Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Huyền Giác Chứng Đạo Ca (thơ)

17/12/201307:26(Xem: 19560)
Huyền Giác Chứng Đạo Ca (thơ)

lotus8

HUYỀN GIÁC

CHỨNG ĐẠO CA

Thích Thuyền Ấn dịch thành thơ

I. Ngộ Phật tánh:

1. Ai có hay chăng bực Đạo nhân

Vô vi tuyệt học, vọng là chân?

Chính vô minh tánh: Bồ đề tánh

Thân huyễn không nầy tức Pháp thân.

2. Đốn ngộ Pháp thân vạn vật không

Pháp thân, Phật tánh bản nguyên đồng

Thân mây năm ấm bay qua lại

Ba độc nổi chìm bọt biển đông.

3. Thực tướng chứng rồi không pháp, nhân

Diệt A-tỳ nghiệp sát na phân

Nếu ta vọng ngữ lừa nhân thế

Lưỡi cắt ngàn đời tội vướng thân.

II. Cảnh giới tự chứng:

4. Hoát nhiên đốn ngộ Như Lai thiền

Sáu độ vẹn toàn muôn hạnh viên

Mê mộng đó đây sinh lục thú

Giác rồi không cả cõi tam thiên.

5. Không tội phước, không thêm bớt đâu

Bản nhiên tánh tịnh chớ tìm cầu

Từ xưa gương bụi chưa lau rửa

Tẩy sạch ngay đi đừng đợi lâu.

6. Ai không niệm? Liễu ngộ không sanh

Nếu có không sanh, không chẳng sanh

Xin hỏi mộc nhân[1]nguyên cớ ấy

Giúp công nhờ Phật việc không thành.

7. Buông bốn đại không hề vướng mang

Trong tâm ăn uống sống thanh nhàn

Vô thường vạn pháp toàn không cả

Viên Giác Như Lai huệ ngọc vàng.

III. Bảo tạng Như Lai:

8. Nói quyết định nêu rõ Thánh tăng

Có người chưa dám lộ cao đăng

Chân tâm liễu ngộ Phật minh chứng

Vạch lá tìm cành không khả năng.

9. Ma-ni châu, có ai hay đâu

Bảo tạng Như Lai toàn vẹn thâu

Vô tận thần thông gì chẳng có

Viên quang diệu thể quá thâm sâu.

10. Tịnh năm nhãn, diệu lực toàn năng

Ai chứng mới hay người thấu chăng

Ngắm ảnh trong gương điều chẳng khó

Đáy song ai dễ kiếm mò trăng.

IV. Niết bàn lộ:

11. Thường độc hành, đi bộ một mình

Niết bàn lộ liễu ngộ quang minh

Tinh thần trầm mặc, hình siêu thoát

Thân huyễn không nầy đầy tánh linh.

12. Xuất gia thoát tục làm bần tăng

Say đạo, vui nghèo, quên khó khăn

Nghèo tất thân choàng manh áo rách

Đạo thì tâm ngọc sáng như trăng.

13. Dùng chẳng hết vô giá bảo châu

Tùy duyên cứu độ thiếu gì đâu

Ba thân, bốn trí tâm sẵn đủ

Tám giải, sáu thông Đạo nhiệm mầu.

14. Thượng sĩ quyết tâm tất cả thông

Bực trung, bực hạ ngu và ngông

Hãy tìm bảo ngọc trong áo rách

Vô ích bề ngoài khoe tính công.

V. Chuyển chướng duyên thành trợ duyên:

15. Mặc ai hủy báng, chê bai gì

Đem lửa đốt trời có ích chi

Lời mắng nghe như cam lộ thủy

Tiêu dung thể nhập nan tư nghì.

16. Xem như công đức những rầy la

Người ấy thiện tri thức của ta

Không khởi hận thù, không oán trách

Nhân từ, nhẫn nhục lòng dung tha.

VI. Thông đạt:

17. Đạo lý suốt thông, tông chỉ thông

Sáng ngời định tuệ bỏ mê không

Điều nầy nào chỉ mình ta đạt

Chư Phật hằng sa ngộ tánh đồng.

18. Sư tử rống lên vô úy thanh

Thất kinh muôn thú chạy tan tành

Cong đuôi hoảng nhảy chúa voi trốn

Thiên long nghe được tâm an lành.

VII. Tâm ấn Tào khê:

19. Đạo rừng thiêng, thưởng ngoạn trùng dương

Học đạo tầm sư khắp vạn phương

Từ lúc Tào khê duyên hạnh ngộ

Liễu sinh thoát tử chứng chân thường.

20. Ngồi cũng thiền, đi đứng cũng thiền

Nói phô động tịnh tâm an nhiên

Kiếm đao hung dữ lòng thanh tịnh

Độc dược vướng nhằm thân vẫn yên.

VIII. Tự giác:

21. Bổn sư ta gặp Phật Nhiên Đăng

Tu nhẫn nhục tiên nhiều khó khăn

Sinh tử, tử sinh bao nạn kiếp

Liễu sinh thoát tử Phật cao thăng.

22. Từ khi đốn ngộ pháp vô sinh

Vui khổ không còn đổi nhục vinh

Vào tận thâm sơn, Lan nhã ở

Rừng tùng xanh, núi ngợp U linh

Tọa thiền thanh thản quên trần thế

Siêu thoát an nhiên trí tuệ minh.

23. Giác là liễu ngộ không thi công

Các pháp hữu vi vốn bất đồng

Bố thí phước sinh trời hưởng lạc

Thân như tên bắn lên hư không

Đến khi lực hết tên rơi xuống

Phiêu bạt trầm luân khổ não lòng

Đốn ngộ pháp môn: Chân thực pháp

Ai tu triệt chứng Như Lai tông.

IX. Giác tha:

24. Cội gốc phải lo, chớ bận cành

Lưu ly ngậm trọn trăng trời xanh

Trân châu ý ấy ai thông đạt

Độ thế cứu nhân siêu tuyệt danh

Trăng chiếu trên sông, tùng vút gió

Tuyệt vời trăng, nhạc thiền thanh thanh.

25. Phật tánh viên minh ẩn chứng tâm

Cà sa Phật bận hết thăng trầm

Hàng long bình bát, trượng trừ hổ

Hai dãy vòng vàng ngân diệu âm

Pháp khí trân châu không hủy bỏ

Như Lai dấu tích chẳng sai lầm.

X. Như Lai địa:

26. Chẳng đoạn vọng, rồi chẳng chứng chân

Vọng chân không tướng khó ai phân

Không “KHÔNG”, không “CÓ” siêu siêu hết

Chính đấy Như Lai chân Pháp thân.

27. Chân tâm sáng chiếu khắp nơi nơi

Thế giới hằng sa quá tuyệt vời

Vạn pháp muôn trùng tâm hiện rõ

Viên quang diệu thể khó nên lời.

28. Chẳng tin nhân quả, đắm mê không

Phóng đãng nghênh ngang họa vướng vòng

Bỏ “CÓ”, chấp “KHÔNG” bịnh cũng thế

Khác nào tránh nước, lửa thiêu ông.

29. Chân lý giữ, tâm vọng bỏ xa

Tâm thủ xả nầy loại quái ma

Liễu ngộ chẳng thông tu luyện bậy

Bỏ con ôm giặc đừng rên la.

30. Tâm, ý, thức mê vọng ám đi

Mất công đức, đạo lực còn gì

Nên thiền môn dạy thông tâm pháp

Đốn ngộ vô sanh trí diệu vi.

XI. Hành Như Lai sự:

31. Đại trượng phu, thanh kiếm huệ cầm

Tuyệt vời bát nhã ngời chân tâm

Thiên ma khiếp đảm tàn lui bước

Ngoại đạo tỉnh mê bỏ chấp lầm.

32. Pháp âm ngân, sấm pháp rền vang

Cam lộ mưa rơi trong nắng vàng

Vạn loại tam thừa đều giải thoát

Siêu nhân xuất hiện cứu trần gian.

XII. Pháp tánh viên dung:

33. Cỏ phì nhị[2]tuyết sơn tươi xanh

Nơi tạo đề hồ ta biết danh

Một tánh bao hàm tất cả tánh

Viên dung một pháp vạn hình sanh

Ánh trăng chiếu khắp muôn sông nước

Trăng nước muôn sông một ánh trăng

Chư Phật pháp thân tâm liễu nhiếp

Tâm ta, tâm Phật: diệu huyền đăng.

34. Tất cả địa trong một địa thông

Chẳng tâm, chẳng sắc, chẳng tây đông

Sát na diệt nghiệp ba kỳ kiếp[3]

Pháp môn muôn vạn phút giây xong

Văn chương chữ nghĩa toàn không cả

Chẳng dính líu gì giác tánh ông.

35. Chê khen vượt thoát, tâm thường an

Tĩnh lặng hư không thể niết bàn

Viên giác diệu tâm ngay trước mặt

Tìm là không thấy chớ nghênh ngang

Vướng vào thủ xả toàn không được

Không được ấy mà giác đạo quang

Lúc nói im, khi im lại nói

Mở khai thí hội tâm thênh thang.

36. Có người lại hỏi giảng tông gì?

Bát nhã kinh truyền tâm đại bi

Hoặc trái, hoặc sai người chẳng biết

Việc làm thuận nghịch trời hay chi.

XIII. Truyền tâm pháp yếu:

37. Trải qua nhiều kiếp ta chuyên tu

Nào dại bịp người hạnh ngốc ngu

Khai đạo tràng, truyền tâm pháp yếu

Tào khê liễu ngộ Tổ công phu.

38. Ca Diếp truyền tâm vị Tổ đầu

Tây thiên hăm tám Tổ truyền nhau

Khai thiền Đông độ Đạt Ma Tổ

Y bát tâm truyền sáu Tổ sau

Tiếp nối nhiều người tâm Phật chứng

Truyền tâm đốn ngộ: Pháp tu mau.

39. Chân không lập, vọng vốn toàn không

Trút bỏ có không mê chấp thông

Không tưởng đắm say trừ sạch hết

Như Lai thể tánh xưa nay đồng.

40. Tâm thành căn, pháp biến ra trần

Như bụi che gương đều khó phân

Căn cảnh băng tiêu gương bụi sạch

Ngàn đời lưu hộ Như Lai thân.

XIV. Ma chướng thời mạt pháp:

41. Than ôi! Mạt pháp: ác gian thời!

Phước bạc chúng sinh say đắm đời

Cách Phật lâu xa tà kiến nặng

Ma cường pháp nhược oán không vơi

Được nghe đốn ngộ Như Lai giáo

Cuồng hận phá, tan nát tả tơi.

42. Ác do tâm, khổ lụy thân sầu

Chớ oán trời người, không được đâu

Muốn khỏi sa vào vô gián ngục

Như Lai diệu pháp phải qui đầu.

XV. Khí tượng Phật thừa:

43. Thú thường không ở rừng chiên đàn

Sư tử một mình sống dọc ngang

Lãnh chúa sơn lâm uy dũng ngắm

Thú chim trốn đến nơi bình an.

44. Sống cạnh Mẹ đàn sư tử con

Lúc lên ba tuổi hét vang non

Chó rừng, muôn thú run lo sợ

Khi thấy Pháp vương vía chẳng còn.

XVI. Pháp viên đốn:

45. Pháp viên đốn vượt thoát thường tình

Diệt bỏ nghi nan chớ để sinh

Nhân ngã luận bàn xin chẳng dám

Đoạn, thường hố thẳm tránh điêu linh.

46. Thị chẳng thị, phi cũng chẳng phi

Lạc xa ngàn dặm, sai hào li

Thị như Long nữ khắc thành Phật

Thiện Tịnh vì phi đọa A-tỳ.

XVII. Chứng tích cá nhân:

47. Ta nay học vấn đã từ lâu

Kinh luận sớ sao nghiên cứu sâu

Mê đắm văn chương quên nhọc mệt

Biển mò đếm cát ngu như trâu

Đáng nghe quở trách Như Lai mắng

Đếm bảo châu người lợi ích đâu?

Tính lại mới hay công sức phí

Làm phong trần khách nhiều đêm thâu.

48. Hiểu lầm lạc, tánh chấp mê tà

Đốn giáo Như Lai không ngộ ra

Tinh tiến tiểu thừa thiếu huệ lực

Thông minh ngoại đạo trí yêu ma

Vừa ngông ngu, lại vừa thơ dại

Tay chỉ trời khờ khạo tưởng là:

“Tay chính mặt trăng”. Si tối thế!

U mê căn cảnh loạn phong ba.

49. Rời xa các tướng tức Như Lai

Như Quán Thế Âm giác huệ khai

Liễu được, tan vong toàn nghiệp chướng

Bằng không, oan trái vướng lâu dài.

50. Đói gặp tiệc vua không thể ăn

Bịnh xa thầy thuốc bịnh càng tăng

Thiền trong rừng dục thiền kiên cố

Biển lửa sen sinh thân vạn năng

Phạm giới Dũng Thi tâm liễu ngộ

Sớm thành Phật đạo quả cao đăng.

XVIII. Duy Ma sư tử hống:

51. Sư tử rống lên giọng dũng uy

Thương người mê tối lắm ngu si

Chỉ hay phạm trọng[4], chướng thành Phật

Chẳng rõ Như Lai ý diệu vi.

52. Hai vị tỳ kheo phạm sát, dâm

Ba-ly trí cạn tội phân lầm

Duy Ma Đại sĩ trừ nghi hoặc

Tội tiêu, vọng hết, chứng chân tâm.

53. Giải thoát nhiệm mầu sức tuyệt vời

Hằng sa diệu dụng hiện nơi nơi

Cúng dường tứ sự dâng không thiếu

Hiến triệu lượng vàng, hiến trọn đời

Thịt nát xương tan, đền chẳng đủ

Trần gian siêu thoát một câu thôi.

XIX. Pháp vương:

54. Tối thắng Pháp vương: Đức Thế Tôn

Đồng nhau chư Phật chứng tâm môn

Pháp vương tâm ngọc ta minh ngộ

Quên hết trần gian những dại khôn.

55. Liễu thoát thấy: không một vật nào

Không người, không Phật, không trăng sao.

Hằng sa thế giới: bọt trong biển

Tất cả Thánh hiền: điện chớp cao.

56. Giả sử thiết luân quay đỉnh đầu

Viên minh định tuệ mất nào đâu

Mặt trời lạnh, hoặc vừng trăng bừng nóng

Ma quỷ phải hàng Phật đạo mầu

Đường dốc xe voi lên vững mạnh

Cản đường châu chấu chuyện còn lâu.

57. Voi lớn không theo dấu thỏ đi

Ngộ rồi chấp tiểu tiết làm gì

Ếch ngồi đáy giếng chê trời hẹp

Chưa ngộ ta bày chỗ diệu vi.

Phật tử Quảng Minh đánh máy vi tính – 16/12/2013



[1]Mộc nhân: Người bằng gỗ.

[2]Phì nhị: Tương truyền trên tuyết sơn có loại cỏ rất quí tên là phì nhị, bò ăn loại cỏ nầy sinh ra sữa rất quí. Đem sữa ấy nấu và chế biến thành đề hồ, là thức ăn rất bổ dưỡng cho cơ thể.

[3]Ba kỳ kiếp: Gọi đủ là ba A tăng kỳ kiếp, có nghĩa là ba vô số kiếp.

[4]Phạm trọng: Phạm bốn trọng giới: Sát, Đạo, Dâm, Vọng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2010(Xem: 8404)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6874)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6253)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6965)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6692)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8975)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12502)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25230)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 7995)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6625)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567