân

Sợ hớt hãi lượng phần

Trước uy phong lẫm liệt

Nghe tên Bà đã khiếp

Nhắc tên Bà đã run

Thấy bóng Bà rợn hồn

Tướng, Binh nhũn hơn bún

Thảng thốt vội vang câu:

"Hoành qua đương hổ dị

Đối diện Bà Vương nan"

Cầm giáo đánh hổ dễ dàng

Gặp Bà ơi hỡi vô vàn khó khăn

 

Ô kìa, ô kìa kìa

Hãy nhìn trông Bà Triệu:

Mặc giáp đồng, đồng sáng loáng

Cài trâm vàng, vàng hoàng kim

Mang guốc ngà, ngà Trinh Triệu

Cỡi voi trắng, trắng Triệu Trinh

Voi một ngà, uy quắc thước

Một mình Bà, vũ bão khinh

Xông pha ra ngoài chiến trận

Như đi vào chỗ không người

Khói lửa bụi bay mù mịt

Nhụy Kiều rực rỡ tinh khôi

Sá gì Bắc quân lang sói

Sá gì chồn cáo Ngô binh

Xâm thực bạo tàn đỉa đói

Thất điên bát đảo hồn kinh

Một trận dẹp tan quân giặc

Một trận sạch bóng quân thù

Bà Triệu oai phong lẫm liệt

Danh Bà truyền tụng thiên thu

 

Sơn Tùng tuẩn tiết đời Trinh Triệu

Hăm ba tuổi ngọc rạng Triệu Trinh

Núi sông lan tỏa hồn sông núi

Gấm vóc quê hương tuyệt bóng hình

Bà đi nhật nguyệt lung linh

Bà đi trời đất nghiêng mình tiếc thương

Sử vàng ghi khắc tấm gương

Ngàn năm chói lói tư lường thẩm sâu

Biển kia dù cạn biển dâu

Sông kia dù cạn trên đầu nguồn khô

Danh Bà tuyệt diệu như mơ

Xin ghi khắc mãi tôn thờ muôn năm

Tên Bà chạm ngọc thiếp vàng

Xin ghi trên khắp nẻo đường quê hương

Hình Bà muôn kính ngàn thương

Phụng thờ chiêm bái khói hương muôn đời

"Dù cho vật đổi sao dời"

Nhưng Bà còn mãi rạng soi vô cùng.

 

Ngày 14-12-2015

TNT Mặc Giang

Ý kiến bạn đọc
17/03/201912:21
Khách
Về năm sinh của Bà Triệu, tôi xin có ý kiến thế này:
Bà Triệu phất cờ khởi nghĩa và hy sinh trong năm Mậu Thìn tức năm 248. Sử sách nói năm hy sinh, Bà 23 tuổi là theo cách tính tuổi ta, có tính đến tuổi mụ. Như vậy, theo cách tính thông thường, không có tuổi mụ thì Bà hy sinh năm 22 tuổi. Kết luận lại là Bà Triệu sinh năm Bính Ngọ 226 là chính xác ạ!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/06/2010(Xem: 25375)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8037)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6661)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10207)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7731)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12226)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7520)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31235)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567