Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư Bà Vi Diệu

08/08/201111:51(Xem: 7298)
Sư Bà Vi Diệu



Pagoda_7

SƯ BÀ VI DIỆU

Lần nọ ở Xá Vệ,
Chính tôi, A Nan Đà,
Biết chuyện này có thật,
Khi theo hầu Thích Ca.

Lúc ấy, Ba Tư Nặc,
Ông vua tốt, qua đời,
Người lên thay tàn ác,
Làm mất lòng nhiều người.

Nhiều phụ nữ còn trẻ,
Con nhà giàu, nết na,
Năm trăm người tất cả,
Muốn tìm đường xuất gia.

Họ lo sợ nhục dục,
Tức chuyện lập gia đình,
Cùng yêu đương, tình ái
Sẽ mang họa cho mình.

Vì lòng còn do dự,
Họ tìm hỏi nhiều người,
Trong đấy có Vi Diệu,
Một sư bà hiểu đời.

Thay cho lời khuyên nhủ,
Bà kể câu chuyện này,
Một câu chuyện có thật,
Đau lòng và đắng cay.

*
Có người phụ nữ nọ,
Con gái một nhà giàu,
Hiền lành và đức độ,
Thế mà đời buồn đau.

Khi đến tuổi xuất giá,
Bà lấy chồng, con trai
Một gia đình trưởng giả,
Thông minh và hiền tài.

Vợ chồng sống hạnh phúc,
Rồi sinh con đầu lòng.
Khi sắp sinh đứa nữa,
Theo lệ, bà xin chồng

Về nhà bố mẹ đẻ.
Thế là sáng hôm sau,
Vợ chồng bà xuất phát
Cùng với đứa con đầu.

Mới nửa đường, trời tối,
Họ ngủ dưới gốc cây
Trong khu rừng rậm rạp,
Màn đêm đen và dày.

Bỗng nhiên bà trở dạ,
Máu đỏ chảy thành dòng.
Rắn độc liền kéo đến,
Lặng lẽ cắn chết chồng.

Sáng dậy bà mới biết,
Khóc than vì buồn đau,
Rồi bà gượng đi tiếp,
Lưng cõng đứa con đầu.

Hai tay bà ôm chặt
Đứa con nhỏ mới sinh,
Vừa khóc bà vừa bước
Giữa trời nắng một mình.

Đến một giòng sông rộng,
May nước không quá sâu,
Bà lội xuống, để lại
Trên bờ đứa con đầu.

Tới bên kia, bất chợt,
Bà thấy con trai mình
Ngã xuống sông, lập tức
Bị dòng nước cuốn nhanh.

Bà kêu lên hốt hoảng,
Đặt con nhỏ lên bờ,
Quay lại cứu thằng lớn,
Thì thú dữ bất ngờ

Đến, tha đi đứa bé,
Tức đứa con vừa sinh.
Vậy là bà còn lại
Trơ trọi chỉ một mình.

Bà nằm yên bất động
Rất lâu bên dòng sông,
Khóc đến cạn nước mắt,
Đau như xé trong lòng.

Chợt có ông già nọ,
Quen với bố mẹ bà,
Gặp, rồi báo hỏa hoạn
Thiêu cháy, chết cả nhà.

Nghe tin như sét đánh,
Bà chết ngất, ông già
Thương, đưa về chăm sóc
Như con cái trong nhà.

Mấy năm sau, khuây khỏa,
Một gia đình nhà giàu
Hiền lành và tử tế
Đến xin bà làm dâu.

Bà nhất mực không chịu,
Nhưng mọi người cứ khuyên.
Cuối cùng bà đồng ý
Đi bước nữa cho yên.

Ông chồng bà tốt bụng,
Thế mà rồi một đêm,
Đi ăn uống đâu đấy,
Trở về nhà say mèm.

Chỉ mấy phút trước đó
Bà trở dạ, sinh con.
Đang nằm yên bất động,
Mệt, còn chưa lại hồn.

Thấy vợ không mở cửa,
Giận dữ xông và nhà,
Ông chồng say điên loạn,
Bóp chết đứa con bà.

Rồi đang đêm mưa gió,
Bỏ nhà đi một mình,
Bà đến Ba La Nại,
Ngồi khóc bên cổng thành.

Một lúc sau, bất chợt,
Có một người lại gần,
Một người tốt, chững chạc,
Hỏi chuyện rất ân cần.

Ông này vừa chết vợ,
Con một đại thương gia,
Sau một lúc trò chuyện,
Tỏ ý muốn lấy bà.

Vì không nơi nương tựa,
Cuối cùng bà gật đầu.
Họ sống rất hạnh phúc,
Không ngờ ba năm sau

Ông chồng bà ốm chết.
Theo tục lệ nước ông,
Bà sẽ bị chôn sống
Để xuống mồ theo chồng.

May tối ấy bọn trộm
Đến đào mộ ông ta
Để lấy cắp vàng bạc,
Vô tình đã cứu bà.

Tên trùm thấy bà đẹp,
Bắt làm vợ của mình.
Nhưng rồi hắn bị bắt
Và bị đem hành hình.

Thế là một lần nữa
Lại bị chôn, lần này
Bà được con hổ đói
Moi bà lên, thật may,

Nó chưa kịp ăn thịt
Thì thấy người, bỏ đi.
Để mình bà ở lại,
Mê man, chẳng biết gì.

Cuối cùng, khi tỉnh dậy,
Bà sực nhớ người ta
Thường nói về ân đức
Của Đức Phật Thích Ca.

Thế là bà đi bộ,
Vượt đường dài, gian nan
Đến nơi Ngài giảng pháp
Ở vườn cây Kỳ Hoàn.

Vừa nhìn thấy Đức Phật
Rạng rỡ và uy nghi,
Bà vội vã sụp lạy,
Xin xuất gia, qui y.

Thấy bà gần lõa thể,
Ngài bảo A Nan Đà
Mang đến bộ quần áo
Rồi đặt trước mặt bà.

Ngài nhận bà vào giới
Giao cho một ni sư,
Là bà Đại Ái Đạo,
Thông tuệ và nhân từ.

Ni sư này kềm cặp,
Giúp đỡ bà tu hành,
Dạy “Vô thường”, “Tứ đế”.
Bà tiến bộ rất nhanh.

Chẳng bao lâu sau đó,
Bà đắc đạo, thành người
Hiểu rõ chuyện quá khứ
Và tương lai muôn đời.

Bây giờ bà mới biết
Sao đời bà buồn đau.
Kiếp trước bà là vợ
Một trưởng giả nhà giàu.

Ông này lấy vợ lẽ,
Một cô gái rất xinh,
Nên được ông yêu quí,
Và bà bị nhạt tình.

Thù quá mà hóa dại,
Bà lấy chiếc đinh dài,
Đóng vào đầu đứa bé
Con cô vợ thứ hai.

Về sau bà còn chối
Và thề độc rằng mình
Không hề làm điều ấy,
Viện cả các thần linh.

Rằng “Nếu tôi giết nó,
Thì chồng tôi về sau
Sẽ bị rắn cắn chết,
Con tôi, hổ xé đầu.

Bố mẹ tôi cũng vậy,
Sẽ bị cháy thành tro,
Còn tôi thì đang sống,
Sẽ bị chôn xuống mồ.

*
Đến đây, sư Vi Diệu
Nói: “Người đàn bà này
Chính là ta kiếp trước,
Nghiệp chướng đến ngày nay.”

Năm trăm cô gái trẻ
Nghe câu chuyện của bà,
Quyết dứt duyên trần tục,
Một lòng theo Thích Ca.

Trong đầu còn choáng váng
Vì những chuyện vừa nghe,
Họ cảm ơn sư cụ,
Tạ lễ, rồi ra về.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/06/2010(Xem: 25362)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8032)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
16/05/2010(Xem: 6651)
Thầy từ phương xa đến đây, Chúng con hạnh ngộ xum vầy. Đêm nay chén trà thơm ngát, Nhấp cho tình Đạo dâng đầy. Mừng Thầy từ Úc tới thăm, Đêm nay trăng sáng ngày rằm. Thầy về từ tâm lan tỏa, Giữa mùa nắng đẹp tháng Năm
10/03/2010(Xem: 10200)
Qua sự nghiệp trước tác và dịch thuật của Hòa Thượng thì phần thơ chiếm một tỷ lệ quá ít đối với các phần dịch thuật và sáng tác khác nhất là về Luật và, còn ít hơnnữa đối với cả một đời Ngài đã bỏ ra phục vụ đạopháp và dân tộc, qua nhiều chức năng nhiệm vụ khác nhaunhất là giáo dục và văn hóa là chính của Ngài.
10/03/2010(Xem: 7725)
Ba La Mật, tiếng Phạn Là Pu-ra-mi-ta, Gồm có sáu pháp chính Của những người xuất gia. Ba La Mật có nghĩa Là vượt qua sông Mê. Một quá trình tu dưỡng Giúp phát tâm Bồ Đề. Đây là Bồ Tát đạo, Trước, giải thoát cho mình,
10/03/2010(Xem: 12220)
Tên Phật, theo tiếng Phạn, Là A-mi-tab-ha, Tức Vô Lượng Ánh Sáng, Tức Phật A Di Đà. Đức A Di Đà Phật Là vị Phật đầu tiên Trong vô số Đức Phật Được tôn làm người hiền. Ngài được thờ nhiều nhất Trong Ma-hay-a-na, Tức Đại Thừa, nhánh Phật Thịnh hành ở nước ta.
01/10/2007(Xem: 7514)
214 Bộ Chữ Hán (soạn theo âm vận dễ thuộc lòng)
20/10/2003(Xem: 31224)
Tình cờ tôi được cầm quyển Việt Nam Thi Sử Hùng Ca của Mặc Giang do một người bạn trao tay, tôi cảm thấy hạnh phúc - hạnh phúc của sự đồng cảm tự tình dân tộc, vì ở thời buổi này vẫn còn có những người thiết tha với sự hưng vong của đất nước. Chính vì vậy tôi không ngại ngùng gì khi giới thiệu nhà thơ Mặc Giang với tác phẩm Việt Nam Thi Sử Hùng Ca. Mặc Giang là một nhà thơ tư duy sâu sắc, một nhà thơ của thời đại với những thao thức về thân phận con người, những trăn trở về vận mệnh dân tộc, . . . Tất cả đã được Mặc Giang thể hiện trong Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trong sáng và xúc tích, tràn đầy lòng tự hào dân tộc khi được mang cái gène “Con Rồng Cháu Tiên” luân lưu trong huyết quản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567