Thích Thuyền Ấn
Thơ
Thơ tôi nho nhỏ,
Hoa nở ven đồi.
Trăng vàng sáng tỏ,
Sao hiện đầy trời.
Thuyền Ấn
Xuân
Pháo nổ ta nghe lòng nổ vang
Muôn hoa rực rỡ đón Xuân sang
Thu Đông lui gót, Xuân bay đến
Mai nở say sưa tắm nắng vàng.
Thuyền Ấn
Quan Âm Bồ Tát
Lòng mơ nâng đóa sen vàng,
Quan Âm Bồ tát nhẹ nhàng ngự lên.
Không gian bát ngát mông mênh,
Biển khơi Bồ tát lênh đênh thuyền từ,
Cứu người đến bến vô dư,
Viên thành Phật quả chân như tỏa ngời.
Dù cho lửa cháy ngút trời,
Quan Âm vào đấy độ người trầm luân.
Dù cho biển khổ gian truân,
Quan Âm mang nặng lòng nhân cứu đời,
Quan Âm Bồ tát giữ lời nguyện xưa.
Dù cho bão tố đêm mưa,
Quan Âm Bồ tát vẫn chưa lui về.
Dù chìm biển ái sông mê,
Quan Âm vào đấy tìm bề cứu ra.
Dù cho khắp cõi Ta bà,
Điêu linh chìm ngập, hằng sa đọa đày,
Muôn ngàn hệ lụy đắng cay,
Quan Âm từ mẫu cứu ngay an lành.
Dù cho sự nghiệp tan tành,
Xác xơ đói khổ, năm canh ưu sầu,
Quan Âm vận dụng phép mầu,
Dẹp cơn đói khổ, sang giàu có ngay.
Dù cho sóng gió bủa vây,
Biển khơi bão tố Đông Tây hãi hùng,
Từ bi rộng lớn vô cùng,
Quan Âm cứu khổ hết lòng độ ra.
Trần gian dù lắm phong ba,
Chiến tranh bùng nổ can qua ngút trời,
Đó đây bom đạn tơi bời,
Quan Âm hiện đến cứu người khổ đau.
Ai ơi nên nhớ khuyên nhau,
Thành tâm trì niệm nguyện cầu Quan Âm.
Thiết tha kính cẩn nhất tâm,
Tháng năm cầu nguyện Quan Âm cứu đời.
Thuyền Ấn
Ta Bà Khổ
Ta bà khổ, Ta bà đầy khốn khổ
Vô minh trùm phủ nặng kiếp đau thương
Chơi vơi bến mê ngập sóng vô thường
Biển ái mênh mang tràn đầy bão tố
Trần lụy trót vương, vướng ngàn thống khổ
Rối như tơ, tháo gỡ mãi không ra
Càng keo sơn càng cay đắng thiết tha
Trời đất rộng, gông khổ đau kềm hãm!
Mùa Đông lạnh, từng đêm Đông ảm đạm
Nhìn tối tăm, nghe bi đát hoang vu
Bãi tha ma như địa ngục âm u
Hồn ai đó nằm chết trong lòng đất!
Lệ rưng rưng, tâm niệm “Nam mô Phật”
Mong thuyền từ cứu độ vạn sinh linh
Xin đức Thế Tôn rọi ánh quang minh
Mặt trời trí tuệ tỏa lên bừng sáng
Cho kiếp sống thế nhân ngời quang đãng
Vơi vơi đi khắc khoải vạn thương đau.
Thuyền Ấn
Kiếp Người
Thê lương lạnh kiếp luân hồi
Vô minh ngu tối trói người tử sinh
Gian truân đắng kiếp điêu linh
Sắc, tình, danh, lợi: ngục hình đau thương.
Thuyền Ấn
Cuộc Đời
Sắc đẹp, tình yêu, tiền tài, danh vọng
Dựng nên thiên thai hồn mộng tuyệt vời!
Chúng cũng cho người điêu đứng, tả tơi,
Chua xót, đắng cay, đọa đày, khổ lụy!
Thuyền Ấn
Ảo Mộng
Ảo mộng sắc không khuấy kiếp người
Hiển vinh phú quí Xuân hồng tươi
Giai nhân tuyệt sắc xinh như ngọc
Tắt thở tan vong hoa hết cười.
Thuyền Ấn
Vất Bỏ
Bả lợi danh điêu linh anh thế ấy
Mộng bá vương đày hùng kiệt tháng năm
Vất tất cả siêu thoát ngắm trăng rằm
Kiếp phù sinh tang thương, ngu, điên, dại.
Thuyền Ấn
Thức Tỉnh
Thức tỉnh lại, anh ơi dừng hẳn lại!
Khanh tướng chi? Tình ái lệ đầy vơi!
Vương bá công hầu bẫy lụy kiếp người
Buông bỏ hết đời anh ngời siêu thoát.
Thuyền Ấn
Kiếp Phù Sinh
Đống xương khô lạnh nằm trong đất
Kiếp phù sinh là giấc mộng sầu!
Oai như vương bá công hầu,
Chết rồi danh lợi còn đâu theo mình.
Thuyền Ấn
Phật Tánh
Phật tánh tuyệt vời trong ta sẵn có
Mê quên đi, phiêu bạt kiếp luân hồi
Bả lợi danh đày đọa khổ không thôi
Tỉnh ngộ lại ngay đây bờ giải thoát.
Thuyền Ấn
Khổ Đế
Từng tinh tú giống như từng giọt nước,
Trôi lênh đênh khắp biển rộng hư không.
Nào ai ngờ trong vũ trụ mênh mông,
Từng ngôi sao nổ tan chưa từng biết.
Từng kiếp người xuôi tay thầm lặng chết!
Từng đế vương oanh liệt nay còn đâu?
Từng độ thịnh suy “bãi bể nương dâu”
Từng triều đại vàng son điêu tàn đổ
Từng dịp biến thiên quả đất bùng nổ
Từng nền văn minh băng hoại tiêu tan
Từng trận chiến tranh lớn nhất thế gian
Từng lớp xương khô phơi đầy mặt đất.
Từng căm hờn sôi bùng lên uất uất
Từng nghìn năm buồn căm lặng trôi qua
Từng bông hoa rã cánh dưới trăng tà
Từng tuyệt thế giai nhân nằm tắt thở
Từng tỷ phú gia tài đùng tan vỡ
Từng núi vàng nối gót bỏ ra đi
Từng mối tình đầu thắm thiết mê ly
Từng túp lều tranh thơm bốc lửa cháy
Từng nức nở đêm trường không che đậy
Từng đau thương chua xót lúc chia phôi
Từng ca nhi lẻ bóng khóc đơn côi
Từng chiến hạm bắn nhau chìm đáy bể
Từng thắng bại ngập toàn bằng máu lệ
Từng vinh quang chuốc lấy vạn hận thù
Từng hiển hách mua oán vọng thiên thu
Từng xác chết nằm đơn côi quạnh quẽ
Từng anh hùng vung gươm thiêng cái thế
Từng vạn năng gây sông máu núi xương.
Xin các lãnh tụ các cường quốc xót thương
Cho nhân loại được tự do hạnh phúc
Cả thế giới thôi gông cùm tù ngục
Khắp hoàn cầu chấm dứt mọi chiến tranh
Để nhân loại sống thực sự an lành.
Chiều nay lạnh lòng nghe đau từng đoạn
Nhìn nghĩa trang lặng buồn trong gió thoảng
Ngàn muôn năm mây trắng vẫn còn bay.
Thuyền Ấn
Chơi Vơi
Người ta trong cuộc đời
Bọt nước trên biển khơi
Lênh đênh hằng sa kiếp
Trăng buồn trôi chơi vơi.
Đông về hoa tuyết rơi
Nghe gió buốt khắp nơi
Không gian chìm hoang vắng
Chim ngại bay lưng trời.
Luân hồi khổ rã rời
Thêm bom đạn tơi bời
Điêu linh và chết chóc
Xương trắng đó đây rơi.
Chua xót khó nên lời
Đời khổ lắm ai ơi
Cầu xin Phật cứu độ
Quan Âm hiện tuyệt vời.
Thuyền Ấn
Ngân Vọng
Chuông chùa ngân vọng không gian
Hồn nghe lắng dịu muôn ngàn đau thương
Thế gian vạn kiếp tơ vương
Trang nghiêm cảnh Phật ngát hương thoát trần.
Thuyền Ấn
Hạt Bụi
Đem gói trọn cả ba ngàn thế giới
Bỏ gọn vào trong hạt bụi huyền
Cầm núi Tu-di đập nát A-tỳ
Gửi hết chúng sinh lên thiên đường ở.
Thuyền Ấn
Bình Minh Dậy
Một sáng tinh sương trời vắng mây
Nhẹ nhàng trăng ngủ Trường sơn tây
Rạng Đông ưu ái bình minh dậy
Đêm tối tan rồi không có đây.
Thuyền Ấn
Ta Nghe
Ta nghe hồn vỡ làm đôi,
Trăng vàng trắc ẩn bồi hồi trên không.
Ta nghe nức nở trong lòng,
Trăng vàng trầm lặng cảm thông nhiệm mầu.
Ta nghe hồn chết đêm thâu,
Trăng vàng tha thiết nguyện cầu cho ta.
Thuyền Ấn
Trăng Vàng
Trăng vàng rụng xuống suối mơ,
Hai con hạc trắng ngẩn ngơ lưng trời,
Trăng vàng nũng nịu tuyệt vời,
Hai con hạc trắng chẳng rời bồng lai.
Thuyền Ấn
Lung Linh
Suối mơ bóng nguyệt lung linh
Hồn còn mang nặng ân tình Như Lai
Trả lui giấc mộng thiên thai
Cho con hạc trắng bồng lai bay về.
Thuyền Ấn
Ngắm Trăng
Trời xuống trần gian du ngoạn chơi
Gặp anh hàn sĩ ngắm trăng cười
Hỏi rằng anh khổ hay hoan lạc?
Anh vẫn nhìn trăng rất thảnh thơi.
Anh già hay trẻ nói ta nghe
Ta sẽ vì anh mà chở che
Nói thẳng với ta điều ước nguyện
Mau lên kẻo muộn, để ta về.
Nhìn trời hàn sĩ mắt như sao
Thăm thẳm suy tư ngoảnh lại chào
Tôi kẻ hàn sinh tìm sức sống
Từ mười bảy tuổi đã gian lao.
Kẻ ác hại tôi, phá phách tôi
Không cho tôi tiến tự lâu rồi
Chẳng nề gian khổ tôi vùng dậy
Ước nguyện vun bồi đạo pháp thôi.
Kẻ ác lưu manh lại rất hăng
Phá tôi, tôi lặng như trăng rằm
Trời cao vươn dậy lòng soi sáng
Bền chí sách đèn qua tháng năm.
Từ tuổi thơ ngây khi Mẹ tôi
Chia tay vĩnh biệt có trao lời:
“Con kiên chí học cho thành đạt,
Hoằng đạo lan truyền khắp mọi nơi.”
Ghi tạc vào tim ý Mẹ hiền
Đạp lên gian khổ, dẹp oan khiên
Nếm bao cay đắng và đen bạc
Vùng dậy mỉm cười say bút nghiên.
Trăng ngắm nhìn tôi, tôi ngắm trăng
Đêm nay trời sáng ánh trăng rằm
Đạo mầu Phật Tổ truyền lan mãi
Là nguyện lòng tôi qua tháng năm.
Thuyền Ấn
Đố Ai
Đố ai liễu thoát tử sinh,
Tôi xin trao trọng tâm tình chân như.
Đố ai không vướng ưu tư,
Tôi xin dắt đến vô dư Niết bàn.
Đối ai sạch nghiệp trần gian,
Tôi đưa về chốn lạc bang liên trì.
Đố ai chứng pháp vô vi,
Tôi xin đốt nát A tỳ ngay cho.
Đối ai quên hẳn âu lo,
Tôi ban hạnh phúc ấm no suốt đời.
Đối ai trọn kiếp vui cười,
Tôi cho lên sống trên trời với tiên.
Đối ai trút hết lụy phiền,
Tôi xin giải thoát oan khiên bây giờ.
Đối ai lòng chẳng vương tơ,
Tôi mời trăng xuống tặng thơ tuyệt vời.
Đố ai phát nguyện cứu đời,
Tôi xin bái phục dâng lời tán dương.
Đố ai rủ bỏ ghét thương,
Tôi tôn người ấy: Thánh vương thoát trần.
Đối ai dứt tuyệt tham sân,
Tôi xem là bực vĩ nhận đại hùng.
Đối ai thấy Phật trong lòng,
Tôi xin truyền ý dung thông nhiệm mầu.
Đối ai ngộ đạo thâm sâu,
Tôi xin hỏi thử rằng đâu bồ đề?
Đố ai diệt trọn si mê,
Tôi xin chỉ rõ nẻo về chân tâm.
Thuyền Ấn
Người Và Tôi
Người sờ soạng với lợi danh hư huyễn,
Tôi lắng sâu vào thế giới tâm linh.
Người chìm đắm trong dục vọng muôn hình,
Tôi phiêu du khắp chân trời giải thoát.
Người đa mang tham sân si đọa lạc,
Tôi luyện lòng bằng trí tuệ từ bi.
Người ngựa xe vàng ngọc chẳng thiếu gì,
Tôi lánh xa chốn hồng trần huyên náo.
Người những tưởng công khanh là phước báo,
Tôi thấy rằng vương bá chính oan khiên.
Người mơ chiếm cả thế giới đảo điên,
Tôi buông bỏ trọn trần gian hệ lụy.
Người nhiệt cuồng mê vinh hoa phú quí,
Tôi đắm hồn say thế giới Phật tâm.
Người lao mình vào tội ác sai lầm,
Tôi ngày đêm tinh tu theo pháp Phật.
Thế Tôn xưa bỏ ngai vàng, điện ngọc,
Xa vợ con, vất phú quí trần gian,
Cầm bình bát sống giải thoát tâm an,
Quyết tìm phương cứu chúng sinh hết khổ.
Hằng sa đau thương từ bi nguyện độ,
Trầm luân vùi ngợp điêu đứng đắng cay.
Lục đạo nổi chìm phiêu bạt đó đây,
Đức Mâu Ni vì chúng sinh cứu thoát,
Vào rừng sâu đạo mầu quyết thông đạt,
Đêm đêm về trầm lặng với trăng sao,
Đạo bồ đề Ngài năm tháng khát khao,
Tìm cho ra, cứu nguy Ta bà khổ.
Đêm thành đạo lúc sao mai lộ,
Đức Thế Tôn chứng Vô thượng bồ đề.
Cứu chúng sinh thoát bể khổ sông mê
Tắm Niết bàn reo vui bờ giác ngộ.
Người và tôi cùng xin Phật cứu độ,
Người và tôi cúi đầu lễ Như Lai,
Người và tôi tu giải thoát trần ai.
Thuyền Ấn
Huyền Trang Đại Sĩ
Không, nhất quyết phải đi
Vương pháp? Chết ngại gì [1]
Đạo mầu đang mờ thế,
Yên sống để mà chi?
Ngựa ơi! Dũng tiến ta cùng ngươi,
Dưới ánh bình minh rực chiếu ngời,
Ta ước làm sao truyền đạo cả,
Lan tràn bừng chói đến muôn đời.
Trập trùng núi biếc ngựa người đi,
Vượt ải băng sông ai dám bì?
Ngày ẩn đêm đi ôm chí cả,
Hiên ngang lặng tắm nắng Gô-bi.[2]
Dũng mãnh vượt qua bao dặm đường,
Hy-ma[3]hùng vĩ thẹn che sương,
Đến đây lòng đã lâng lâng nhẹ
Bão cát còn đâu nỗi đoạn trường.
Lan-đà[4]truy ngộ thực kỳ duyên,
Học đạo nơi đây với Giới Hiền,
Diệu pháp sau khi đã thấu triệt,
Từng phen chấn động cả Tây thiên.[5]
Quê cũ về đây bủa đạo vàng,
Vua Đường nghinh tiếp điện Nghi Loan,[6]
Pháp mầu thỉnh vấn, oai hùng đáp,
Làm thỏa người nghe tợ tiếng đàn.
Tiếng đàn diệu pháp trỗi ngân vang,
Chỉ nẻo người đi đến Niết bàn,
Giục trống, thượng cao cờ chánh pháp,
Hoa đàm hương vị hẳn chưa tan.
Gian truân hề! Sá chi.
Vinh quang hề! Kể gì.
Lớn lao hề! Chí cả.
Bao la hề! Từ bi.
Thuyền Ấn
[1]Trước khi lên đường Tây du, Huyền Trang pháp sưbịvua hạchiếu cấm ngăn. Nhưng nặng lòng với việc phục hưng chánh pháp, Ngài vẫn quảquyết lên đường, không ngại ngùng tai biến.
[2]Gô-bi (Gobi): Tên của bãi sa mạc nằm khoảng giữa Mông Cổvà Tây Tạng. Nắng nơi đây và cát chốn này, đã vùi chôn biết bao du khách thương gia.
[3]Hy-ma (Himalaya): Hy Mã Lạp Sơn, tên một dãy núi ởchâu Á, phân chia tiểu lục địa Ấn Độkhỏi cao nguyên Tây Tạng.
[4]Lan-đà (Nalanda): Na-lan-đà, tên của một Đại tùng lâm lớn nhất ởẤn Độ. Huyền Trang học đạo nơi đây.
[5]Tây thiên: Tên gọi xứẤn Độ.
[6]Khi Huyền Trang pháp sưvừa vềnước, vua Đường Thái Tông nghinh tiếp Ngài tại điện Nghi Loan, đểthỉnh vấn vềđạo pháp.