Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10 bài thơ mùa xuân của Trần Nhân Tông

02/01/201622:32(Xem: 27496)
10 bài thơ mùa xuân của Trần Nhân Tông



Tran Nhan Tong
MƯỜI BÀI TH
Ơ MÙA XUÂN

CỦA TRẦN NHÂN TÔNG

Nguyễn Lương Vỵ chuyển dịch thơ Việt

 

I. LỜI GIỚI THIỆU:

Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm.

Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3.

Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu ĐàHoàng Giác Điều Ngự(Tham khảo từ trang Web. Vikipedia.org VN.)

“… Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông Thi TậpĐại Hương Hải Ấn Thi TậpTăng Già Toái SựThạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập. So với nhiều nhà thơ khác thời Lý – Trần, số lượng ấy kể cũng đã không phải là nhỏ.” (Trích từ bài viết của Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh, ngày 27.08.2012,“Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi nhân và thiền gia trong một nhân cách - Trần Nhân Tông” trên trang trannhantong.net)

II. PHẦN DỊCH THƠ:

10 bài thơ có nội dung mùa Xuân được tuyển dịch dưới đây, trích từ  bản PDF của sách Thơ Văn Lý-Trần, tập 2, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977. Phần dịch nghĩa, ghi chú, có hiệu đính thêm một vài ý chưa rõ nghĩa, hoặc thiếu phần Hán văn.

Mỗi bài thơ được trình bày theo thứ tự:

. Nguyên văn bài thơ chữ Hán

. Phiên âm

. Dịch nghĩa

. Ghi chú

. Phỏng dịch thơ Việt

***

1.春 曉

, 
。 
, 

Phiên Âm:

XUÂN HIỂU

Thụy khởi khải song phi, 
Bất tri xuân dĩ quy. 
Nhất song bạch hồ điệp, 
Phách phách sấn hoa phi.

Dịch Nghĩa:

SỚM XUÂN

Ngủ dậy mở cánh cửa sổ, 
Không biết mùa xuân đã về. 
Có một đôi bướm trắng, 
Vỗ vỗ cánh, bay đến gần với hoa.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

SỚM XUÂN

Ngủ dậy, mở cửa trông

Nào hay Xuân mênh mông

Kìa một đôi bướm trắng

Vỗ vỗ cánh vờn bông!

2. 春 日 謁 昭 陵

, 
。 
, 

Phiên Âm:

XUÂN NHẬT YẾT CHIÊU LĂNG

Tì hổ thiên môn túc, 
Y quan thất phẩm thông. 
Bạch đầu quân sĩ tại, 
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

Dịch Nghĩa:

NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG

Lính thị vệ như cọp, đứng nghiêm túc trước ngàn cửa, 
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm. 
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay, 
Thường nhắc lại chuyện Nguyên Phong đã qua rồi.

Ghi Chú:

. Chiêu lăng [昭 陵]: Lăng vua Trần Thái Tông (chữ Hán: 陳太宗; 10 tháng 71218 – 5 tháng 51277),tên thật là Trần Bồ [陳蒲,] sau đổi thành Trần Cảnh [陳煚,]

là vị hoàng đế đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 - 1258), làm Thái thượng hoàng trong 19 năm. Trần Thái Tông là cha của Trần Thánh Tông và là ông nội củaTrần Nhân Tông.

. Chuyện Nguyên Phong []: Trần Thái Tông, nguyên tên thật là Trần Cảnh, là vua thứ nhất của nhà Trần. Ông sinh ngày 17.07.1218, mất ngày 04.05.1277. Ông làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59 tuổi. Khi lên làm vua năm 1226, Trần Cảnh đổi niên hiệu là Kiến Trung; năm 1232, đổi là Thiên Ứng Chính Bình; năm 1251, lại đổi là Nguyên Phong.

Ngày 17.01.1258, (niên hiệu Nguyên Phong thứ 7) quân Nguyên tràn tới cánh đồng Bình Lệ (phía nam Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ). Trần Thái Tông chỉ huy cuộc chiến đấu chống giặc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư tả: "Vua tự làm tướng đốc chiến đi trước, xông pha tên đạn…".

Ngày 29.01.1258, Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng (sau là vua Trần Thánh Tông) đã phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Trần Thái Tông đã đi vào lịch sử như một vị vua anh hùng cứu nước. Chiến cônghiển hách của quân dân nhà Trần đánh tan cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên Mông được sử sách đời đời ghi nhớ như một điểm son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm đầy oanh liệt của của dân tộc ta.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG

Ngàn cửa, uy nghiêm lính

Bảy phẩm, chỉnh tề quan

Sĩ tốt bạc đầu nhắc

Chuyện Nguyên Phong còn vang.

3. 洞 天 湖 上

, 
。 
, 

Phiên Âm:

ĐỘNG THIÊN HỒ THƯỢNG

Động thiên hồ thượng cảnh, 
Hoa thảo giảm xuân dung. 
Thượng đế liên sầm tịch, 
Thái thanh thì nhất chung.

Dịch Nghĩa:

TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN

Quang cảnh hồ Động Thiên, 
Hoa cỏ [có vẻ] giảm sút nét xuân tươi.
Trời thương xót nỗi hiu quạnh [nơi nầy], 
Thỉnh thoảng điểm một hồi chuông giữa tầng biếc.

Ghi Chú:

Hồ Động Thiên: Tra cứu các từ điển không tìm thấy. Trong sách Thơ Văn Lý Trần (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977,) phần chú thích cũng ghi: “chưa rõ ở đâu.”

Phỏng Dịch Thơ Việt:

TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN

Cảnh trên hồ Động Thiên

Dáng xuân gầy hoa cỏ

Trời thương xót niềm riêng

Một hồi chuông xanh tỏ.

4. 春 景

, 
。 
, 

Phiên Âm:

XUÂN CẢNH

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì, 
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi. 
Khách lai bất vấn nhân gian sự, 
Cộng ỷ lan can khán thúy vi.

Dịch Nghĩa:

CẢNH XUÂN

Trong khóm hoa dương liễu rậm rạp, tiếng chim hót lời chậm rãi, 
Dưới bóng hiên nhà trưng bày tranh vẽ, bóng mây chiều lướt bay. 
Khách đến chơi không hỏi việc đời
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh biếc trên trời.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

CẢNH XUÂN

Chim chậm lời ca, liễu nở đầy

Hiên tràn bóng lộng, mây chiều bay

Khách đến, chuyện đời không hỏi nữa

Cùng tựa lan can ngắm biếc ngày.

5. 春 晚

, 
。 
, 

Phiên Âm:

XUÂN VÃN

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung. 
Như kim khám phá đông hoàng diện, 
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Dịch Nghĩa:

CHIỀU XUÂN

Thuở nhỏ chưa từng hiểu thấu lẽ Sắc Không
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi chuyện lòng trong trăm hoa. 
Ngày nay đã thấy rõ được bộ mặt chúa Xuân [đông hoàng], 
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa hồng rơi rụng.

Ghi Ghú:

. Đông Hoàng []: cũng gọi là Đông Quân [君,] (ông vua của mùa Xuân.) Trong bài thơ Lập Xuân Hậu Thi [立春後詩] của Vương Sơ [王初] có câu: 君坷佩嚮珊珊 - 青馭多時下九關 (Đông quân kha bội hưởng san san / Thanh ngự đa thì hạ cửu quan. Dịch nghĩa: Chúa Xuân đeo ngọc kêu leng keng / Cưỡi ngựa xanh nhiều lúc đi xuống chín cửa quan).

Bồ đoàn []: Tấm lót để ngồi bằng cỏ bồ, hình tròn. Ngày xưa, các vị sư thường dùng trong lúcngồi thiền hay lễ bái.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

CHIỀU XUÂN

Thuở nhỏ chưa thấu lẽ Sắc Không

Xuân phơi trăm đóa gửi chuyện lòng

Gương mặt chúa Xuân nay đã tỏ

Nệm cỏ ngồi xem rụng cánh hồng.

6. 饋 張 顯 卿 春 餅

, 
。 
, 

Phiên Âm:

QUỸ TRƯƠNG HIỂN KHANH XUÂN BÍNH

Giá chi vũ bãi, thí xuân sam, 
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam. 
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính, 
Tòng lai phong tục cựu An Nam.

Dịch Nghĩa:

TẶNG BÁNH NGÀY XUÂN CHO TRƯƠNG HIỂN KHANH

Múa bài múa giá chi xong rồi, [mặc] thử tấm áo ngày xuân, 
Huống nữa hôm nay lại gặp tiết [hàn thực] mồng ba tháng ba. 
Bánh rau mùa xuân, như ngọc hồng bày biện đầy mâm, 
Đó là phong tục của nước An Nam [ta] từ xưa.

Ghi chú:

. Trương Hiển Khanh: Tức Trương Lập Đạo [張立道] sang sứ nước ta hai lần. Lần thứ nhất, vào năm 1265 để “tuyên dụ” chiếu chỉ của vua nhà Nguyên (vua Trần Thái Tông đã làm thơ tiễn trong dịp nầy.) Lần thứ hai, vào năm 1291 (dưới triều vua Trần Nhân Tông,) nhằm dụ vua nước ta qui phục và buộc vua Trần Nhân Tông phải sang chầu Bắc triều nhà Nguyên. Do kết quả ba lần nước ta chiến thắng oanh liệt giặc Nguyên-Mông, do thái độ mềm mỏng nhưng đỉnh đạc, kiên quyết của các vua nhà Trần, Trương Hiển Khanh buộc phải có thái độ kính nể. Trong bài thơ họa đáp với vua Trần, Trương Hiển Khanh đã viết:

安南雖小文章在。

未可輕談井底蛙.

An Nam tuy tiểu văn chương tại 

Vị khả khinh đàm tỉnh để oa

(Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương,

Chưa thể nói một cách nông cạn họ là ếch ngồi đáy giếng)

. Giá chi vũ []: Có thể là một điệu múa cổ của dân tộc Việt Nam.

. Tam nguyệt tam []: Ngày mồng Ba tháng Ba, thường gọi là tiết Thanh Minh, cũng gọi là Tết hàn thực, là ngày đi tảo mộ sau Tết Âm lịch.

. Thái bính []: Bánh rau. Một loại bánh bột làm với rau. Có thể là một loại bánh khúc ở thôn quê miền Bắc ngày xưa.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

TẶNG BÁNH NGÀY XUÂN CHO TRƯƠNG HIỂN KHANH

Giá Chi múa xong, thử áo xuân

Lại thêm hàn thực, tiết thanh nhuần

Bánh rau như ngọc hồng ăm ắp

Tục Việt từ xưa đẹp bội phần.

7. 山 房 漫 興 其 二

, 
。 
, 

Phiên Âm:

SƠN PHÒNG MẠN HỨNG KỲ NHỊ

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, 
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn. 
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch, 
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

Dịch Nghĩa:

MẠN HỨNG TẠI SƠN PHÒNG LẦN HAI

Nghĩ chuyện thị phi rơi rụng cùng với hoa buổi sáng, 
Lòng [ham] danh lợi lạnh theo trận mưa đêm. 
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non im vắng, 
Một tiếng chim kêu, [thế rồi] lại cảnh xuân tàn.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

MẠN HỨNG TẠI SƠN PHÒNG LẦN HAI

Phải quấy rụng cùng hoa buổi sáng

Lợi danh lạnh theo mưa ban đêm

Mưa tạnh hoa tàn, núi im vắng

Một tiếng chim kêu, xuân úa thêm.

8. 登 寶 臺 山

, 
。 
, 
。 
, 
。 
, 
滿

Phiên Âm:

ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

Địa tịch đài du cổ, 
Thời lai xuân vị thâm. 
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kính bán tình âm. 
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm dữ [ngữ] tâm. 
Ỷ lan hoành ngọc địch,

Minh nguyệt mãn hung khâm.

Dịch Nghĩa:

LÊN NÚI BẢO ĐÀI
Đất [nơi đây là nơi] hẻo lánh, [nên] đài [càng] thêm cổ kính
Theo thời tiếtmùa xuân [nơi đây] về chưa lâu. 
Núi mây [nhìn] như xa, như gần, 
Ngõ hoa nửa rợp bóng, nửa nắng chiếu. 
Muôn việc như nước tuôn [theo] nước, 
Trăm năm lòng lại nhủ lòng. 
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo quý như ngọc, 
Ánh trăng sáng rơi đầy trước ngực.

Ghi Chú:

Bảo Đài sơn [寶 臺 山]: Núi Bảo Đài. Địa danh nầy trùng tên rất nhiều nơi, còn có tên khác là Long Đại, thuộc châu Ái; ở Bảo Lộc cũng có; ở xã Động Mạc, huyện Vọng Danh, huyện Đông Triều, Hải Dương cũng có. Núi Bảo Đài trong bài thơ nầy, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là ngọn núi thuộcdãy núi ở Yên Tử, huyện Đông Triều, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

LÊN NÚI BẢO ĐÀI

Đất vắng, lầu càng cũ

Xuân mới về chưa lâu

Bóng xa gần mây núi

Ngõ hoa rợp nắng chao

Nước trôi hoài thế sự

Lòng nhủ mãi kiếp nào

Lan can nâng sáo quý

Ngực sáng ánh trăng cao.

9. 早 梅 其 一

, 
。 
, 
。 
, 
。 
, 

Phiên Âm:

TẢO MAI KỲ NHẤT

Ngũ xuất viên ba kim niễn tu, 
San hô trầm ảnh hải lân phù. 
Cá tam đông bạch chi tiền diện, 
Tá nhất biện hương xuân thượng đầu. 
Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, 
Dạ quang như thủy khát cầm sầu. 
Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ 
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!

Dịch Nghĩa:

MAI SỚM LẦN MỘT

Năm cánh hoa tròn thơm, nhụy hoa điểm sắc vàng, 
[Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi. 
Cành hoa trắng xóa suốt ba tháng đông, 
Sang đầu xuân, chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ. 
Sương ngọt chảy mùi thơm, làm con bướm tỉnh giấc say đắm
Ánh sáng ban đêm như nước, khiến con chim khát nước buồn bã. 
Nếu Hằng Nga biết được dáng vẻ xinh đẹp của hoa mai, 
Thì chẳng ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.

Ghi Chú:

. Hằng Nga []: Theo sách cổ Hậu Hán Thư [後漢書], trong tích Hậu Nghệ [后羿] có vợ là Hằng Nga [] còn có tên là Thường Nga [嫦] lấy trộm thuốc của chồng rồi bay lên cung trăng, bị đọa thành con cóc (thiềm thừ.) Từ đó, cung trăng cũng có tên là “cung Thiềm.”

. Quế []: Theo sách cổ Dậu Dương Tạp Trở [酉陽雜俎] chép rằng: Trong trăng có cây quế, cao 500 trượng. Vì thế, “quế” cũng là tên gọi của mặt trăng.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

MAI SỚM LẦN MỘT

Tròn xoe năm cánh, nhụy vàng phơi

Chìm bóng san hô, vảy cá trồi

Đông ba tháng lạnh cành im trắng

Xuân một ngày hanh nhánh ấm ngời

Sương ngọt nức hương lay bướm dậy

Đêm ngời ánh nước khiến chim sầu

Hằng Nga nếu biết hoa mai đẹp

Bóng quế cung thiềm sẽ chán thôi.

10. 早 梅 其 二

, 
。 
, 
。 
, 
。 
, 
君。

Phiên Âm:

TẢO MAI KỲ NHỊ

Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn, 
Đông phong tiên dĩ đáo cô côn [căn]. 
Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn, 
Hoa áp chi đầu noãn vị phân
Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt, 
Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân. 
Nhất chi mê nhập cố nhân mộng, 
Giác hậu bất kham trì tặng quân.

Dịch Nghĩa:

MAI SỚM LẦN HAI

Năm ngày sợ rét, lười ra khỏi cửa, 
Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn
Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan, 
Cành hoa trĩu xuống đầu cành, hơi ấm chưa phân định rõ. 
Giọng ca chim Thuý vũ lắng chìm [theo] ánh trăng ở quán trọ trong núi. 
Tiếng sáo Hoạ long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan. 
Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa, 
Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.

Chú Thích:

. Thúy vũ []: Tức “thúy vũ ngâm,” tên một từ khúc nổi tiếng ngày xưa. Cung điệu của khúc ngâm nầy còn thấy ở bài Trúc Sơn Từ [竹山祠] của Tưởng Tiệp [奬捷]. Lời đề tựa của ông nói: “Vương Quân Bản trao cho ta một khúc hát theo Việt điệu có tên là Tiểu Hoa Mai Dẫn, bảo ta lấy ý bay lên tiên, bước trong cõi hư không mà làm lời cho khúc hát…”

. Họa long []: Có thể là một loại sáo hay tù và có vẽ hình con rồng. Sách Từ Hải [辞海] dẫn lời của Thẩm Ước [沈箹]và Từ Quảng [徐廣] nói rằng: “Tù và của người Hồ, chỗ tay cầm, vẽ con giao long có chân năm sắc.”

. Ngọc Quan []: Tên một cửa ải trên đường đi sang Tây vực [西域,] thuộc tỉnh Cam Túc [甘肃], nước Tàu. Ở đây, tác giả mượn cảnh để miêu tả tiếng sáo Họa Long làm ẩm ướt đám mây trên cửa ải.

. Hai câu thơ cuối, tác giả lấy ý trong điển tích “nhất chi xuân” [一枝春,] rút từ câu thơ của Lục Khải [陸啟] trong bài thơ “Tặng Phạm Diệp”[贈范曄]:

使

(Phiên âm: Chiết mai phùng dịch sứ / Ký dữ lủng đầu nhân / Giang Nam hà sở hữu / Liêu tặng nhất chi xuân – Dịch nghĩa: Bẻ cành hoa mai, gặp được người đưa thư trạm / Gửi cho người ở Lủng Đầu / Giang Nam chẳng có gì cả / Chỉ tặng bạn một cành xuân).

Trong bài thơ “Tảo Mai Kỳ Nhị” nầy, tác giả mượn ý trên, nhưng đã chuyển ý vào trong cõi mộng rất độc đáo: Nhất chi mê nhập cố nhân mộng / Giác hậu bất kham trì tặng quân. Dịch nghĩa: Một cành hoa lạc vào giấc mộng người xưa / Sau khi tỉnh giấc, không thể đem tặng bạn được.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

MAI SỚM LẦN HAI

Năm ngày trốn lạnh, biếng rời nhà

Gió xuân vừa ghé gốc cây già

Mặt nước bóng chao, băng sớm rã

Cành hoa cánh trĩu, ấm chưa ra

Thúy Vũ chim vờn, trăng núi ẩn

Họa Long sáo ướt, Ngọc Quan nhòa

Cành hoa lạc mộng người xưa khuất

Tỉnh giấc làm sao tặng bạn xa!

10.2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/12/2020(Xem: 6737)
Có cánh rừng xưa mùa rợp bóng Mây ngàn về trắng nẽo trời xa. Thâm sơn hun hút hồn u tịch, Tiếng vọng vang cùng khắp cỏ hoa.
04/12/2020(Xem: 12930)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
04/12/2020(Xem: 7960)
Kính chúc mừng sinh nhật Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng, Bảy tháng phong tỏa, lạ thay Thầy phát ... hào quang? Tướng tự tâm sanh, không do mặc áo vua ban! Chắc hẳn Thầy tìm thấy minh châu trân bảo ? Giảng pháp, công phu khuya, thỉnh chuông ...Phật sự đều hoàn hảo !!! Tự tại ung dung như đang sống giữa rừng xanh, Khiêm cung, đức độ hội tụ các duyên lành Kính chia sẻ niềm vui cùng đạo tràng Quảng Đức !
02/12/2020(Xem: 9934)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11220)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9837)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
28/11/2020(Xem: 7243)
Bóng chiều nghiêng nhịp gió Giữa mây ngàn muôn phương Ta chiều theo nhịp gió Từng bước chiều dâng hương.
26/11/2020(Xem: 7434)
Còn đau không tiếng chim kêu buồn nơi nhánh sầu đông trước ngõ phù sa cuộn đục trên sông dài bờ bến mông lung rác rưởi lầy nhầy ung thối ngày tàn thu bầy ruồi nhặng no bụng buồn tung cánh gia tài dành dụm một sớm tan bay
22/11/2020(Xem: 6187)
Hàng ngay quả mượt mãi không già Thoảng ngát ven làng ngõ rộ hoa Tỏ nỗi mùa lên đầy khắp chợ Tàn hương bẹ xả khuất quanh nhà Xinh bày dãy kệ mơ nhà cưới Lặng trải linh bàn cúng lễ ma Đã nhận cùng quê tình nở thắm Trầu cau cảnh ấy đẹp thương mà… 2020 Minh Đạo
21/11/2020(Xem: 7305)
Trong vương quốc nọ thuở xưa Có chàng hoàng tử mới vừa sinh ra Vua cha cùng với hoàng gia Đón mừng quý tử thật là vui tươi, Ông quan tể tướng đồng thời Cũng vừa sinh được ra đời một trai,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]