Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Đoá Mai Vàng Đẹp Mãi Ngàn Năm

02/02/201110:18(Xem: 9287)
Những Đoá Mai Vàng Đẹp Mãi Ngàn Năm

NHỮNG ĐOÁ MAI VÀNG
ĐẸP MÃI NGÀN NĂM
TT. Thích Giác Toàn
1) Đối với các Thiền Sư thời Lý-Trần, sự ứng dụng tâm thức tu hành với những giáo lý Đức Phật truyền dạy là một. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, Đức Phật khai thị về không gian: "Mười phương thế giới đồng nhất thể." Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật mở bày ý niệm về thời gian: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vi lai tâm bất khả đắc."

Câu chuyện vua Lý Thái Tông, khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), một sáng mùa Xuân tìm vào núi viếng thăm Thiền Sư Thiền Lão. Với 4 câu thơ, đáp lời hai câu hỏi của nhà vua, Thiền Sư đã lưu lại cho chúng ta những câu thơ tuyệt bích trong thi ca Thiền học về không gian và thời gian.

Lúc lên núi, gặp Thiền Sư vua hỏi: "Hòa Thượng đến tu núi này được bao lâu rồi?"

Thiền Sư đáp:

Sống ngày nay biết ngày nay

Còn Xuân Thu trước ai hay làm gì!

(Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu Xuân Thu)

Vua lại hỏi tiếp: "Như vậy hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì?"

Thiền Sư đáp:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

Trăng trong mây trắng hiện toàn chân.

(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Thiền Sư không làm thơ nhiều, nhưng tâm hồn Thiền Sư hiền và đẹp nên ngôn ngữ Thiền Sư thốt ra cũng nhẹ và đẹp lãng đãng như áng mây trời. Vì thế, không gian và thời gian đối với Thiền Sư lại càng như không có gì để phải bận tâm. Bởi quá khứ là cái đã đi qua; những điều hiện tại trong khoảnh khắc rồi cũng qua mau, trở thành quá khứ; còn việc tương lai là điều chưa đến, mà nếu có đến thì nó lại cũng đi qua và sẽ trở thành quá khứ. Dòng thời gian luôn qua nhanh như một dòng nước trôi xuôi. Nắm bắt cái đã qua vừa làm mất công, vừa tự mình làm mệt, làm khổ cho chính mình. Cho nên, chúng ta thấy các Thiền Sư chẳng những sống với thực tại mà còn tỉnh thức trước thực tại. Các Pháp vốn "như thực như thị," hãy để nó diễn biến đúng theo quy luật nhân quả của chính nó.

Chúng ta tin chắc lời đáp của Thiền Sư đã tạo nên sự ngạc nhiên lý thú cho nhà vua và kết quả đã đưa nhà vua về với thực tại: - Như vậy, hằng ngày Hòa Thượng làm việc gì? Thiền Sư không trả lời là hằng ngày mình làm việc gì, nhưng nhà vua vẫn không buồn mà lại càng thích ý hơn khi được Thiền Sư đưa nhà vua thể nhập vào sự hài hòa toàn bích của tâm và cảnh, giữa con người và cảnh sắc thiên nhiên không hai không khác:

"Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

Trăng trong mây trắng hiện toàn chân."

Chính cái bên ngoài là pháp trần, là hóa thân làm đẹp cái bên trong; còn cái bên trong là tâm thức, là pháp thân chủ để làm rạng rỡ, rực sáng cái bên ngoài. Người thân chứng là người không còn thấy có khoảng cách giữa tâm và vật, thức và trần. Cảnh chỉ là một – huyền diệu lung linh.

2) Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096) nếu so với các Thiền Sư đời Lý thì tuổi thọ nơi thân xác tứ đại của Thiền Sư có phần ngắn ngủi hơn. Nhưng pháp thân chân tính của Ngài hiển hóa trong thi ca thì sống mãi muôn đời. Và một điều kỳ diệu là mùa Xuân nào đọc lại bài thơ của Thiền Sư vẫn nghe như mới, như trào dâng một cảm xúc vô biên:

"Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai."

"Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai."

(HT.Thích Thanh Từ dịch)

Về mặt cấu tạo vật chất, thân con người là tứ đại (đất, nước, lửa, gió) cấu thành, cảnh vật hoa cỏ thiên nhiên cũng là tứ đại thành. Nhưng con người hơn vạn vật ở chỗ là con người có hình thức sống, có tâm hồn, cho nên con người đương nhiên là chủ thể của vạn vật. Điều vi diệu ở đây là chủ thể và khách thể, tức con người và vạn vật lại hội nhập hòa điệu trong tính đồng nguyên nhất thể. Con người nhìn tấm gương phản chiếu của dòng thời gian đến – đi, của hoa cỏ nở- rụng mà có thể cảm nhận được dòng đời "trước mắt việc đi mãi," để tự nhìn lại chính mình "trên đầu già đến rồi" quả vô cùng tuyệt diệu. Thấy được tính vô thường nơi thời gian, vô thường của cảnh vật hoa cỏ thiên nhiên rồi cảm nhận ra được sự vô thường nơi chính xác thân mình đâu phải là điều dễ làm. Trong cuộc sống trùng trùng điệp điệp này ai cũng trải qua, ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, ai cũng sống chết; nhưng giác ngộ được thực tướng của chính mình trong mỗi lúc, không phải ai cũng có thể cảm nhận ra.

Khi đốidiện nhân chứng trước sanh tử vô thường, chẳng những không sợ hãi mà Thiền Sư còn đưa con người vào cõi an trú vĩnh hằng, Niết Bàn bất diệt: "Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết, đêm qua sân trước một cành mai." Giữa cõi đất trời siêu tuyệt, cành mai của Thiền Sư Mãn Giác chính là sự hội tụ của tính nhân văn, là nét đẹp không cùng tận của con người.

Đời Trần, Thiền Sư Huyền Quang – một thi sĩ tài hoa, là một trong số ít các vị tác giả có nhiều tác phẩm, hiện nay còn lưu lại cũng khá nhiều. Bài thơ "Hoa Cúc" là một trong những bài thơ nổi tiếng của Thiền Sư. Từ ngày Thiền Sư tịch đến nay gần 700 năm, hễ nói đến Thiền Sư thì người ta nhớ đến bài thơ "Hoa Cúc." Bài thơ có sáu đoạn tứ tuyệt, mỗi người có mỗi tâm trạng hòa nhịp theo ý thức xúc cảm sâu lắng của Thiền Sư.

Giáo lý vô thường, khổ não, vô ngã trước cuộc đời và sự thâm cảm giữa ý thức uyên áo của con người với thiên nhiên được Thiền Sư lột tả một cách tuyệt mỹ nơi đoạn 3:

"Vương thân vương thế dĩ đô vương,

Tọa cửu tiêu nhiên nhất thập lương

Tuế vãng sơn trung vô lịch nhật,

Cúc hoa khai xứ, tức trùng dương."

"Quên mình, quên hết cuộc tang thương

Ngồi lặng đìu hiu mát cả giường

Năm cuối trong rừng không có lịch

Thấy hoa Cúc nở biết trùng dương."

(bản dịch của Phan Võ – lược khảo LSVHVN)

Bốn loài: Mai, Lan, Cúc, Trúc là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Thiền Sư ngồi thiền định trong rừng, cảnh cũng không người cũng không. Cây cỏ, hoa cảnh, thời gian, không gian như đứng ngừng im lặng, như "giao hội" cùng trời đất. Chỉ cần thấy "hoa Cúc nở" là biết "tiết trùng dương đã đến, tựa như Thiền Sư Viên Chiếu đời Lý cũng đã từng thổ lộ:

"Trùng dương Cúc nở dưới rào

Trên cành Oanh hót thanh tao dịu dàng."

Nhưng nét đẹp siêu tuyệt nơi Huyền Quang không dừng lại ở đây, nó còn vương lên, vượt khỏi ta – người, tâm- cảnh, có – không v.v… Nói theo tư tưởng Thiền của các Tổ sư là dứt bỏ "Nhị kiến" không còn thấy có hai, dù không gian, thời gian nào, dù người hay vật, sắc hay không (đoạn 5):

"Hoa tại trung đình, nhân tại lâu

Phần hương độc tọa tự vong ưu.

Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh

Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu"

"Người ở trên lầu hoa dưới sân

Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông

Hồn nhiên người với hoa vô biệt

Một đóa hoa vàng chợt nở tung"

(bản dịch của Nguyễn Lang)

Khi nào con người trở về với chính mình thì khi đó cái đẹp "tính nhân bản" hội tụ. Và cũng chính nơi mình, "tính nhân bản" tỏa sáng muôn đời.

Tóm lại, như chúng ta đã biết, cánh hoa vàng (hoàng hoa) của Thiền Sư Thiền Lão, cành Mai vàng của Thiền Sư Mãn Giác đầu, giữa đời Lý và đóa Cúc vàng của Thiền Sư Huyền Quang gần cuối đời Trần… cả 3 đóa hoa vàng cách nhau trên dưới 300 năm. Vậy mà khi đọc lại, ta tưởng chừng như 3 con người, 3 vị Thiền Sư Thiền Lão-Mãn Giác-Huyền Quang và 3 đóa hoa vàng chỉ là một – như mới đâu đây, mới hôm nào… rồi chợt giật mình. Ồ! Đây rồi – đóa hoa vàng của chính lòng ta "tâm thức sống của chính mình," của mỗi người chúng ta. Ôi! Những đóa hoa vàng tuyệt bích thiên thu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2018(Xem: 19688)
Theo thông tin ban đầu, sáng cùng ngày (22.2), đoàn ni cô, phật tử khoảng 80 người từ một chùa trên địa bàn H.Long Thành (Đồng Nai) xuống biển Long Hải chơi đầu năm. Một lúc sau, có 10 ni cô xuống biển tắm thì bị nước biển cuốn vào xoáy nước. Lực lượng cứu hộ tại bãi biển kịp dùng phao đưa 6 ni cô vào bờ, sau đó ca nô cứu hộ đưa thêm 2 ni cô khác vào bờ nhưng một người đã tử vong. Đến 11 giờ 30 cùng ngày, thi thể của một ni cô được lực lượng tìm kiếm, cứu hộ phát hiện cách hiện trường vụ tai nạn khoảng 300 m. Ni cô còn lại vẫn đang mất tích.
21/02/2018(Xem: 7876)
Vì còn nặng trĩu tơ vương Cái Ta hiện hữu tình trường đa mang Bỏ chưa nở, ôm bẻ bàng Đi sao nhẹ gánh yên hàn tâm tư?! Đời người sợ hai nổi như: Cô đơn bóng lẽ nên chừ buồn ghê Sợ chết có ai khỏi tề! Học rồi Pháp Phật nhẹ bề xôn xao Tuỳ duyên tan tụ ra vào Nương nơi Chánh Pháp thở phào đến đi Hiểu Phật dạy lợi tư nghì Niềm vui Đạo Pháp không chi sánh bằng Bỏ dần phiền não lăn tăn Bình tâm tiếp nhận nên chăng phiền hà! Nhân duyên nhân quả trổ ra Thì mình khắc phục dần dà định tâm Cứu đời Pháp Phật thậm thâm Phước lành mới được gieo mầm Đạo Như Chưa tắc hơi nguyện ngay chừ Đời đời gặp Phật xuân thu tu hành...
18/02/2018(Xem: 10774)
Hơn bốn mươi năm xa quê hương, Nhìn quanh vạn pháp vẫn vô thường. Nhân quả ẩn tàng trong kiếp sống, Như nhắc cuộc đời tựa khói sương! Mỗi độ tàn Động, nhớ quê hương, Giờ đây quên những nỗi đoạn trường. Cùng khổ cũng vui ba ngày Tết, Mai này lại một nắng hai sương!
18/02/2018(Xem: 7592)
Hộp rong biển trên tay Ôn còn đó Chẳng có gì phải đáng nói ở đây Cảnh núi rừng đã nói quá đủ đầy Tôi chỉ muốn đi theo Thầy im lặng .
15/02/2018(Xem: 7314)
Nắng hồng rực rỡ trời mây Chim muông ríu rít, cỏ cây rộn ràng Hào quang chói lọi ánh vàng Theo chân Đức Phật lên đàng sáng nay Ngài đi khất thực trong ngày Tìm cơ giáo hóa ai đây lầm đường. Nhà kia kín cổng cao tường Đế Đô là chủ, giàu sang nhất vùng Tham lam, ích kỷ vô cùng, Hôm nay chủ vắng. Chó trông chừng nhà, Nhe nanh hăm dọa người qua Mắt ngầu hung dữ như là cuồng điên. Phật ngừng khất thực trước hiên Chó lao vội đến sủa lên, cắn ngài "Hãy im!" Ngài nói khoan thai
14/02/2018(Xem: 9883)
Thoáng, đã mười năm vắng Tết nhà Phương trời lữ thứ hỏi mây qua Đâu mùa hương cũ xa xôi nhớ Chiều muộn tàn năm bóng mẹ già.!
14/02/2018(Xem: 8926)
Phật khi còn tại thế gian Có vua hung ác, bạo tàn, hại dân Nghe ngài thuyết pháp ở gần Vua theo dân chúng ân cần tới lui Xin ngài kể một chuyện vui Lại vừa hữu ích cho đời dài lâu. Phật bèn kể lại chuyện sau Chuyện "Con Chó Đói" xiết bao lạ thường.
12/02/2018(Xem: 13377)
Một khối sầu tư mỏi dặm dài Xuân về hoài cảm những ai ai Cành Mai mùa cũ trong hoài tưởng Hương Cúc thu nào thoảng gió mai Mây trắng bâng khuâng… lòng khách lữ Bóng chiều bảng lảng… bóng chiều phai Về đâu! Ai hỏi trăng đầu núi! Lắng khúc ca dao, Đẹp dấu hài.
09/02/2018(Xem: 8007)
Ngẫm lại lâm phiền, ủ khổ đau Thân nầy bọt bóng sẽ về đâu? Vơ đầy cũng chỉ bay sương khói Nhét đẫy nhưng rồi lộn bể dâu Giữ chặt tìm phương hoài chẳng cuối Vòng quanh lạc hướng mãi không đầu Thì ra tất cả như là mộng Tỏ nỗi đường qua tránh vực sâu.
05/02/2018(Xem: 8657)
Tình tăng lữ tháng ngày luôn gắn bó Sách tấn nhau cùng tiến bước đường tu Dẫu mai đây gặp cảnh gió mây mù Mối duyên đạo chẳng bao giờ phai nhạt .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]