Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Văn tế thập loại chúng sinh

19/09/201007:54(Xem: 18206)
Văn tế thập loại chúng sinh

Tieu_Dien




Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt, 
Toát hơi may lạnh buốt xương khô, 
Não người thay buổi chiều thu, 
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng. 

5. Đường bạch dương bóng chiều man mác, 
Ngọn đường lê lác đác sương sa, 
Lòng nào là chẳng thiết tha, 
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. 

Trong trường dạ tối tăm trời đất, 
10. Có khôn thiêng phảng phất u minh, 
Thương thay thập loại chúng sinh, 
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người. 

Hương khói đã không nơi nương tựa, 
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen, 
15. Còn chi ai quí ai hèn, 
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu? 

Tiết đầu thu lập đàn giải thoát 
Nước tịnh bình rưới hạt dương chi 
Muôn nhờ đức Phật từ bi, 
20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương. 

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh, 
Chí những lăm cướp gánh non sông, 
Nói chi những buổi tranh hùng 
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau. 

25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở 
Khôn đem mình làm đứa thất phu, 
Lớn sang giàu nặng oán thù, 
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời. 

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, 
30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa 
Cho hay thành bại là cơ 
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan! 

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ, 
Những cậy mình cung quế Hằng Nga, 
35. Một phen thay đổi sơn hà, 
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu? 

Trên lầu cao dưới cầu nước chảy 
Phận đã đành trâm gãy bình rơi, 
Khi sao đông đúc vui cười, 
40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương. 

Đau đớn nhẽ không hương không khói, 
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim. 
Thương thay chân yếu tay mềm 
Càng năm càng héo, một đêm một rầu. 

45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng, 
Ngọn bút son thác sống ở tay, 
Kinh luân găm một túi đầy, 
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu. 

Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm, 
50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh, 
Nghìn vàng khôn đổi được mình 
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu? 

Kẻ thân thích vắng sau vắng trước 
Biết lấy ai bát nước nén nhang? 
55. Cô hồn thất thểu dọc ngang, 
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh. 

Kìa những kẻ bài binh bố trận 
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung. 
Gió mưa sấm sét đùng đùng, 
60. Dãi thây trăm họ nên công một người. 

Khi thất thế tên rơi đạn lạc, 

Bãi sa trường thịt nát máu rơi, 
Bơ vơ góc bể chân trời, 
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao? 

65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét, 
Khí âm huyền mờ mịt trước sau, 
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu, 
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường? 

Cũng có kẻ tính đường trí phú, 
70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn, 
Ruột rà không kẻ chí thân 
Dẫu làm nên để dành phần cho ai? 

Khi nằm xuống không người nhắn nhủ, 
Của phù du dẫu có như không, 
75. Sống thời tiền chảy bạc ròng, 
Thác không đem được một đồng nào đi. 

Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm 
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm 
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm, 
80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu? 

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý 
Dấn mình vào thành thị lân la, 
Mấy thu lìa cửa lìa nhà, 
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân? 

85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng, 
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng, 
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng, 
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng. 

Bóng phần tử xa chừng hương khúc 
90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang, 
Cô hồn nhờ gửi tha phương, 
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng. 

Cũng có kẻ vào sông ra bể, 
Cánh buồm mây chạy xế gió đông 
95. Gặp cơn giông tố giữa dòng, 
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê. 

Cũng có kẻ đi về buôn bán, 
Đòn gánh tre chín dạn hai vai, 
Gặp cơn mưa nắng giữa trời, 
100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao? 

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính, 
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan, 
Nước khe cơm ống gian nan, 
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời. 

105. Buổi chiến trận mạng người như rác, 
Phận đã đành đạn lạc tên rơi. 
Lập loè ngọn lửa ma trơi, 
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương. 

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp, 
110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa, 
Ngẩn ngơ khi trở về già, 
Đâu chồng con tá biết là cậy ai? 

Sống đã chịu một đời phiền não 
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa, 
115. Đau đớn thay phận đàn bà, 
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? 

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất, 
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi, 
Thương thay cũng một kiếp người, 
120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan! 

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc 
Gửi mình vào chiếu rách một manh. 
Nắm xương chôn rấp góc thành, 
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi? 

125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé, 
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha. 
Lấy ai bồng bế vào ra, 
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng. 

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối, 
130. Cũng có người sẩy cối sa cây, 
Có người leo giếng đứt dây, 
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành. 

Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái 
Người thì sa nanh sói ngà voi, 
135. Có người hay đẻ không nuôi, 
Có người sa sẩy, có người khốn thương. 

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước 
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau 
Mỗi người một nghiệp khác nhau 
140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ? 

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi, 
Hoặc là nương ngọn suối chân mây, 
Hoặc là bụi cỏ bóng cây, 
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ. 

145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự 
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông 
Hoặc là trong quãng đồng không, 
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre. 

Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết, 
150. Gan héo khô dạ rét căm căm, 
Dãi dầu trong mấy mươi năm, 
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương. 

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn, 
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra, 
155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già, 
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh. 

Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ, 
Phóng hào quang cứu khổ độ u, 
Rắp hoà tứ hải quần chu, 
160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không. 

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại, 
Chuyển pháp luân tam giới thập phương, 
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương, 
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh. 

165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh, 
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao, 
Mười loài là những loài nào? 
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh. 

Kiếp phù sinh như hình bào ảnh, 
170. Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai không" 
Ai ơi lấy Phật làm lòng, 
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi. 

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo, 
Của có chi bát cháo nén nhang, 
175. Gọi là manh áo thoi vàng, 
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. 

Ai đến đây dưới trên ngồi lại, 
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. 
Phép thiêng biến ít thành nhiều, 
180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh. 

Phật hữu tình từ bi phổ độ 
Chớ ngại rằng có có không không. 
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng 
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7161)
Khỉ kia nhiều vợ, lắm con Thuở xưa tụ họp ở luôn vùng này Thật là đông đúc vui vầy Khỉ cha cai trị cả bầy từ lâu
03/08/2018(Xem: 11358)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
03/08/2018(Xem: 8961)
Cuộc đời quá đổi chẳng lành Xe đi hỏi cưới trở thành đám tang Ôi ! Bao thảm cảnh tan hoang Tôi ngồi viết lại mà tan nát lòng Nghĩ về cuộc sống trăm năm Như làn tia chớp âm thầm thoáng ngang Nhìn xem cảnh tượng bẽ bàng Ai mà chẳng khỏi hai hành lệ rơi Nguyện cầu người chết thảnh thơi Nguyện cầu người sống đời đời thương nhau . Dallas Texas , 2-8-2018 Tánh Thiện
31/07/2018(Xem: 7942)
Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời Nghe từng giọt đắng chạm bờ môi Người đi chẳng luyến ân tình đoạn Kẻ ở đành cam đạo nghĩa rời Gối chiếc đìu hiu cơn ấm lạnh Canh trường lặng lẽ nỗi đầy vơi Cung thương dạo ấy hoà êm nhịp Điệu ái mùa sang trỗi nghẹn lời Mộng dệt bao phen vàng hoá đá Duyên gầy mấy lượt ngọc thành vôi Gom từng mạch cảm neo đầu sóng Nhặt bấy niềm đau buộc góc trời Để chữ tào khang hồng cánh thiệp Cho vần hạnh phúc thắm trùng khơi Thềm xưa vọng mãi câu nguyền ước Gãy gánh tơ loan quạnh giấc đời!
31/07/2018(Xem: 9834)
Truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Quá Đường nghi thức, cúng trưa trong chùa An Cư Kiết Hạ đến mùa Đại Bàng lễ cúng xa xưa lưu truyền...
29/07/2018(Xem: 14895)
Con có duyên ra tận phi trường Los Angeles đón Ôn Thắng Hoan về chùa VN lúc Ôn đến Mỹ từ trại Tỵ Nạn vào năm 1983. Hình bóng Ôn hôm đó con không bao giờ quên được, vóc dáng gầy guộc, giản dị , chân phương của Ôn đã gieo vào lòng con niềm thương kính . Con kính cảm tạ Thầy đã gởi video về cuộc đời hoằng pháp của Ôn . Hôm nay con viết lên bài thơ này để kính dâng lên Ôn với tất cả tấm lòng mà con đã có duyên lành gần gủi Ôn lúc con còn là một học tăng ở Chùa Việt Nam, Los Angeles. Thắng Hoan Trưởng Lão ngát hương thiền Nhập đạo đồng chơn đủ phước duyên Hoằng pháp độ sanh không mỏi mệt Lợi lạc chúng sanh khắp mọi miền. Phật sự không màng công khó nhọc Đời Ngài trải rộng chẳng chùa riêng Một mình một bóng trong cô tịch Toả sáng vườn hoa Pháp diệu huyền . Dallas Texas , 28-7-2018 Tánh Thiện
29/07/2018(Xem: 6595)
Cuộc sống vẫn có lúc nầy lúc khác Bao thăng trầm vướng bận giữa thế gian Như lòng ta không an định vững vàng Dễ cuốn hút theo dòng đời chảy xiết . Biết bao kẻ tham cầu mê học thuyết Người thượng căn xem như gió cuốn đi Duyên cho ai học Phật quyết hành trì Chẳng chạy đuổi (ngũ dục) mà bỏ quên Chánh Pháp . Lời Phật dạy đừng gây bao nghiệp ác Làm việc lành khiêm tốn với tha nhân Cung dưỡng Thầy hiếu kính nghĩa song thân
28/07/2018(Xem: 7149)
Mùa An Cư năm nay cúng cháo, Thầy phân công chỉ bảo rõ rành (sadi) Viên Từ, Minh Hạnh đồng hành Cúng cháo thí thực, lo nhanh buổi chiều. Lòng thắc mắc của nhiều Phật tử. Cúng cơm đi, sao cứ cháo hoài Dọn lên món khác đổi thay Thức ăn sẵn có, cơm chay đủ đầy.. Lời giải thích sau đây cho biết Các lễ nghi đặc biệt từ xưa Nghi thức Phật Giáo Đại Thừa Cứu giúp quỷ đói, bị đưa đọa đày
28/07/2018(Xem: 8565)
NGẮM cảnh sắc cõi không kỳ diệu TRĂNG lung linh soi chiếu đêm trường LĂNG GIÀ tròn sáng như gương Soi trong bóng tối, dẫn đường chúng sanh.... Núi Lăng Già non xanh biển biếc Đảo xa xôi Phật thuyết giảng kinh Tên núi xưa đặt cho kinh Lăng Già nay gọi - Bộ Kinh Đại Thừa. Chốn nơi đây năm xưa Phật dạy Tỉnh giác ngộ nội tại từng phần Giúp cho Hành Giả đạt tâm Rõ Như Lai tạng vốn hằng chúng sanh. Kinh giáo lý trở thành cốt tủy Của Thiền Tông và Duy Thức Tông Bồ Đề Sơ Tổ khai thông
27/07/2018(Xem: 10423)
NGỒI tĩnh tọa ngắm dòng nước chảy THUYỀN từ bi gác mái xuôi dòng BÁT NHÃ rời bến sang sông, Hướng bờ Chánh Giác, thoát vòng tử sinh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]