Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân

23/01/201214:50(Xem: 17701)
Trần Nhân Tông với cảm hứng mùa xuân

TrầnNhân Tông (1258-1308), là một vị vua anh minh, một vị anh hùng dân tộc,một nhà tư tưởng, một vị tổ, một Đức Phật sống, một nhà văn hóa, một nhà văn lớn đời Trần.

mot%20goc%20chua%20dau
Một góc chùa Dâu

Trong lĩnh vực thơ văn, ông có nhiều bài thơ đạt đến trình độ kiệt tác, mà Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều ở Thiên Trường nhìn ra xa); Nguyệt (Trăng)là những ví dụ tiêu biểu. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng vớibút pháp vừa thực vừa hư, vừa tĩnh vừa động đã giúp cho người đọc vừa hiểu được cái cụ thể, lại vừa cảm nhận sâu xa hơn cái cụ thể. Trong khung cảnh trời chiều nơi hành cung Thiên Trường, nhà vua - thiền sư nhìn ra xa thấy cảnh quê hương với đồng ruộng, xóm thôn yên ả thanh bình. Trên con đường làng, chú mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đangthổi sáo dẫn trâu về chuồng; dưới cánh đồng, có đôi cò trắng bay song song đáp xuống. Tác giả tự hỏi những thôn xóm trong màn sương mờ ảo kia là có hay không? Cuối cùng là cái không lời tan biến vào cõi hư không tịch mịch trong buổi chiều tàn. Bài thơ đạt đến mức “thi trung hữu họa” được viết dưới ánh sáng của Mỹ học Thiền tông, bởi trạng thái chập chờn giữa thực; giữa tĩnhvới động; giữa hữu. Còn bài thơ Nguyệtnhư thi đề cho biết sẽ tả cảnh trăng, nhưng ba câu đầu không nói về trăng, mà là cảnh đêm tịch tĩnh. Chỉ có giọt sương rơi khẽ khàng trước sân cùng âm thanh của tiếng chày đập vải vang lên từ nơi nào, như là tiếng đồng vọng, âm hưởng trong đêm. Đây là cảnh thực. Đến câu cuối cảnhtrăng mới xuất hiện, vừa thực lại vừa hư, tạo nên vẻ đẹp bừng sáng lunglinh bởi ánh trăng hội tụ trên chùm hoa mộc tê vừa hé nở: Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ (Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương).Nhưng rất tiếc, đây không phải là những thi phẩm viết về mùa xuân. Mườilăm bài thơ trang nhã, diễm lệ trực tiếp tả cảnh mùa xuân bộc lộ tình xuân như: Xuân nhật yết Chiêu Lăng; Xuân hiểu; Xuân cảnh; Xuân vãn; Mai; Tảo mai; Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính; Nhị nguyệt thập nhất dạ; hoặc gián tiếp vì có nhắc đến ý xuân, cảnh xuân, cảm xuân dù chỉ là bất chợt thoáng qua như: Khuê oán; Đăng Bảo Đài sơn; Động Thiên hồ thượng; Thiên Trường phủ; Sơn phòng mạn hứng; Đề Cổ Châu hươngthôn tự; Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai.(Để không phải chú thích dưới các trích dẫn, tất cả những thi phẩm nguyên tác và bản dịch được trích trong bài viết này, chúng tôi rút từ Thơ văn Lý - Trần,tập 2, quyển thượng, do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989 từ trang 451 đến trang 472).

Trước hết, xin điểm qua những ý xuân, cảm xuân bất chợt trong thơ Trần Nhân Tông. Bài Khuê oán(Niềm oán hận của khuê phụ)là lời tâm sự của thiếu phụ trong phòng khuê nuối tiếc bâng quơ về thời gian sau khi thức giấc:

Thụy khởi câu liêm khán trụỵ hồng,

Hoàng ly bất ngữ oán Đông phong.

Vô đoan lạc nhất tây lâu ngoại,

Hoa ảnh chi đầu tận hướng Đông.

(Tỉnh giấc, rèm nâng, ngó rụng hồng,

Hoàng oanh im tiếng giận Đông phong.

Lầu Tây vô cớ, vầng dương lặn,

Cả bóng hoa cành ngả hướng Đông).

Sau một giấc dài, thiếu phụ thức dậy, cuốn rèm mở cửa ngắm nhìn nhữngcánh hồng rụng rơi; trong khi chim hoàng oanh im bặt tiếng vì oán hận mùa xuân đã qua, gió xuân không tới nữa. Chim hoàng oanh là biểu tượng của mùa xuân; Đông phong là gió thổi từ phương Đông, theo Dịch học thì trong Ngũ hành, phương Đông thuộc Mộc, mà Mộc chỉ mùa xuân, nên Đông phong là gió xuân. Không có tiếng chim, chẳng có gió xuân, có lẽ lúc nàytiết trời đã cuối xuân hoặc mới sang hè. Tuổi trẻ bao giờ cũng gắn với mùa xuân, nên nàng mới nuối tiếc thời gian chóng qua, đời người chóng già. Một cảm thức đầy tính triết lý của tác giả về thời gian, nêu lên quy luật khắc nghiệt của tuần hoàn, qua mấy vần thơ hàm súc, ý tại ngôn ngoại.

Không hiểu sao trong nhiều bài thơ, Trần Nhân Tông hay nhắc đến gió xuân (Tống Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai; Khuê oán; Mai; Tảo mai)hoặc cảnh xuân muộn, xuân tàn (Xuân vãn; Sơn phòng mạn hứng; Nhị nguyệt thập nhất dạ…),có lẽ là bắt nguồn từ cảm thức về thời gian như trên. Nhìn cảnh hoa rụng, mưa tạnh, thấy núi non tịch mịch, lại nghe một tiếng chim kêu nơi biên cương, nhà thơ - thiền sư mới biết mùa xuân đã qua: Hoa tận, vũ tình, sơn tịch tịch; Nhất thanh đề điểu, hựu xuân tàn - Sơn phòng mạn hứng, bài 2 (Hoa tàn, mưa tạnh, non im lắng; Xuân cỗi còn dư một tiếng chim).Cảnh xuân tàn ở đây có thể là hình ảnh biểu trưng cho tuổi già, cho conngười đã sang bên kia dốc của cuộc đời? Có lần, tác giả lên chơi núi Bảo Đài, thấy cảnh núi mây như xa như gần; ngõ hoa nửa rợp nửa nắng, nhàthơ cảm thức về thời gian cứ tuần hoàn trôi nên không cất lời mà chỉ tựa lan can thổi sáo dưới ánh trăng sáng chan hòa trước ngực (Đăng Bảo Đài sơn).Cuối cùng là cái vô ngôn. Bài thơ mang cảm thức Thiền, và có lẽ lúc nàynhà vua - thiền sư đang tu trên Yên Tử, bởi Bảo Đài là một ngọn núi thuộc dãy Yên Tử ở Đông Triều, Quảng Ninh.

Tiếp theo là những vần thơ trực tiếp tả cảnh mùa xuân bộc lộ tình xuân. Ngày xuân, nhà vua về quê hương Thiên Trường viếng lăng mộ ông nộilà Trần Thái Tông, lại nghĩ đến một thời hào hùng oanh liệt với chiến tích chống Nguyên Mông lần thứ nhất của dân tộc, làm nên hào khí Đông A bất diệt (1258), vì thế mà người lính già đầu bạc tham gia kháng chiến ngày nào giờ đang coi giữ lăng mộ vẫn mãi mãi kể chuyện về đời Nguyên Phong với niềm tự hào lớn (Nguyên Phong là niên hiệu lần thứ ba (từ 1251đến 1258) của Trần Thái Tông (lên ngôi 1225 - nhường ngôi 1258) khi còntrị vì): Bạch đầu quân sĩ tại; Vãng vãng thuyết Nguyên Phong. (Lính bạc đầu còn đó; Chuyện Nguyên Phong kể hoài - Bài Xuân nhật yết Chiêu Lăng).Hay như ngày cuối xuân trong tiết hàn thực mùng ba tháng ba, sau khi thưởng thức các điệu múa cùng với sứ giả phương Bắc, nhà vua tặng bánh trôi, bánh chay, bánh rau cho sứ giả và bảo rằng đây là phong tục riêng của nước Nam. Lời thơ nói ít mà ý nhiều, thể hiện bản lĩnh vị hoàng đế nước Nam cùng bộc lộ niềm tự hào về văn hóa, văn hiến phương Nam trước sứ thần phương Bắc (Quỹ Trương Hiển Khanh xuân bính - Tặng bánh ngày xuân cho Trương Hiển Khanh). Hai bài thơ MaiTảo mai ngợica vẻ đẹp thanh cao, cốt cách chịu đựng sương tuyết của loài hoa đứng đầu trăm hoa, để trước gió xuân khoe sắc vàng rực rỡ, sắc trắng tinh khôi và tỏa hương làm cho lòng người ngây ngất. Có khi tả hoa mai nở sớmtrong buổi đông tàn, để khi xuân sang chỉ còn loáng thoáng vài cánh thơm nhẹ mà nhà thơ lại nghĩ đến chị Hằng. Ý thơ thật lạ, giàu liên tưởng và sáng tạo: Hằng (Thường) Nga nhược thức hoa giai xứ; Quế lãnh, Thiềm hàn chỉ má hưu. (Hằng Nga như biết đây hoa đẹp; Quế lạnh, cung Thiềm há muốn ưa? - Tảo mai,bài 2). Vì thế mà Hồ Nguyên Trừng trong tác phẩm Nam ông mộng lụcviết vào đầu thế kỷ XV, tại câu chuyện thứ 19 có nhan đề Thi ý thanh tânđã hạ bút khen rằng: “Kỳ thanh tân hùng kiện quýnh xuất nhân biểu. Thiên thặng chi quân thú hứng như thử, thùy vị nhân cùng thi nãi công hồ?(Cáithanh tân hùng tráng vượt quá người thường. Thi hứng của vị vua một nước có nghìn cỗ xe như vậy, ai dám bảo người ta khi khốn cùng thì mới có thơ hay?).

Tôi xin giới thiệu ở đây ba bài thơ đặc sắc về mùa xuân: Xuân hiểu; Xuân cảnhXuân vãn.

Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ, rất trẻ, đang yêu đời, lòng tràn trề lạc quan nên ý tứ trong bài dạt dào sức xuân, đầy tình yêu cuộc sốngthông qua hình ảnh đôi bướm trắng tung tăng bay tới cành hoa mơn mởn tỏa nhụy thơm hương:

Xuân hiểu

(Buổi sớm mùa xuân)

Thụy khởi khải song phi,

Bất tri xuân dĩ quy.

Nhất song bạch hồ điệp,

Phách phách sấn hoa phi.

(Ngủ dậy, ngỏ song mây,

Xuân về, vẫn chửa hay.

Song song đôi bướm trắng,

Phấp phới sấn hoa bay).

Còn bài Xuân cảnh có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông đã nhườngngôi cho con là Trần Thuyên - Trần Anh Tông (1293 - 1314) để lên núi Yên Tử tu Thiền và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt tả cảnh mùa xuân nơi am thanh chiều vắng, có hoa dương liễu trổ dày, có tiếng chim kêu nhẩn nha chậm rãi; trên bầu trời thì có áng mây chiều đang lướt bay nhẹ nhàng. Trong cảnh tịch tĩnh yên ắng ấy, có vị khách đến thăm, chẳng hỏi chuyện nhân gian, thế sự, cũng không tham vấn về Thiền mà chỉ đứng tựa lan can bên thềm hoa cùng với Thiền sưnhìn ngắm màu xanh nhạt nhòa mờ mịt ở nơi chân trời xa. Cảnh hiện thực trong buổi tà dương đến đây đã biến thành tâm cảnh. Chủ và khách cùng imlặng. Cảnh vật và lòng người như hòa làm một. Chủ cũng thế mà khách cũng thế. Cái vô ngôn ở cuối bài thơ như thể hiện ý vị Thiền đạo, đạt đến chỗ giải thoát:

Xuân cảnh

(Cảnh mùa xuân)

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì,

Họa đường thiềm ảnh, mộ vân phi.

Khách lai bất vấn nhân gian sự,

Cộng ỷ lan can khán thuý vi.

(Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày,

Thềm hoa chiều rợp, bóng mây bay.

Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,

Cùng tựa lan can ngắm núi mây).

Và bài thơ Xuân vãn có lẽ cũng được viết khi Trần Nhân Tông đãlà vị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Lúc này tuổi đã cao, công phu Thiền định đạt chỗ liễu ngộ giải thoát, rõ lẽ “sắc” và “không” của kinh văn Bát nhã nên thiền sư nhìn cuộc đời như như tự tại, thản nhiên. Thiền sư có dịp hồi tưởng một thời tuổi trẻ của mình, lúc ấy mỗi khi xuân về thì lòng rộn ràng gởi ở trăm hoa. Còn bây giờ đã hiểu được, ngộ ra, tức khámphá được bộ mặt của chúa xuân (Đông hoàng diện), tức cũng có thể là thấy rõ chân như, tự tính, bản tâm thanh tịnh, bản lai diện mục nên dù đang ngồi Thiền, ngắm cảnh hoa rụng mà lòng vẫn nhất như, không xao động. Cái tâm thanh tịnh tuyệt đối. Tâm và Pháp đến đây nhất như, hòa làm một, không phân biệt nội giới với ngoại cảnh. Bài thơ thể hiện tư tưởng Thiền học uyên áo, uyên nguyên, uẩn súc, chỉ có thể cảm nhận bằng trực cảm tâm linh chứ không thể luận bình:

Xuân vãn

(Xuân muộn)

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.

Như kim khám phá Đông hoàng diện,

Thiền bản bồ đoàn khán trụỵ hồng.

(Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không,

Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng.

Chúa xuân nay đã thành quen mặt,

Nệm cỏ ngồi Thiền ngó rụng hồng).

Thơ là tiếng lòng, là tiếng nói cảm xúc của thi nhân trước hiện thực. Phan Phu Tiên trong lời tựa Việt âm thi tập(1433) có viết: “Tâm hữu sở chi, tất hình ư ngôn. Cố thi dĩ ngôn chí dã”. (Trong lòng có điều gì, tất thể hiện ra lời nói. Cho nên, thơ là để nói cái chí vậy).Chí ở đây cũng là tâm, là cảm xúc, là tấm lòng. Cảm hứng mùa xuân trongthơ của nhà vua - thi nhân - thiền sư - vị Phật hoàng Trần Nhân Tông lànhư thế. Do khuôn khổ của một bài báo, tôi không thể viết dài và có thểchưa nói được, nói hết cái hay, cái sâu sắc trong thơ mùa xuân của vị thi nhân - thiền sư này. Nhưng thiết nghĩ, đây cũng là cách góp vui cho quý vị lúc nhàn rỗi trong buổi xuân về tết đến.

PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/01/2021(Xem: 5829)
Bốn người bạn thuở xa xưa Môn sinh trường học trầm tư vùng này Cùng nhau quán tưởng hàng ngày, Một hôm cam kết từ nay thi tài Giữ im lặng thật lâu dài Bẩy ngày không nói với ai câu nào.
25/01/2021(Xem: 8055)
Đêm mịt mù mộng mị Rắn trườn giỡn dây thừng Hồ tanh tao động đậy Sen lòng nào nở bung?
23/01/2021(Xem: 13286)
Nồng nàn hương lúa đồng quê Ngày mùa vất vả lúa về đây sân Đồng xa cho đến ruộng gần Lúa vàng trải thảm hương nồng cốm quê Cò vui sải cánh bay về Tình quê hương lúa như mê hoặc lòng Bóng ai ngả lộng trên đồng Hiu hiu gió thổi tóc bồng bềnh bay Cánh đồng lộng gió chiều nay Lâng lâng bỗng thấy như say cảnh làng.
23/01/2021(Xem: 7229)
Đừng để Tâm buông lung phóng dật Cần siêng học Thánh Pháp ! Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp khi nghe pháp thoại này .Thật không biết dùng từ nào để diễn tả hết nỗi hân hoan khi được nghe những lời tâm huyết của Giảng Sư muốn truyền trao cho những ai ở siêng học Thánh Pháp ....đi đúng đường phải đi ..thì sẽ không còn vướng mắc vào nơi nào như bài kinh Khúc gỗ trôi sông ...ngày nào Đức Thế Tôn giảng dạy . Kính đảnh lễ và kính tri ân Thầy với bài pháp thoại quá tuyệt vời . Dạ vâng, bắt đầu hôm nay con sẽ học kỷ lại từ quyển 4 của Phật Học Phổ Thông và nguyện nếu còn sức sẽ gắng tới quyển nào ... chắc hẳn là còn tuỳ vào căn cơ đời trước , HH Cốt tủy pháp ngữ khai thị:: Cần siêng học Pháp ! Ngọc Minh Châu ẩn tàng ( tự tánh Niết Bàn) ... cố tìm ra Tâm buông lung nhiều mối ... vọng tưởng chạy thật xa Đừng để đa đoan .. trọng xứ thiên trụy !!
21/01/2021(Xem: 5353)
Ngày cùn, tháng tận .. lạ thay không hốt hoảng! Nhưng thu mình trong góc nhỏ ...chút suy tư Hai chữ VÔ THƯỜNG quá quen thuộc ... dường như Úc Châu mùa này ngày qua rất chóng ! Nghe pháp thoại .. có thêm vào bài thơ SỐNG Không hờn , không giận ... cám ơn gặp phúc duyên ! Thanh nhàn độc cư tránh được ưu phiền Không bon chen, biết an phận rằng.... đủ ?
20/01/2021(Xem: 5414)
Hôm nay lịch âm Mồng Tám Tháng Chạp Mừng Ngày Thành Đạo Đức Phật Thích Ca Các Phật tử trên khắp cõi ta - bà Trang nghiêm đảnh lễ một Bậc Đại Giác Trí huệ của Phật chính là ánh sáng Ngọn đèn soi đường kẻ vượt biển mê Thuyền Bát Nhã sẽ đưa tâm ta về Đạo lộ giải thoát đến bờ An Lạc
20/01/2021(Xem: 8437)
VẼ VÒI CON VOI VẼ Hít vào dừng được cái tôi Thở Ra giải thoát luân hồi tử sanh Ngã mạng có thắng hùng anh Vẫn thua mấy cọng cỏ xanh trên mồ Ngốc Tử 2021
19/01/2021(Xem: 23696)
Đức Phật Quá Khứ Tỳ Bà Thi 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng: từ 6.45am, Thứ Ba, 07/07/2020 (17/5/Canh Tý) Giải thích Nghi Thức Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ (1909-1984) biên soạn và hành trì trong suốt cuộc đời của Ngài. Bài kệ số 16: ĐỨC PHẬT TỲ BA THI 💐🌹🥀🌷🌷🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Nhẫn nhục đệ nhất đạo Phật thuyết vô vi tối Xuất gia não tha nhân Bất danh vị sa môn. Nhất tâm đảnh lễ Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật. (1 lạy) Phật dạy: Hạnh nhẫn nhục Là pháp tu thứ nhất, Pháp vô vi tột cùng. Cho nên người xuất gia Gây khổ não cho người, Thì không gọi “sa môn”. Một lòng kính lạy đức Phật Tì Bà Thi. (1 lạy) Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia)
19/01/2021(Xem: 4417)
Chánh niệm trong lúc nhìn Đừng tỏ thái độ khinh Thế gian người mỗi tánh Thông cảm sống nghĩa tình Tùy góc nhìn khác nhau Sự đời có trước sau Đừng thành kiến khó chịu Thấy thoáng đừng nhuộm màu
19/01/2021(Xem: 8832)
Nếu trụ vào Trump, bạn sẽ chống lại Biden. Nếu trụ vào Biden, bạn sẽ chống lại Trump. Nếu trụ vào Cộng Hòa bạn sẽ không ưa Dân Chủ. Còn nếu trụ vào Dân Chủ bạn sẽ ghét Cộng Hòa. Biết bao gia đình đổ vỡ vì vợ theo ông này, chồng lại chống ông kia.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]