Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03_"Tuệ Sỹ Đạo Sư" và Các Phương Trời Viễn Mộng

31/05/201211:49(Xem: 20917)
03_"Tuệ Sỹ Đạo Sư" và Các Phương Trời Viễn Mộng

 On Tue Sy-4


'Tuệ Sỹ Đạo Sư’ và

Các Phương Trời Viễn Mộng

Nguyên Giác Phan Tấn Hải

Đó là một cuốn sách sẽ còn được nhớ tới nhiều thập niên sau. Trong đó, nhiều bài văn, bài thơ vẫn sẽ còn được trích dẫn ngay cả nhiều thế kỷ sau. Để ghi lại một thời hậu thống nhất đầy máu lửa kinh hòang của dân tộc Việt Nam, bằng các dòng văn và dòng thơ của một thiền sư không chịu khuất phục trứơc cường quyền - bằng chính tâm hồn cực kỳ thơ mộng của Thượng Tọa Tuệ Sỹ, một thiên tài thi ca và học thuật của Phật Giáo Việt Nam.

Tuyển tập 'Tuệ Sỹ Đạo Sư' biên tập bởi Thựơng Tọa Nguyên Siêu, được in và phát hành bởi Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang, sẽ ra mắt tại hải ngọai vào tuần này, những ngày giữa tháng 4-2006, giữa lúc vị thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ vẫn còn bị quản thúc tại quê nhà.


Thực sự, Thầy Tuệ Sỹ không phải là một thi sĩ theo nghĩa đời thường. Hãy đọc lại bài thơ "Cúng Dường" của Thầy:


Phụng thử ngục tù phạn

Cúng dường Tối Thắng Tôn

Thế gian trường huyết hận

Bỉnh bát lệ vô ngôn.


Đây thực sự không phải là thơ. Các dòng chữ trên đã vượt qua những gì ngôn ngữ loài người có thể chuyên chở. Đó chính là hoa từ cõi trời thả mưa vào ngục tối, để một nhà sư nhặt chữ lên và cúng dường Phật. Đó không phải là chữ, mà chính là nứơc mắt, là nỗi đau đớn của cơ thể khi cầm chén cơm lên và là nỗi thương xót khi thấy thế gian đầy máu hận, và rồi vị sư này thốt lời cảm ân đức của Đấng Thế Tôn… Bài thơ Cúng Dường chữ Hán này mang sức mạnh bất tử của các dòng kệ trong những nghi thức tụng kinh.


Bản dịch:


Đây bát cơm tù con kính dâng

Cúng dường Đức Phật đấng Tôn Thân

Thế gian chìm đắm trong máu lửa

Lệ nhỏ không lời, lòng xót thương.


(Tuệ Sỹ Đạo Sư, trang 91)


Thầy Tuệ Sỹ vừa tròn sinh nhật thứ 63 trong những ngày đầu tháng 4-2006. Nhưng những gì mà đời người hữu hạn, Thầy đã cầm bút lên và đã trở thành vô hạn. Những phương trời mộng vô hạn đó, không một song sắt nhà tù nào giữ nổi. Các cõi thơ vô hạn đó, không một kềm tỏa nào làm thế tục hóa nổi.


Điều nổi bật trong 346 trang của "Tuệ Sỹ Đạo Sư" hiển lộ rõ là không có một chút giận dữ, căm thù nào vương vấn trong ngòi bút của Thầy Tuệ Sỹ. Ngay cả khi dặn dò cho thế hệ đi sau, lời của Thầy Tuệ Sỹ cũng vượt hẳn những tranh chấp thế gian, dù rằng Thầy vẫn còn đang trong vòng lao lý thế gian, để gìn giữ một hướng đi xuất thế gian. Bài "Thư Gửi Các Tăng Sinh Thừa Thiên, Huế" (trang 154) viết ngày 28-10-2003, Thầy Tuệ Sỹ gửi từ Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn, đã viết:


"
Các con thương quý,



Thế hệ của thầy, những thanh niên trang lứa được nuôi dưỡng để dựa vào chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ, được giáo dục để biết hận thù giai cấp. Nhưng may thay, giòng suối Từ vẫn âm thầm tuôn chảy, để xoa dịu những đau thương mất mát; để hàn gắn những đổ vỡ điêu tàn của dân tộc. Các con lớn lên trong thời đại thanh bình, nhưng các con lại bị ném vào giữa một xã hội mất hướng. Quê hương và đạo pháp là những mỹ từ thân thương nhưng đã trở thành sáo rỗng. Các bậc cao tăng thạc đức, một thời đã đánh thức lương tâm nhân loại trước cuộc chiến hung tiền, đã giữ vững con thuyền đạo pháp trong lòng dân tộc; nay chỉ còn lại bóng mờ, và quên lãng.

Thế hệ các con được giáo dục để quên đi quá khứ. Nhiều người trong các con không biết đến Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất là gì; đã làm gì và cống hiến những gì cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục, hòa bình dân tộc, trong những giai đoạn hiểm nghèo của lịch sử dân tộc và đạo pháp của đất nước. Một quá khứ chỉ mới như ngày hôm qua mà di sản vẫn còn đó nhưng đã bị chối bỏ một cách vội vàng….

Người xuất gia, khi cất bước ra đi, là hướng đến phương trời cao rộng; tâm tính và hình hài không theo thế tục, không buông mình chìu theo một giá trị hư dối của thế gian, không cúi đầu khuất phục trước mọi cường quyền bạo lực. Một chút phù danh, một chút thế lợi, một chút an nhàn tự tại; đấy chỉ là những giá trị nhỏ bé, tầm thường và giả ngụy, mà ngay có người đời nhiều kẻ còn vất bỏ không tiếc nuối để giữ tròn danh tiết. Chớ khoa trương bảo vệ Chánh pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma vương, là nơi tụ hội của cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức. Xưa kia, khi vua chúa bắt sư tăng cúi đầu nhận tước lộc của triều đình để làm tôi tớ cho vương hầu, chư Tổ đã sẵn sàng đặt đầu mình trước gươm bén, giữ vững khí tiết của người xuất gia, bước theo dấu chân vô úy, vô cầu, của các bậc Thánh Để tử, được gói gọn trong thanh quy: Sa môn bất kính vương giả.

Nhận nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong dòng xoáy ô trược của thế gian. Các con hãy tự rèn luyện cho mình một tín tâm bất hoại ; một đức tính dũng mãnh vô úy ; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng văn, tư, tu để nhìn rõ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rõ mình đang ở đâu, đang đi về đâu; không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong, đang lao xuống dốc dài không định hướng.

Mỗi thế hệ có vấn đề riêng của nó, do những biến thiên của xã hội chung quanh, do những biến cố dao động mang tính thời đại. Thế hệ của thầy thừa hưởng được nhiều từ Thầy Tổ, nhưng chưa hề báo đáp ân đức giáo dưỡng cao dày trong muôn một. Chỉ mới tròn ba mươi tuổi, đã phải khép lại cổng chùa, xách cuốc lên rừng, xuống biển, cũng mưu sinh lao nhọc như mọi người. Rồi lại vào tù, ra khám, lênh đênh theo vận nước thăng trầm. Sở học và sở tri cũng cùn mòn theo tuổi đời, năm tháng. Duy, chưa có điều gì thất tiết để điếm nhục tông môn, uổng công Sư trưởng tài bồi. Một chút niềm tin chưa hề thoái thất, chỉ mong cùng chia xẻ với thế hệ kế thừa. Một thế hệ đang trưởng thành để khởi tô ngọn đèn Chánh pháp giữa một đất nước thấm nhuần phong hóa…"


Bức thư trên ngay lập tức đã mang tính bất tử, dù bị nhà nứơc CSVN ngăn cấm nhưng đã được lưu giữ và phổ biến rộng rãi trong giới Tăng Ni Phật Tử. Không một cuốn sách nào trong nứơc in lại lá thư gửi các tăng sinh trẻ đó, nhưng âm vang của các dòng chữ đã in sâu vào tâm của bất kỳ Phật Tử nào một lần được nghe qua. Đó là sức mạnh của chân lý, của Phật Pháp. Thầy Tuệ Sỹ, người một thời mang án tử hình, đã và đang khắc chữ vào dòng lịch sử dân tộc và Phật Giáo bằng chính cuộc đời Thầy. Từng việc làm, từng lời nói, từng dòng chữ của Thầy đều không hề xa lìa hạnh Bồ Tát.


Thiên tài thi sĩ triết gia Phạm Công Thiện năm 1994 đã viết về Thầy Tuệ Sỹ trong bài nhan đề "Kỷ Niệm 50 Năm Sinh Nhật Tuệ Sỹ -- Buổi Chiều Nắng Hạ Đọc Thơ Tuệ Sỹ," trích như sau:


"… vừa là thi sĩ vừa là thiền sư đạo sĩ vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần "vô công dụng hạnh" của bậc Bồ Tát, hành động tích cực mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng. Vì không tham vọng ích kỷ mù quáng cho nên mới nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham, sân và si của thế tục cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng."


(Tuệ Sỹ Đạo Sư, trang 120)


Thầy Thích Nguyên Siêu trong bài viết "Thượng Tọa Tuệ Sỹ, Trí Siêu Những Thiên Tài Lỗi Lạc" - bài này lưu ở web www.quangduc.com -- từ nhiều năm trứơc đã ghi nhận về Thầy Tuệ Sỹ như sau:


"…Là vị giáo sư gương mẫu, nồng cốt của Đại học Vạn Hạnh, mà cứ mỗi lần gặp nhau thăm hỏi, những người đồng nghiệp đều gọi Thầy là "chú Sỹ" vì Thầy còn quá trẻ.

Thầy phụ trách dạy tại Đại học Vạn Hạnh chương trình Triết học Tây phương, văn học Đông Phương, luận đề Phật giáo: triết học Tánh Không, Trung Quán luận, A Tỳ Đạt Ma, đại cương Thiền Quán.... Mặc dầu ở vào lứa tuổi đôi mươi, nhưng Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền văn hóa, giáo dục của nước nhà và Thầy đã xuất sắc hơn trong lãnh vực ngôn ngữ: sinh ngữ và cổ ngữ. Thầy tự học, rèn luyện lấy chính mình vì vậy mọi người ai cũng kính mến, thán phục và có nhiều bạn vong niên dưới mái trường Đại học Vạn Hạnh…

… Vì tất cả các tác phẩm trước tác, dịch thuật của chư Tổ, như là sách gối đầu giường của Thầy, còn Tam Tạng kinh điển, bộ Đại Tạng, chẳng bộ nào mà Thầy không dở đọc. Người viết đã học với Thầy, sau đó cùng Thầy làm việc dịch thuật Trung A Hàm, Kinh Pháp Cú, tuyển tập Nikàya A Hàm.... qua những năm 75-77 tại Viện Cao Đẳng Hải Đức Nha Trang và 80-84 tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam cũng là nơi thư viện Vạn Hạnh (Võ Di Nguy, Phú Nhuận) mới thấy được khả năng, trí nhớ trác tuyệt của Thầy. Kinh, luật, luận, Tam Tạng giáo điển, hầu như Thầy nằm lòng tự kiếp nào. Có lẽ trong lòng sinh tử vô tận, đã có bao đời Thầy đã là Thiền sư, Pháp sư, Luận sư, cho nên mỗi khi hỏi đến những pháp số, ý kinh, nghĩa luận trong Đại Tạng, Thầy đều dở đúng số trang, số quyển, số dòng. Phải làm việc chung với Thầy mới biết được tính cần mẫn, ý chí kiên quyết, tự lập để xây dựng cho chính mình của Thầy.

Hầu như bất cứ thời điểm nào Thầy cũng học, cũng nghiên cứu, cũng nghiền ngẫm, cũng đọc kinh điển, thi văn, kinh thi, kinh dịch, triết lý, thi ca; cũng tự học âm nhạc: dương cầm, vĩ cầm; cũng tự tập viết chữ Nho: chữ Thảo của Vương Hy Chi ; đọc thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha.... Thầy sống thanh bạch, đơn sơ, đêm ngày miệt mài, trầm mình trong thế giới tâm linh, tư tưởng, triết học, thi ca, ngôn ngữ, nên không còn thời giờ nghĩ đến cách ăn mặc, bề ngoài như kẻ khác. Do vậy, trên người của Thầy, luôn luôn với bộ áo nhật bình 4 vạt úa mầu với thời gian, dài tới dưới đầu gối, khi dạy học cũng như lúc ra ngoài. Dáng người tuy nhỏ nhắn, nhưng khối óc thì vĩ đại, thông minh thiên phú…

…Trước ngày 30/4/1975, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã rút lui, bỏ ngõ trên các tuyến đường quốc lộ I, chẳng có ai kiểm soát, thành phố Nha Trang bỏ trống, các phi đội, khu trục Không quân ở phi trường Nha Trang được lệnh bay vào phi trường Phan Rang để từ đó mang bom ra dội Cầu Xóm Bóng, cắt đứt đường tiến quân của Bắc Việt. Thì lại một lần nữa Thầy và anh em học Tăng làm nghề cứu thương, xuống bệnh viện toàn khoa Nha Trang, những bệnh nhân nào hơi khỏe mạnh, hay đi đứng được thì đã di tản, còn lại những bệnh nhân nặng thì vẫn nằm đó, vì lúc đó không còn bác sĩ, y tá trực nữa, mạnh ai nấy lo liệu, bệnh viện, trường ốc, cư xá, chợ búa như nhà không chủ. Trong cảnh nước mất nhà tan này, Thầy lại lăn xả vào vùng lửa đạn để cứu giúp đồng bào, an ủi bệnh nhân, thương binh, trẻ mồ côi lạc mất gia đình cha mẹ, để bồi đắp tình thương trong cuộc đời khổ lụy này.

Trước tình thế mới đầy rối ren, khủng hoảng, chưa biết phải xử trí như thế nào, ngay tối hôm đó, anh em học Tăng gặp Thầy tại thư viện, quây quần bên nhau, mong tìm phương pháp giải quyết, có anh em đề nghị Thầy nên di tản, chúng ta không thể ở lại viện được nữa. Khi ấy, anh em cứ ngỡ là Thầy sẽ đồng ý, chấp nhận cho anh em tự do đi, hay là đi cùng đi tập thể, nào ngờ Thầy nhìn tất cả anh em, rồi nói bằng giọng cương quyết: "Tôi vẫn còn đây, thì anh em cũng phải ở đây, quê hương và đất nước này còn cần đến anh em nhiều hơn nữa. Chúng ta không thể trốn chạy khi dân tộc, đạo pháp đang gặp cảnh điêu linh". Qua lời nói khẳng khái đó, ai nấy đều nhìn nhau mà bàng hoàng. Trong cái bàng hoàng thầm kính phục tấm lòng sắc son, hy sinh đời mình để chia xẻ nỗi tang thương vận nước. Một con tim nóng hổi đang ấp ủ, che chở hàng triệu con tim đang thiếu máu.

Đây là thời điểm đánh dấu sự quyết định dứt khoát của Thầy là phải ở lại trên mảnh đất quê hương này. Dân tộc, đạo pháp còn cần sự có mặt của Thầy. Ngày nào dân tộc còn lầm than, quê hương còn khốn khổ thì ngày đó còn có những đôi tay, khối óc như Thầy để cày xới, gieo rắc hạt mầm yêu thương, để vơi đi sự thù hận, để thấy trên quê hương còn có những bông hoa tươi thắm tô điểm, thêm hương, khởi sắc giữa cánh đồng hoang, lau sậy gầy guộc. Thầy là hiện thân của đóa hoa tình thương nguyện ở lại để thọ nhận thương đau cùng với cái thương đau của dân tộc, nguyện dấn thân vào nơi khốn cùng, của cơn phong ba bão tố để đưa con thuyền đạo pháp đến bến bờ bình yên. Sự ở lại của Thầy mang nhiều ý nghĩa của một tâm hồn đạo sĩ, thi sĩ, văn nhân, và tự tình con dân nước Việt. Là mấu chốt, là yếu điểm vàng son của chặng đường lịch sử dân tộc và đạo pháp. Thầy ở lại vì còn hàng triệu người ở lại…"


Đó là hạnh nguyện của bậc Bồ Tát: bước vào địa ngục với chúng sinh…


Nhạc sỹ Hoàng Quốc Bảo trong bài viết "Đêm Sâu Tuệ Sỹ" sau khi về Việt Nam tham vấn Thầy Tuệ Sỹ nhiều năm trứơc đã viết về Thầy:


"…Hóa cho nên cái Bi của bậc đại Từ rộng lớn trùm khắp thiên hạ, tùy thuận vào cái đau chung của thiên hạ, vẫn đau đáu, mà vẫn vô chấp, vô trước. Trí huệ sâu rộng như biển, nên dưới lớp sóng gió loạn cuồng kia, nước vẫn thanh tịnh thể tính. Vẫn vô quái ngại, viễn ly điên đảo mộng tưởng. Thật như thế nên nhiều học Tăng để sống còn, tránh né được sự dần sàng của chế độ, đã chẳng thốt nên thành lời ví cái ông thầy tu gầy ốm yếu nọ không biết sợ quỷ thần, là Kim cang bất hoại rồi... đấy sao."
(Tuệ Sỹ Đạo Sư, trang 269)

Bây giờ thì nhạc sỹ Hoàng Quốc Bảo đã rời bỏ luôn miền quan ngoại, đầu năm 2006 đã từ Mỹ về Lâm Đồng xuất gia làm một nhà sư trong dòng Thiền Trúc Lâm. Có phải cũng là "tùy thuận vào cái đau chung của thiên hạ" chăng?


Ân đức của Thầy Tuệ Sỹ đã tưới nhuần các tâm hồn nghệ sỹ như thế. Và sau này, nhạc sỹ Trần Quan Long cũng đã phổ thơ của Thầy thành các đĩa CD Tuệ Ca, trong đó người viết nhiều bài thơ cúng dường Thầy là nhà thơ Diệu Trân.


Riêng bản thân ngừơi viết bài này, tuy chưa từng gặp mặt nhưng trong lòng lúc nào cũng nhìn Thượng Tọa Tuệ Sỹ như một vị Thầy của mình từ nhiều kiếp lâu xa. Một lần, được một cư sĩ từ Na Uy giới thiệu vào học lớp Duy Thức Học do Thầy Tuệ Sỹ giảng cho giới cư sĩ trên PalTalk. Khóa học không kéo dài vì hòan cảnh, nhưng các bài giảng còn lưu ở mạng http://phatviet.com/ vẫn là một kỷ niệm lớn. Đó là một hình ảnh cảm động: người xa từ hải ngọai, nơi tự do không chi kềm tỏa, ngồi bên máy vi tính lắng nghe một vị sư từ giữa vòng vây công an giảng dạy Phật Pháp. Một chữ cũng là Thầy, nửa chữ cũng là Thầy; huống gì là các bài giảng Duy Thức cực kỳ vi diệu. Tuy người viết chưa đủ cơ duyên để học đầy đủ về bộ Thành Duy Thức Luận, nhưng lòng cực kỳ vui mừng vì kiếp này đã gieo được duyên lành cùng một vị Đạo Sư, một bậc Đại Thiện Tri Thức -- Ngừơi không hề rời bỏ địa ngục, khi còn một chúng sinh nơi đó.


Nơi đây, xin chép lại vài dòng kinh để cúng dừơng Thầy Tuệ Sỹ và khắp pháp giới chúng sinh:


"Trí bất đắc hữu vô

Nhi hưng đại bi tâm…"


Và trong cõi đó, có những vị đã bứơc vào cuộc đời ngũ trược ác thế không phải vì nghiệp, mà vì tâm nguyện không lìa bỏ chúng sinh. Nơi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một trong các vị Bồ Tát như thế. Người như thế, việc như thế, hạnh như thế.


Nguyên Giác Phan Tấn Hải


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/03/2018(Xem: 7036)
Hôm nay đã hiểu vì đâu Chẳng còn rơi rớt giọt sầu tả tơi Màng chi cay đắng cuộc đời Dao bén không dễ cắt rời tim gan ?! Tỉnh thức nào có trễ tràng Hoà đồng thân ái muôn vàn yêu thương Triệt tiêu ý nghĩ chán chường Nhũ lòng bình thản chớ vương "bụi mờ"
01/03/2018(Xem: 13523)
Cảm ơn Bác Minh Đạo và Thi Hữu Tánh Thiện đã gởi lời chia sẽ và Chúc lành. Chúc Hiền cảm động cảm tác bài thơ nhỏ kính gởi tặng Bác và Thi Hữu Tánh Thiện và tỏ lòng tri ân đến TT. Thích Nguyên Tạng và ĐĐ. Thích Hạnh Tuệ đã hoan hỷ cho online những cảm tác của CH, Bác Minh Đạo và Thi Hữu Tánh Thiện để chia sẽ cùng bạn đọc bốn phương.Cầu Phật gia hộ cho TT. Thích Nguyên Tạng, ĐĐ. Thích Hạnh Tuệ, Bác Minh Đạo , Thi Hữu Tánh Thiện và bạn đọc bốn phuong thân lạc tâm an luôn vui khoẻ! Năm ngoái nhân chuyến ủy lạo cứu trợ Vạn Giã, Nha Trang Chúc Hiền có duyên lành được gặp TT. Thích Nguyên Tạng. Trước khi Thượng Toạ rời Việt Nam để về lại Úc Thượng Toạ có gởi cho Chúc Hiền tin nhắn Chúc lành và Thượng Toạ có nhã ý bảo Chúc Hiền gởi những cảm tác về Trang Nhà Quảng Đức để Thượng Toạ cho online. Đáp lại tấm thịnh tình của Thượng Toạ, sau khi cảm tác 8 bài thơ Hoài Cảm, Chúc Hiền có gởi về Trang Nhà Quảng Đức ngay. Nhung không biết Thượng Toạ có nhận được không mà không thấy online. Chúc Hiền t
01/03/2018(Xem: 14511)
Từ lâu Kinh Phật dạy rồi: "Những điều chứa ẩn ở nơi Tâm người Luôn luôn biểu lộ ra ngoài: Tâm như họa sĩ đại tài khéo tay Vẽ muôn hình tượng giống thay, Chúng sanh nên gắng tu ngay Tâm mình!".
01/03/2018(Xem: 12234)
- "Động Cửa Thiền" (ĐCT) là truyện ngắn đắc ý nhất của Tâm Không Vĩnh Hữu (TKVH), đã được rất nhiều trang web đăng tải, được người khác chuyển thể thành thơ lục bát, được vài tổ chức phi chính phủ đưa vào audio "đọc truyện", được đến 2 nhóm điện ảnh tự ý chuyển thể kịch bản phim để tham dự Liên hoan Phim Ngắn Quốc Tế, và cũng được nhiều tác "giả" tự tiện cải tên đổi hiệu lấy làm sáng tác của chính mình...
28/02/2018(Xem: 9251)
Đầu xuân nhận được cuốn Tập san Cách nửa địa cầu thật ngút ngàn, Trình bày nội dung cùng hình thức, Vô cùng tuyệt hảo cách trang hoàng...
28/02/2018(Xem: 7648)
CỬA THIỀN Cửa Thiền lắm cửa vào ra Tâm an: thấy Phật Tâm ma: thấy Người Tâm vui: chộp bắt nụ cười Tâm sân: nghe tiếng chửi Đời sau lưng Cửa Thiền có cổng kín bưng Không vào được cũng đã từng vào trong Cửa Thiền cửa có cửa không An nhiên đóng mở bằng Tâm chính mình. Tâm Không Vĩnh Hữu
28/02/2018(Xem: 7525)
An Lạc Hạnh Sống an hưởng lạc đời người Đó nguồn hạnh phúc ngự nơi cõi lòng Khi mà muốn được thong dong Giới hạnh đạo đức song song giữ gìn Niềm vui tạo ở nơi mình Hằng ngày giữ lễ như in thoát phiền Bình an vẹn tánh hồn nhiên Kính trên nhường dưới câu hiền chớ vơi Thế gian mười khóc một cười Vì không luyện tập để đời oán đau Dù cho sướng ít sầu nao Riêng người bậc trí vốn thao hạnh rèn Nhờ huân tập mãi thành quen Phiền lụy dẫu bám không len vào người Đời sống phạm hạnh cao vời Thanh bần đơn giản thảnh thơi bất kỳ Không tham ái chẳng mê si Năm dục đoạn dứt tánh thì an nhiên Phật dạy giới vững thần yên Một giới ba sáu, năm thì hàng trăm Nên cần giữ giới trau tâm Mạch nguồn an lạc thậm thâm dạ này. _Quang Toàn Thành Anh_
27/02/2018(Xem: 12203)
Vùng Đất Mũi một vùng trời sông nước Dưới tận cùng miền đất của quê hương Dân hiền hoà sống bình dị yêu thương Hoà với biển cùng trời mây bát ngát . Tôi muốn về thăm cuối miền quê mát Trải nghiệm lòng yêu mến đất phương Nam Cùng dân tôi ngồi ngắm bóng chiều vàng Bên sông nước quê hương thuyền đưa lối . Mẹ Việt Nam muôn đời luôn kết nối Ra đi rồi ai chẳng muốn về thăm Tôi vẫn yêu sông nước giữa trăng rằm Trên thuyền nhỏ tình người trong ánh mắt .
27/02/2018(Xem: 8949)
TRỞ VỀ BA NGÔI BÁO. Từ bỏ sông mê về bến giác. Sống đời thức tỉnh hạnh tha nhân. Tà kiến bao năm nhiều điên đảo. Nay nguyện giã từ hưởng pháp âm. Lầm lỗi triền miên đâu hoà hợp. Hành hạnh thương yêu sống hợp hoà. Ngôi báo trở về tâm bừng sáng. Bình đẳng chân như hạnh phúc đầy. Minh Hội. Syd 11/01 Mậu Tuất 2018 KTTT
25/02/2018(Xem: 19371)
Theo thông tin ban đầu, sáng cùng ngày (22.2), đoàn ni cô, phật tử khoảng 80 người từ một chùa trên địa bàn H.Long Thành (Đồng Nai) xuống biển Long Hải chơi đầu năm. Một lúc sau, có 10 ni cô xuống biển tắm thì bị nước biển cuốn vào xoáy nước. Lực lượng cứu hộ tại bãi biển kịp dùng phao đưa 6 ni cô vào bờ, sau đó ca nô cứu hộ đưa thêm 2 ni cô khác vào bờ nhưng một người đã tử vong. Đến 11 giờ 30 cùng ngày, thi thể của một ni cô được lực lượng tìm kiếm, cứu hộ phát hiện cách hiện trường vụ tai nạn khoảng 300 m. Ni cô còn lại vẫn đang mất tích.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]