Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối Thoại Hoà Bình Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử

09/08/201206:47(Xem: 7371)
Đối Thoại Hoà Bình Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử

 bocauhoabinh_1


Viết về Trường Ca

Đối Thoại Hoà Bình

(tức Thông Điệp Hòa Bình)

Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử

 

                                                                                                LÊ ĐÌNH CAI

 

       Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng .

 

      Trong tập biên khảo của tôi về “30 năm cầm quyền của Chúa Nguyễn Phúc Chu 1691 – 1725” do đại học Văn Khoa Huế xuất bản vào năm 1971, tôi có một chương nói về nhà Sư Thích Đại Sán, sư Hải Hương Thiền Sư và Liễu Quán Hòa Thượng…. Tôi chú trọng đến các nhà sư đó vì lẽ khi đất nước qua phân, nhân tâm ly tán thì họ đã quyết định nhập cuộc với chúng sinh để cùng tìm về bến giác, đẩy đưa xã hội đến bờ an lạc. Cách xử thế của các nhà sư đó đã được sử sách ghi nhớ. Hình ảnh nhập cuộc của Hòa Thượng Thích Giác Lượng trong các phong trào đòi nhân quyền và tự do tín ngưỡng ở hải ngoại có cái gì đó gần gũi với các hình ảnh của các vị sư thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Điều nầy đã tác động trong cách nghĩ của tôi về sự dấn thân của một vị tu hành đáng kính phục. Tôi đã nghe nhiều bài giảng của Hòa Thượng, tôi đã đọc nhiều bài báo của Hòa Thượng viết trên các báo chí hải ngoại và giờ đây với tập trường ca “Đối thoại Hòa bình” dù được hình thành cuối thập niên 1960, nhưng xét theo hoàn cảnh của đất nước hiện nay, dưới sự cai trị của một chế độ phi nhân bản, khát vọng về một quê hương thanh bình và an lạc vẫn còn nóng bỏng trong trái tim của mọi người dân Việt chúng ta dù trên quê hương khốn khổ hay lạc loài nơi hải ngoại.

 

 

       Tôi không chú trọng nhiều đến kỷ thuật, âm điệu trong bản trường ca của nhà thơ Tuệ Đàm Tử, phần đó dành cho các nhà phê bình văn học, nếu tác phẩm trụ vững được với thời gian. Tôi chú trọng nhiều đến phần tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Về góc cạnh nầy, trường ca “Đối Thoại Hòa Bình” là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử với hậu quả thật khốc liệt.

        Hơn hai triệu người phải rời bỏ Tổ quốc ra đi, hơn một triệu người phải bước vào ngục tù tăm tối của chế độ cộng sản.

       Tìm cho ra nguyên ủy của thực trạng đau thương đó, nhà thơ Tuệ Đàm Tử đã xót xa lên tiếng:

 

                              Lửa súng đạn đã diệt tiêu nhân loại.

Do lửa tham trong tâm vọng con người

                             Sự điêu tàn khốc liệt khắp cùng nơi

                             Do gốc bởi sân si, mê muội trí !

                                              (Đối thoại Hòa bình)

 

        Tiếng gọi đoàn kết mà nhà thơ đã muốn được vang vọng vào thời đất nước còn chiến tranh Quốc Cộng, bây giờ vẫn còn nguyên tác dụng của nó:

 

                            Dân nước Việt Nam ta cần kết khối.

  Thuận hòa nhau tranh đấu chống bạo tàn.

                           Gương anh hùng đất Việt đã danh vang

                            Lịch sử ấy muôn ngàn đời bất diệt.

 

        Ngay vào những thập niên 1960 nhà thơ đã thấy rõ được vai trò của mình là cần thiết phải nhập cuộc để cứu độ nhân sinh. Tuệ Đàm Tử bấy giờ chỉ là một Đại Đức, vẫn một lòng tâm nguyện:

 

Người hành đạo đương thời không ủy mị

                            Không bi quan, không yếm thế với đời

                            Không yếu hèn lúc nhân loại chơi vơi

                            Không lấp mắt khi nước nhà nguy biến

 

Chính người tu đã thực hành chí nguyện

                            Đem tinh thần đạo đức giúp nhân sinh

                            Là phương châm mang lại sự hòa bình

                            Là sứ mạng muôn đời non nước Việt….

                                                (Đối Thoại Hòa Bình)

 

        Quan niệm dấn thân đó, gần bốn mươi lăm năm sau vẫn là kim chỉ nam soi tỏ đường đi của Hòa Thượng Thích Giác Lượng trên miền đất thuộc hải ngoại nầy. Tiếng nói của Thầy vang lên trong các phong trào đòi quyền sống cho con người, đòi quyền tự do tín ngưỡng cho hơn 80 triệu người dân Việt đang sống trong bạo lực và tù đày.

        Một nhà tu hành, một con  người dấn thân không ràng buộc bởi tham vọng chính trị nào. Với trường ca “Đối Thoại Hòa Bình” nay là Thông Điệp Hòa Bình, thật xứng đáng được đón nhận một cách trân trọng.

 

 

                                Lê Đình Cai

                                                      (nguyên Giáo sư Đại học Huế và Đại học Đà Lạt)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 9552)
Chén cơm trong chốn lao tù, Con xin cúng Phật con tu quá đường ! Thế gian huyết hận đau thương ! Nghẹn nào lệ nhỏ vô phương kêu gào !.
12/08/2010(Xem: 8413)
Nằm ngủ ôm vầng trăng Đồi Cù nghiêng nghiêng mộng Đà Lạt chảy trong thân Tôi như rừng thông im bóng. Em như sương trăng áo mộng Đêm thu xưa quyến hớp hồn tôi.
04/08/2010(Xem: 6878)
Để hướng về Mùa Hiếu Hạnh Thiêng Liêng Để tưởng nhớ công ơn Công Đức Sinh Thành Để cùng nhau nhắc nhở Con Hiền Cháu Thảo Để đền đáp trong muôn một công đức Cha Mẹ Và lễ tạ Thù Ân Bốn Ơn Trọng cưu mang. Chúng tôi xin viết, cảm ơn quý vị đón nhận và phổ biến. Trân trọng, TNT Mặc Giang macgiang@y7mail.com
04/08/2010(Xem: 6255)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai Ơn sâu nghĩa nặng tình dài Đường quê lối nhỏ hoa cài thơm hương Tin yêu hòa ái mến thương Chia mưa sẻ nắng gió sương không màng Quê tôi còn đó đò ngang Chờ người lữ thứ miên man chưa về
04/08/2010(Xem: 6966)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai Thương sông, con nước chảy dài Nhớ biển, sóng vỗ miệt mài trùng dương Ra đi, vạn lý mù sương Rong rêu in bóng dặm đường phân ly Nhớ xưa, mấy thuở kinh kỳ Mà nay cũng lắm tư nghì hồn đau “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều”
04/08/2010(Xem: 6699)
Rằng xưa, có Mục Kiền Liên Tu hành giác ngộ, chứng liền lục thông “Thiên nhãn”, “Thiên nhĩ” vô cùng “Tha tâm”, “Thần túc” thỉ chung rõ ràng “Túc mệnh”, “Lậu tận” vô can Đường xuôi lối ngược dọc ngang đi về Mục Liên bèn nhớ Mẫu hề
04/08/2010(Xem: 8984)
Bảy tình (thơ)
16/07/2010(Xem: 12513)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
28/06/2010(Xem: 25264)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
19/05/2010(Xem: 8009)
Đừng tưởng cứ trọc là sư Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan Đừng tưởng có của đã sang Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây Đừng tưởng cứ uống là say Cứ chân là bước cứ tay là sờ Đừng tưởng cứ đợi là chờ Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần Đừng tưởng cứ mới là tân
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567