Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thường Đề Bồ tát.

10/04/201311:09(Xem: 8224)
Thường Đề Bồ tát.


NHÀ XUẤT BẢN THUẬN HÓA - 1995

THƯỜNG ĐỀ BỒ TÁT

(BỒ TÁT HAY KHÓC)

Nguyên tác:Pháp Sư Long Căn

Thích Chân Tính soạn dịch

--- o0o ---

Lời tựa
Tập truyện Thường Đề Bồ Tát (Bồ Tát HayKhóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập”của Pháp sư Long Căn. Ngoài những truyện kể về cuộcđời các vị Bồ Tát thời quá khứ như Thường Đề, ThiệnTài đồng tử, Thường Bất Khinh và sự tích các Thánh đệtử hiện tại như Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa ra,còn có truyện kể vua về A Dục, một tài liệu hiếm quý, giúp chúng ta hiểu thêm cuộc đời nhân vật lịch sửdanh tiếng có công lớn đối với việc hoằng hộ Phật pháp.
Nhận thấy tập truyện rất bổ ích nên người dịch đã không quản ngại sức học non kém của mình, cố gắng chuyển dịch ra Việt văn từ bản văn TrungQuốc, để cống hiến cho độc giả đôi chút hương hoa Phật pháp, chứa đựng trong những mẩu chuyện đạo này.
Đây là dịch phẩm đầu tiên cho nên không sao tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong chư tôn đức hoan hỷ chỉ giáo cho.
Chùa Hoằng Pháp, ngày 15-07-1993
Người dịch

THÍCH CHÂN TÍNH

THƯỜNG ĐỀ BỒ TÁT

1.- Vì tiếng khóc mà thành tên thiên hạđều biết

Thường Đề là một vị Bồ Tát thanh niên đặc biệt xuất sắc của Phật giáo.

Thường Đề ra đời vào thời Đức Phật quá khứ, hiệu Lôi Hống Âm Vương. Không ai biết rõ chàng là người nước nào và cũng không có tên họ chi cả, chỉ biết chàng từ nhỏ hay khóc và cho đến lớn cũng vậy. Đối trước người đời chàng thường phát ra những lời than thở bi thiết, như muốn tỏ bày tâm sự đau thương bất tận của mình, vì thế mọi người đều gọi là Thường Đề (Hay Khóc).

Thường Đề sinh trưởng trong hoàn cảnh nghèo cùng khốn khó, nhờ vậy khi thành nhân đã trui rèn cho mình một tính cách chịu đựng, thân tâm như kim cang sắt đá. Bẩm tính của chàng càng đặc biệt hơn nữa, người ta đánh, chàng không trả đũa, người ta chửi, chàng cũng không giận hờn, chẳng ham thế tục, chẳng ưa trân bảo, nhưng lại rất thích lễ Phật, nghe kinh.

Thường Đề tánh tình khác người. Bình sinh chàng không nghĩ đến phước lạc thế gian, thân tâm yên định như đá núi, trời lay cũng không sợ, đất chuyển cũng chẳng kinh. Thường Đề hiểu sâu Phật pháp, biết rõ vấn đề lớn của con người là bị sinh, lão, bệnh, tử bức bách, bị xâm lấn bởi hết thảy khổ nạn. Chỉ tiếc cho người đời mải miết chạy theo danh lợi không tiếc thân mạng, nên bị nó cướp đoạt, khiến cho thiên hạ chẳng được thái bình. Từ khi biết được cái khổ của cuộc đời và con người, Thường Đề ôm ấp lòng thương cứu nhân độ thế. Chàng biết muốn giải quyết được vấn đề này chỉ có phương pháp học Phật tu hành. Cho nên chàng đã phát đại thệ nguyện tu Bồ Tát đạo, độ hết thảy chúng sinh thoát mọi khổ nạn.

Khi Thường Đề phát tâm Bồ đề rộng lớn, chàng liền suy nghĩ những vấn đề như: Muốn tu hạnh Bồ Tát phải tu như thế nào? Muốn độ chúng sinh thoát khổ phải độ như thế nào? Trong khi Đức Phật Lôi Hống Âm Vương không còn tại thế nữa biết hỏi ai bây giờ? Những điều này khiến chàng băn khoăn suy nghĩ, ăn uống không ngon, ngủ nghỉ không yên, trong lòng rối bời, không ngăn nổi đau thương, chàng bèn khóc than đến bảy ngày không thôi, khiến người đời phải kinh hãi ngạc nhiên. Có người bảo chàng là kẻ đần, có người nói là đồ si, cũng có người mắng là thằng điên, chàng thản nhiên không đáp, nhưng vẫn cứ khóc mãi. Vì thế mà trở thành tên, thiên hạ đều gọi chàng là Bồ Tát Thường Đề (Bồ Tát Hay Khóc)

2.- Chí thành cảm động Phật hiện thân

Tiếng khóc của Bồ Tát Thường Đề rất chí thành vô tư, nhưng người đời không hiểu lại nói châm nói chọc. Thường Đề chẳng hề xấu hổ, trái lại tiếng khóc của chàng lại càng thống thiết hơn. Cho đến sáng sớm ngày thứ bảy chợt xuất hiện chuyện lạ thường: Một vị Phật tướng hảo đoan nghiêm, hào quang sáng rực từ trên không giáng xuống đứng trước mặt khiến chàng bối rối vừa mừng vừa sợ. Chàng không thể ngờ là Đức Phật đã phóng quang đến, ngay lúc ấy chàng chỉ biết chí thành đảnh lễ rồi quỳ trước Đức Phật, nhưng rồi chàng lại lúng túng không biết thưa hỏi điều gì và cũng quên không hỏi danh hiệu Đức Phật.

Có một điều mà người đời khó có thể biết được là Đức Phật vốn ở khắp mọi nơi mọi chỗ, không chỗ nào là không có các Ngài. Cho nên khi Thường Đề phát tâm Bồ đề và học đạo Bồ Tát liền được các Đức Phật trong mười phương thế giới cảm nhận. Lúc Đức Phật xuất hiện, không đợi Thường Đề thưa hỏi, liền vì chàng mà giải đáp vấn đề.

Đầu tiên Đức Phật khen ngợi chàng rằng:

- “Lành thay! Lành thay! Ngươi đối với danh tiếng và lợi dưỡng thế gian đều không tham đắm, một lòng tu học Phật pháp để cứu nhân độ thế. Thật tốt thay! Khó được! Khó được! Ngươi vì cầu pháp mà thành khẩn khóc như vậy khiến Ta rất cảm động. Thật là hy hữu! Hy hữu! Ngươi là người có chí lớn hạnh lớn, nhất định sẽ được thành công như nguyện. Hãy nỗ lực lên, gắng tinh tấn, tinh tấn lên!”.

Tiếp đến Đức Phật khai đạo cho chàng rằng: “Thường Đề! Kẻ học Phật độ người phải tu học hạnh Bát Nhã. Bát Nhã là trí tuệ, là phương pháp tự độ mình và độ người, hay cứu hết thảy mọi khổ nạn. Bát Nhã là đạo của Bồ Tát, là chiếc thuyền độ người, năng cứu hết thảy chúng sinh thoát khỏi biển khổ. Chúng sinh trong thế gian rất nhiều, tâm tánh mỗi người mỗi khác, chỉ có thông đạt Bát Nhã mới có thể tùy cơ mà cứu độ giáo hóa. Ta cũng từ chỗ tu theo Bát Nhã mà đạt đến quả vị Phật. Ngươi muốn học Phật độ thế nên tu theo Bát Nhã Ba la mật”.

Rồi Ngài lại chỉ dạy tiếp:

- “Từ đây đi về hướng Đông khoảng năm trăm dặm đường có một thành tên gọi Chúng Hương. Trong thành có một vị Bồ Tát tên Pháp Thượng, lãnh đạo chúng hội Thanh niên Phật giáo có đến hàng vạn người cùng tham gia nghiên cứu Phật pháp. Hiện tại, Bồ Tát Pháp Thượng đang cử hành pháp hội lớn, tuyên dương Phật pháp, chủ giảng về Kinh Bát Nhã. Đây là một cơ hội rất khó gặp, ngươi mau đến đó tham dự, chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều lợi ích trong việc tu học Phật pháp”.

Thường Đề nhất tâm lắng nghe lời khai thị của Đức Phật, thân tâm chìm đắm trong ánh hào quang pháp lạc của Ngài không biết bao lâu, đến khi giật mình sực tỉnh thì không còn thấy Đức Phật ở trước mặt nữa. Thường Đề liền hướng lên không trung đảnh lễ ba lạy, cảm tạ Đức Phật đã quang lâm chỉ dạy.

3.- Nơi chợ bán thân làm kinh động cả Quỷ, Trời

Thường Đề cảm ứng trước sự phi thường này, cho nên sự tín tâm học Phật càng thêm thâm thiết, nhất tâm ghi nhớ lời chỉ giáo của Đức Phật. Lúc này trong tâm chàng chỉ tha thiết nghĩ nhớ đến một việc là mong mỏi không bao lâu sẽ được thân cận Bồ Tát Pháp Thượng và nghe pháp Bát Nhã. Chàng tha thiết đến nỗi quên cả thân tâm lẫn thế giới bên ngoài, lần đi vào cảnh giới chân chính quên mất bản ngã mình. Trong cảnh giới tâm linh an định, chàng thấy mình đến chỗ các Đức Phật ở mười phương thế giới, được các Ngài khuyên bảo sách tấn. Sau khi tỉnh giác khỏi cảnh mộng ảo và quay trở về với thế giới hiện thực, thân tâm chàng cảm nhận được sự khinh an vô hạn.

Do thân tâm sung mãn và hưng phấn khiến cho tinh thần của Thường Đề càng thêm phấn chấn hẳn lên và chàng quyết tâm phải đến cho được thành Chúng Hương. Nhưng vì không có tiền bạc mua hương hoa dâng cúng Tam Bảo, chàng liền nghĩ kế bán mình làm nô lệ nơi chợ thành. Thế nhưng kết quả chẳng được như ý muốn, không một người nào thèm đoái hoài tới. Chàng buồn rầu la lớn, rồi lại khóc lớn lên làm chấn động cả Quỷ vương.

Quỷ vương thường hay phá hoại Phật pháp, làm chướng ngại lớn cho người tu hành. Quỷ vương rất vui mừng khi thấy có người làm ác và rất sợ trên thế gian có nhiều người học Phật tu hành. Vì nếu có một người học Phật, tu hạnh Bồ Tát, tương lai sẽ độ cho rất nhiều người. Nhiều người học Phật tức là có nhiều người lành, người tốt và người ác sẽ ít đi. Khi đó con cái đệ tử của Quỷ vương sẽ bị giảm dần, quyền uy của Quỷ vương phải bị lay chuyển, thế lực của Quỷ vương phải bị tiêu mất. Cho nên, Quỷ vương bị chấn động bởi tiếng khóc của Thường Đề, lo sợ lũ quỷ trong cung hoang mang, bèn dùng quỷ thuật ngăn chặn khiến mọi người không thể nghe được tiếng khóc của Thường Đề.

Mặc dù Quỷ vương thành công trong việc ngăn trở Thường Đề bán mình làm nô lệ, nhưng không thể nào lay chuyển được tâm chí học Phật chắc như sắt đá của chàng. Và tiếng khóc của chàng lại càng bi thương thống thiết hơn nữa, oán trách thân thể của mình kiếm tiền còn thua loài trâu ngựa.

Tiếng khóc của Thường Đề cũng làm kinh động đến Thiên cung là nơi ở của Đế Thích Thiên Chủ. Thiên Chủ rất ủng hộ Phật pháp, một lòng bảo vệ người học Phật. Thấy Thường Đề còn trẻ mà đã phát tâm Bồ đề cứu nhân độ thế, Thiên Chủ rất lấy làm hoan hỷ và tôn kính, nhưng e sợ ý chí của chàng không kiên định, thế nên Thiên Chủ liền biến thành một người Bà-la-môn đến trước mặt Thường Đề nói:

- Anh muốn bán thân, nay tôi cần tủy máu của người để tế thần, anh có thể bán cho tôi không?

Thường Đề đang khổ sở vì bán thân mà không ai chịu mua, chợt có người đến hỏi mua tủy máu, chàng rất vui mừng chấp nhận ngay ý nguyện này không một chút do dự đắn đo. Trong lúc chàng cầm dao định chích thân lấy huyết, Thiên Chủ liền xuất hiện nguyên hình, nói rõ ý của mình, rồi ca ngợi Thường Đề rằng: “Anh là người chí thành học Phật cầu pháp không tiếc thân mạng khiến tôi đây rất lấy làm kính phục. Tôi xin chúc lành cho anh được thành công trong việc cầu pháp. Anh không nên chích máu lấy tủy nữa mà cần phải bảo vệ thân thể cho được tốt lành để tu hành. Anh cũng không nên bận tâm đến việc không có tiền, nếu anh muốn có hương hoa để cúng Phật sẽ có người đem cho. Trân trọng thay! Tâm Bồ đề tối cao vô thượng của anh!”.

Thiên Chủ nói xong liền biến mất. Thường Đề vừa kinh sợ vừa vui mừng, mặc dù việc bán huyết không thành công nhưng nội tâm chàng rất an ổn hoan hỷ. Do vì chí hạnh kiên cố của chàng nên mới có sự cảm ứng dị thường đó.

Việc bán thân và chích huyết của Thường Đề được một nữ trưởng giả giàu có tình cờ trông thấy. Bà rất lấy làm khâm phục cảm động và tự nguyện hỗ trợ chàng đi đến thành Chúng Hương. Bà hứa sẽ cung phụng hết thảy tiền của vật dụng lên Bồ Tát Pháp Thượng và đại chúng trong hội Thanh niên Phật giáo theo ý muốn của Thường Đề. Bà cũng phát tâm học Phật, khuyên các thị nữ hầu cận bên mình đồng theo Thường Đề quy y Tam Bảo, nghe pháp Bát Nhã và thân cận Pháp Thượng thiện tri thức. Điều này khiến Thường Đề rất lấy làm cảm động, phấn khởi, chàng liền chấp nhận sự hỗ trợ và nguyện vọng của nữ trưởng giả, đồng thời chàng cũng tổ chức thành một đoàn người cầu pháp. Nữ trưởng giả đem theo rất nhiều vàng bạc châu báu và mua sắm đầy đủ các thứ hương hoa, phẩm vật cúng dường, chở trên các cỗ xe, hướng về thành Chúng Hương.

4.- Trên hội Bát Nhã, vui mừng thành công

Thành Chúng Hương là nơi giáo hóa thù thắng của Đức Phật. Trong thành kiến thiết trang nghiêm không thể tả. Đường phố bằng thẳng, không một chút bụi dơ, bốn phương tám hướng nhà cửa dân chúng ở san sát nhau. Lâu đài điện các trang hoàng bằng thất bảo, cờ xí giăng khắp mọi nơi. Chim hót líu lo, hoa hương thơm ngát khắp nơi. Du khách mặc tình dạo chơi tại các công viên hoặc bơi lội thỏa thích trong các ao hồ. Dân chúng người người thân tâm khỏe mạnh thơ thới, sinh hoạt rất hòa thuận vui vẻ. Nét đặc sắc của thành Chúng Hương, nơi Phật giáo hóa, thế đất sung mãn hẳn ra.

Trụ sở hội Thanh niên Phật giáo rất nguy nga tráng lệ, tọa lạc tại khu trung tâm của thành. Bồ Tát Thường Đề hướng dẫn đoàn cầu pháp đang trên đại lộ tiến vào thành. Xa xa đã trông thấy người người nô nức đi đến chỗ hội Thanh niên Phật giáo thành một biển người di động, khiến đoàn cầu pháp của Thường Đề càng thêm phấn chấn, họ hòa trong dòng người để cùng tiến đến pháp hội. Nơi thuyết pháp là một giảng đường rộng lớn, ở giữa thiết kế hai tòa đại bửu cao lớn. Một tòa là nơi cúng dường Kinh Bát Nhã để mọi người chiêm ngưỡng lễ bái. Còn tòa kia là nơi Bồ Tát Pháp Thượng an tọa giảng Kinh Bát Nhã. Thính chúng trong ngoài giảng đường thật đông đảo nhưng không khí rất yên tĩnh, một tiếng động nhỏ cũng không có, cảnh tượng thật là trang nghiêm kính cẩn. Giảng đường tuy rộng lớn nhưng pháp âm rất rõ ràng khiến người người đều nghe được hết.

Thường Đề hướng dẫn đoàn tiến vào một góc giảng đường, yên lặng lắng nghe. Đến khi Bồ Tát Pháp Thượng tuyên giảng xong, chàng mới dẫn đoàn vào thăm hỏi lễ bái, bày tỏ ý nguyện của mình, rồi dâng các báu vật và hương hoa cúng dường. Phẩm vật được chia làm hai phần, một phần cúng dường Kinh Bát Nhã và Bồ Tát Pháp Thượng, phần còn lại dâng cúng cho hội Thanh niên Phật giáo, số vàng bạc có tới hàng vạn.

Bồ Tát Thường Đề rất khâm phục biện tài của Bồ Tát Pháp Thượng, liền thỉnh cầu ngài dũ lòng từ bi thâu nhận họ làm đệ tử, chỉ dẫn cách thức tu hành Bát Nhã và đạo Bồ Tát. Họ mong mỏi Bồ Tát Pháp Thượng nhận họ vào hội Thanh niên để nương tựa đức độ của ngài và tu học dưới sự hướng dẫn của ngài, họ khỏi phải sợ trái với hạnh nguyện Bồ Tát.

Những lời thỉnh cầu này đều được Bồ Tát Pháp Thượng hứa khả. Công việc hướng dẫn đoàn cầu pháp của Thường Đề đã thành công viên mãn, mọi người vui mừng khôn xiết, đồng thời họ cũng được quy y Tam Bảo dưới sự chứng minh của Bồ Tát Pháp Thượng, phát khởi tâm đại Bồ đề, lập nguyện lớn hành đạo Bồ Tát, vì cứu nhân độ thế mà hy sinh thân mạng, vì việc giải trừ hết thảy mọi khổ nạn cho chúng sinh mà phục vụ. Họ chính thức trở thành những tân học Bồ Tát được hết thảy mọi người trong cộng đồng hội tán thán ngưỡng mộ.

5.- Tán ngưỡng tên Thường Đề được lưu truyền

Trên thế gian này không có người nào không khóc, nhưng xưa nay khó kiếm được một người nào do khóc mà thành tên như Thường Đề. Bồ Tát Thường Đề sầu khổ không phải vì những tư lợi ích kỷ của sự nghèo khó, mà chính là vì thiên hạ muôn dân khổ nạn cho nên chàng mới thương tâm. Vì thấy chúng sinh cầu Phật pháp trên thế gian này không có bao nhiêu người, và không làm sao khiến cho lòng người sinh tín ngưỡng được, cho nên chàng mới khóc để tỏ bày tâm sự đau thương bất tận của mình.

Vậy nên có bài kệ ca ngợi rằng:

Kính lạy Thánh giả Thường Đề xưa,

Chẳng lo đói lạnh chẳng ưa tranh.

Chỉ nghĩ muôn dân bao khổ nạn,

Mong cầu Phật đạo cứu quần sinh.

Khóc để muôn dân bừng tỉnh ngộ,

Khóc cho Thần, Quỷ phải thất kinh.

Quy y Pháp Thượng tu Bát Nhã,

Mười phương thế giới mãi tên truyền.

BỒ TÁT THƯỜNG BẤT KHINH

Quá khứ có Phật, hiệu Uy Âm Vương, thần trí vô lượng, dạy đạo hết thảy, Trời, người, thần, rồng, quy kính cúng dường. Sau Phật diệt độ, lúc pháp sắp hoại, có một Bồ Tát, tên Thường Bất Khinh. Trong lúc tứ chúng, bàn luận về pháp, Bất Khinh Bồ Tát, đến nơi chỗ họ, nói lời như vầy: “Ta chẳng khinh người, các người hành đạo, sẽ được thành Phật”. Mọi người nghe rồi, khinh chê mắng chửi, Bất Khinh Bồ Tát, đều nhẫn nhục chịu.

Trích Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Phẩm Thường Bất Khinh

1.- Phật giáo ở vào thời Phật Uy Âm Vương

Thường Bất Khinh là một vị đại Bồ Tát xuất gia theo hạnh Bồ Tát, ra đời vào thời Đức Phật Uy Âm Vương thuộc về quá khứ rất lâu xa. Lúc ông ra đời thì Đức Phật Uy Âm Vương đã diệt độ lâu rồi, giáo pháp do Đức Phật lưu truyền lại thế gian, chính pháp đã diệt tận, tượng pháp cũng đang ở vào giai đoạn suy tàn.

Lúc bấy giờ, tứ chúng Phật tử đối với việc tu học Phật pháp phần lớn xu hướng truy cầu theo danh lợi từ chương, chấp trước vào văn tự, cạnh tranh theo hình tướng bên ngoài. Họ cho sở học sở hành của mình là tối thượng tối thắng, lời nói việc làm của mình là tối diệu tối cao, lần lần trở thành một đoàn thể xu hướng tăng trưởng ngã mạn. Cho nên Phật pháp đương thời, về hình thức trông rất hoàn mỹ nhưng nội dung tinh thần thì không có gì, danh tự còn mà thật tướng mất. Mọi người mong mỏi có một nhân vật xuất chúng ra đời để phục hưng chính pháp. Trong lúc nguy cấp này, Bồ Tát Thường Bất Khinh đã xuất hiện. Ngài là bậc Thánh giả kiệt xuất đứng ra vận động canh tân hầu cứu nguy Phật pháp.

2.- Sự xuất gia của Bồ Tát Thường Bất Khinh

Bồ Tát Thường Bất Khinh ra đời vào thời kỳ tượng pháp của Đức Phật Uy Âm Vương đang suy vi. Đại sĩ do nhờ tuệ căn sâu dày, hiểu sâu chân lý đạo Phật, nhận thấy tứ chúng học Phật chỉ xu hướng đàm huyền thuyết diệu, truyền sai nghĩa lý Phật pháp, không coi trọng việc thực hành chứng quả. Điều này khiến cho Phật pháp đi đến chỗ suy vong, bởi vì Phật pháp không chỉ có học hiểu mà cần phải có hành thì mới có thể hoàn chỉnh và kiện toàn được. Đức Phật từng nêu rõ: “Hiểu và hành tương ưng, phước và huệ song tu”. Nếu chỉ chuộng đàm luận lý lẽ cao siêu về các cảnh giới Thánh hiền, mà coi nhẹ việc hành trì chân thật thì không những đưa Phật pháp đến chỗ suy vi, mà còn khiến cho hết thảy chúng sinh bị tổn hại rất lớn, làm mất đi lợi ích cứu tế chân chính của Phật pháp, làm mai một đi hiệu quả của việc cứu độ hết thảy khổ ách cho chúng sinh.

Thường Bất Khinh thấy rõ được nguy cơ của Phật pháp đương thời nên phát tâm rộng lớn muốn cứu vãn tình thế, lập chí uốn nắn lại thiên kiến của Phật tử, bèn xả tục xuất gia, gia nhập Tăng đoàn, lãnh lấy trách nhiệm trọng yếu là giữ gìn chính pháp, phát nguyện Bồ đề, tu hạnh Bồ Tát, phát dương tinh thần chân chất bình dị của Phật pháp. Sau khi xuất hiện một vị Bồ Tát xuất gia như thế thì tinh thần Phật giáo trở nên sinh động hẳn. Trong tứ chúng Phật tử đã từng có những sự tích hết sức bi tráng và cảm động lòng người, khiến Tăng tục xưa nay một lòng tôn sùng ngưỡng mộ, lưu truyền cho đến hiện tại của chúng ta vẫn còn tiếp tục noi theo mà học tập.

3.- Phản đối tư tưởng cũ chỉ chuyên đọc tụng kinh điển

Bồ Tát Thường Bất Khinh ứng theo thời vận mà sinh ra đời, ôm ấp hoài bão cứu vãn Phật pháp, chỉnh đốn những sai trái, cho nên sau khi xuất gia liền thực hiện việc vận động cách tân. Tứ chúng học Phật lúc bấy giờ thâm nhiễm tăng thượng mạn mà không biết, chuyên lấy việc đọc tụng, giảng thuyết, biên chép cho là Phật pháp, Phật pháp chính là đây, đây chính là Phật pháp. Những hạng tăng thượng mạn này chưa đắc nói là đắc, chưa chứng nói là chứng. Bồ Tát Thường Bất Khinh đầu tiên nhắm vào xu hướng học tập thiên kiến này là đưa ra tư tưởng mới “Không chuyên đọc tụng kinh điển” để cứu trị. Không chuyên đọc tụng kinh điển không có nghĩa là phế bỏ kinh điển, không cần kinh điển, mà là để cảnh tỉnh mọi người không nên cố chấp vào kinh điển mới chứng đắc Phật pháp. Phật pháp chân thật không phải là kinh điển, không phải là chỗ hay đọc tụng, mà Phật pháp phải từ trong chỗ hiểu thấu kinh điển để thực hành, nương theo sự thực hành mà chứng quả, có như thế mới khế nhập được chân lý của Phật pháp. Tư tưởng mới này khác hẳn với xu thế học tập đương thời, trái với luận điệu tín hành của đại chúng. Nó giống như một tiếng sét trên không làm chấn động tứ chúng Phật tử, cảnh tỉnh những kẻ mê mộng chấp trước vào văn tự. Bồ Tát Thường Bất Khinh dám vì Phật pháp mà rống lên tiếng rống của sư tử, chứa đựng đầy đủ tinh thần vô úy. Những người có tâm học Phật chân chính đã bắt đầu chuyển động, từ xu thế thiên kiến chuyên đọc tụng và giảng thuyết, nghiên cứu kinh điển đều chuyển qua hướng vận động mới này là lo gấp rút tu hành để liễu ngộ.

4.- Đề xướng phong cách mới bình dị, thật thà, một lòng một dạ thực hành

Việc vận động cách tân của Bồ Tát Thường Bất Khinh không chỉ nói hay bàn giỏi trên miệng lưỡi, không chỉ có lời kêu gọi vang dội mà thật ra trong ấy chứa đựng hành động rất thực tiễn. Có phải cái hành động thực tiễn ấy là một pháp khó hành trì và cực kỳ cao thâm rộng lớn chăng? Sự thật thì không phải như thế. Trái lại, phong cách mới này chỉ có “thực hành lễ bái” mà thôi, ai ai cũng có thể biết và thực hành được cả. Đối với những người biết đạo thì việc lễ bái trong Phật pháp là một việc tu hành rất bình thường. Thế nhưng vì sao Bồ Tát Thường Bất Khinh lại đặc biệt xem trọng và đề ra việc vận động cách tân Phật giáo? Bởi vì trong việc tu học Phật pháp, lễ bái là pháp tu hành cơ bản rất bình thường, nhưng người học Phật đương thời không có mấy người hiểu được ý nghĩa lễ bái một cách chân chính và có thể thực hành lễ bái một cách chân chính. Chỉ có Bồ Tát Thường Bất Khinh mới hiểu và hành được pháp lễ bái chân chính này. Bởi vì tứ chúng học Phật bấy giờ chỉ biết lễ bái, cúng dường, sùng kính Phật pháp, chỉ giỏi bàn luận Phật pháp mà xem thường mọi thứ, không biết mình bị rơi vào phong cách của kẻ tăng thượng mạn. Họ lại càng không biết việc thực hành lễ bái ở trong chỗ tầm thường, mà thực tế là không còn phân biệt cao thấp, chỉ có mỗi một vị bình đẳng, phát huy công dụng phá trừ ngã kiến, ngã mạn. Họ không biết hiểu là để hướng dẫn thực hành mà lại thiên về việc chuyên đọc tụng nghiên cứu, làm chướng ngại việc hiểu và hành, khiến cho hai việc không tương ưng, ngăn trở con đường dẫn đến Phật quả.

Cho nên Bồ Tát Thường Bất Khinh vì muốn thay đổi xu hướng thiên kiến này mà vận động đề xướng chỉ có một việc là thực hành lễ bái. Không những lễ bái Phật pháp, lễ bái các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni xuất gia, mà cho đến các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di tại gia cũng đều lễ bái. Loại chủ trương mới này là cung kính lễ bái một cách bình đẳng, giản dị, chân chất, thật thà, tức là hạnh thực tiễn của Bồ Tát. Chủ trương này đã ảnh hưởng đến những kẻ tăng thượng mạn, họ cảm thấy hổ thẹn và chuyển thái độ tranh cường xưng thắng, ngạo mạn quay về chỗ khế hợp bình đẳng của Phật pháp, hướng đến chỗ hiểu để mà hành, từ gần đến xa, từ cạn đến sâu, từ thấp đến cao, mở ra một phong cách học Phật mới là bình dị, thật thà và một lòng một dạ thực hành.

5.- Tuyên dương lý luận mới “Các ông sẽ thành Phật”

Bồ Tát Thường Bất Khinh không những “chỉ thực hành lễ bái” mà còn “cho đến xa thấy tứ chúng liền đến lễ bái”. Kiểu lễ bái này là cách lễ bình đẳng, không phân biệt cao thấp, thân sơ. Căn cứ vào lý luận gì khiến ông lại thực hành như vậy? Do vì Bồ Tát Thường Bất Khinh thể ngộ được thật tướng của các pháp là bình đẳng không sai khác. Hết thảy chúng sinh chỉ có hình thể sai biệt, trí ngu bất đồng, chớ thật tánh không có phân biệt nhân ngã, cao thấp, thân sơ. Theo pháp tánh này mà quán pháp tánh bình đẳng để tiêu trừ phân biệt chấp trước, mới có thể khế hội được thật tướng của chư pháp, chứng nhập thật tánh của chư pháp, tức là quả vị Phật.

Nhưng vì chúng sinh ngu mê sâu nặng, không biết quan sát thật tướng của các pháp. Hơn nữa, tứ chúng học Phật lại chấp trước vào văn tự Phật pháp, xem nhẹ việc ly ngôn chứng Phật tánh, cho nên mới rơi vào thiên kiến chỉ hay nói suông, khiến cho Phật pháp vô thượng mất đi tác dụng thực tế là cứu độ hết thảy khổ ách. Bồ Tát Thường Bất Khinh do nắm được căn bản Phật pháp cho nên đã phát động phong cách mới chỉ chuyên thực hành lễ bái, đề xuất khẩu hiệu “Tôi không dám khinh các người đâu”, tuyên dương lý luận mới “Các người sẽ thành Phật”. Người người đều có thể dùng lý luận thành Phật trên cơ sở pháp tánh bình đẳng này. Như vậy hết thảy chúng sinh ai lại không tôn kính tứ chúng học Phật. Một khi tứ chúng đã đi đến chỗ hiểu và hành đúng rồi thì tương lai chắc chắn sẽ thành Phật.

Do vậy khẩu hiệu “Tôi không dám khinh các người” và lý luận “Các người sẽ thành Phật” đã gây nên tác dụng rất lớn, làm thức tỉnh những kẻ mê chấp thiên kiến chuyên đọc tụng kinh điển, đả phá việc nói suông, ngăn trừ tăng thượng mạn, mọi người đã tự biết trân trọng lấy mình, tôn trọng kẻ khác, củng cố niềm tin và mong cầu thành Phật một cách khẩn thiết, khiến cho mình và người cùng nhau đi vào con đường Phật đạo một cách bình dị, thật thà, khoan dung và thanh thản. Lúc bấy giờ, có đến hàng vạn ức người được Bồ Tát Thường Bất Khinh cảm hóa bằng lời nói hoặc qua việc làm của ngài.

6.- Thực hành hạnh Bồ Tát dù bị chửi đánh cũng cam chịu

Bồ Tát Thường Bất Khinh không thích xu hướng cao đàm hoạt luận (nói giỏi luận suông) nên đã đề xuất tư tưởng mới là không chuyên đọc tụng kinh điển, không cầu thắng giải một cách thiên kiến mà chính bản thân mình chỉ thực hành lễ bái theo phong cách mới, không chấp trước vào ngã kiến ngạo mạn hơn người mà đề xướng khẩu hiệu “Tôi không dám khinh các người”, không phân biệt cao thấp mà tuyên dương lý luận mới “Các người sẽ thành Phật”. Tuy nhiên, hành động và lời hiệu triệu vận động cách tân này cũng bị giới Phật giáo đương thời phản đối kịch liệt và những kẻ học Phật các nơi cũng công kích dữ dội. “Không chuyên đọc tụng kinh điển” bị phê bình là “lìa kinh phản giáo”, là hành động của ma. “Chỉ thực hành theo phong cách lễ bái” bị chê là kẻ điên rồ, thần kinh rối loạn. “Không dám khinh các người” bị phỉ báng là cuồng vọng nói liều. “Các người sẽ thành Phật” bị chế giễu chê cười là giả mạo Phật tiên đoán ẩu. Không phải chỉ có những lời chê bai như thế đâu, mà còn có những kẻ phiền não thâm độc đánh đập, chửi rủa Bồ Tát một cách thậm tệ, đến nỗi người khác trông thấy còn chịu không nổi, vậy mà ngài lại chẳng hề có một chút tâm niệm oán hận hoặc bất bình nào cả. Trái lại, Bồ Tát Thường Bất Khinh lại coi những việc đả kích, đánh chửi này đã tạo thắng duyên cho mình thực hành và hoàn thành đạo Bồ Tát. Bởi vì người học Phật chân chính và tu hành đạo Bồ Tát không bao giờ ngồi đợi mọi việc sẽ đến, mà chính tự mình phải dấn thân vào mọi thử thách. Bị chửi rủa mà động tâm sân hận, bị chê bai mà sinh tâm hối hận, cái thấy về nhân ngã còn sâu dầy, cái tâm phiền não còn nặng nề thì có khác chi người phàm phu đâu! Trái với tinh thần Phật giáo thì làm sao hoàn thành được hạnh Bồ Tát! Bồ Tát Thường Bất Khinh nhờ có tuệ kiến chân thật này nên thực hành đạo Bồ Tát một cách rất chắc chắn. Do vậy mà sự vận động cách tân của ngài mới không bị khuất phục bởi mọi khổ nạn, trái lại còn có thể khắc phục một cách kiên định hết thảy mọi khổ nạn ấy. Đối với mọi thứ đả kích, ngài vẫn thẳng tiến một cách bi tráng để đạt đến thành công như nguyện.

Trong biểu hiệu vận động cách tân của Bồ Tát Thường Bất Khinh, từ việc lễ bái bình thường, tư tưởng không chuyên đọc tụng kinh điển, phong cách không khinh mạn mọi người, lý luận các ông sẽ thành Phật, cho đến bản thân bị đánh chửi hết thảy đều là thành tựu hạnh Bồ Tát. Sự hiện thân chân chính của Bồ Tát Thường Bất Khinh đã giải thích rõ ràng Phật pháp là gì? Thế nào là hạnh Bồ Tát?

Qua những sự tích giản lược về ngài Bồ Tát Thường Bất Khinh, chúng ta có thể rút ra được những bài học vô cùng quý giá.

7.- Chư Phật đồng khen ngợi Thường Bất Khinh

Tư tưởng, lời nói, hành vi và tác phong của Bồ Tát Thường Bất Khinh được các bậc tôn túc cao Tăng thời bấy giờ cho là rất bình thường và cạn cợt tợ hồ như không có một chút gì đặc biệt cao sâu và thâm áo, nhưng lại thành tựu hạnh Bồ Tát một cách vĩ đại. Vĩ đại ở chỗ là ngài đã một lòng một dạ thực hành hết sức bình thường chân thật. Từ trong chỗ một lòng một dạ thực hành này mà hiển xuất ra sự vĩ đại và cao thâm. Không chuyên đọc tụng kinh điển nhưng không phế bỏ kinh điển, lễ bái tứ chúng không có tâm phân biệt, không khinh mạn mọi người để trừ sạch hư ngụy, tôn trọng Phật tánh mãi mãi không thoái chuyển, nhẫn chịu đánh chửi không một chút động tâm. Hết thảy những biểu hiện chân chất thật thà này đã cho thấy được tính cách vĩ đại và cao thâm của Phật pháp, chứng minh rằng Phật pháp không phải ở chỗ kinh điển văn tự. Cho nên ngài không chuyên đọc tụng kinh điển mà vẫn hoàn thành hạnh Bồ Tát một cách vĩ đại là vậy.

Sự học Phật của Bồ Tát Thường Bất Khinh khế hợp với bản tâm thuyết pháp của chư Phật, cho nên các Đức Phật xưa nay đều hoan hỷ ca ngợi Tỳ-kheo Bồ Tát Thường Bất Khinh. Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đặc biệt giới thiệu về công hạnh tu hành của vị Bồ Tát này trong Kinh Pháp Hoa. Đến mãi tận đời vị lai Bồ Tát Thường Bất Khinh vẫn còn là tấm gương điển hình cho người tu hạnh Bồ Tát và là mô phạm cho tứ chúng học Phật.

THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ

1.- Học đạo từ Văn Thù và Phổ Hiền

Thiện Tài đồng tử là một thanh niên nổi danh do hành Bồ Tát hạnh kiệt xuất. Thiện Tài được cảm hóa và trực tiếp lãnh thọ sự dẫn dắt của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, qua đó được gián tiếp lãnh thọ ảnh hưởng hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền. Khi mới phát tâm Bồ đề hành Bồ Tát đạo, Thiện Tài rất ham học hỏi không biết mệt mỏi, một lòng một dạ thực hành chưa hề thối chuyển.

Văn Thù và Phổ Hiền là hai vị Bồ Tát nổi tiếng xưa nay trong Phật giáo, đều là bậc thượng thủ trong các Bồ Tát. Nơi pháp hội của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hai vị đồng tâm hiệp lực phò trợ pháp Đại thừa “Bi trí song vận” vô thượng thậm thâm vi diệu, thực hiện đạo Bồ Tát: Trừ cái khổ của chúng sinh và ban vui cho chúng sinh, đầy đủ bản hoài cứu nhân độ thế của Phật, từng bước cải tiến cõi nhân gian trở thành cảnh Tịnh độ.

Phật là bậc Thánh vô thượng đầy đủ đại bi đại trí, biểu hiện bi trí viên dung tùy cơ giáo hóa, dùng phương tiện dẫn dắt chúng sinh quy hướng Bồ đề, cho nên nói Phật là Vô thượng, lòng từ bi và trí tuệ sâu rộng khôn lường. Văn Thù và Phổ Hiền chưa được đầy đủ bi trí như Đức Phật, nhưng mỗi vị lại chuyên sâu một mặt, hai vị hợp lại có thể hiển thị đầy đủ công năng Đại Bi Đại Trí như Đức Phật. Chẳng hạn như nếu phân biệt về việc tuyên dương thì mỗi vị đều tự nêu cao bi và trí (mặc dù hai mặt mà một thể) của Đức Phật.

Do chỗ phân biệt tính chất đặc thù của từng vị cho nên trong hàng Bồ Tát các ngài được tôn xưng là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, thành ra phân thân đại bi và đại trí của Đức Phật, mỗi vị tùy theo nhiệm vụ riêng mà hành hóa tại nhân gian.

Đạo Đại thừa Bồ Tát là sự kết hợp, cấu thành của Bi, Trí rộng lớn vô biên, vốn chỉ là một thể mà không có hai. Dùng phương tiện mà nói thì mới có phân biệt Bi, Trí tương đối, trước sau sâu cạn chẳng đồng. Như nương nơi đại bi mà lập đại nguyện thì việc độ sinh lấy đại bi làm đầu. Như nương nơi đại trí mà thành đại hạnh thì việc giáo hóa lấy đại trí làm đầu. Không đại bi chẳng thể phát đại nguyện, không đại trí chẳng thành đại hạnh. Đại bi thâu nhiếp hết thảy hạnh nguyện cho nên thành hạnh Phổ Hiền. Người học đạo Bồ Tát phải lấy hạnh Phổ Hiền làm lý tưởng thực hiện. Hoàn thành hạnh Phổ Hiền cũng tức là hoàn thành bi đức của Phật. Đại trí thâu nhiếp hết thảy phương tiện, không có phương tiện thì chẳng thể độ sinh, không thành tựu được hạnh Bồ Tát. Cho nên người học hạnh Bồ Tát lấy trí Văn Thù làm mục tiêu, trí Văn Thù viên thành cũng tức là viên thành trí đức của Phật. Nếu như tổng hợp hai thứ ấy lại tức là tròn đầy Bi, Trí của Phật.

Việc thực hiện hạnh Bồ Tát tuy có phân ra Bi, Trí nhưng thực tế thì phải dựa vào nhau mà hành, nương vào nhau mà thành và cần phải có sự liên hệ nhất quán mới có thể hành Trung đạo Đại thừa viên dung vô ngại. Như người mù và người què nương nhau mới có lợi. Nếu đem tính nhất quán của Bi, Trí mà triển khai một cách máy móc thì cũng giống như đem người mù và người què tách riêng ra sẽ đi đến chỗ thất cách, hoặc là bất cập hoặc là thái quá, không thành tựu Trung đạo và cả hai đều không có lợi. Thiện Tài đồng tử học theo hạnh Bồ Tát cho nên phát sinh quan hệ mật thiết với ngài Văn Thù và Phổ Hiền, đó cũng là lý và thế tất nhiên của sự phát triển mà thôi.

Việc thực hành hạnh Bồ Tát của Thiện Tài đồng tử biểu hiện ở chỗ nghiêng nặng về đại trí, vì vậy cậu mới chịu sự chỉ đạo của Bồ Tát Văn Thù mà thực hiện một sự tham vấn rộng rãi. Thật ra, sự tham vấn đó cũng là mục đích hoàn thành đầy đủ hạnh Phổ Hiền rộng lớn, vì tham vấn tức là thực hành hạnh Phổ Hiền, không lìa hạnh Phổ Hiền. Nhưng nếu xét về mặt đại trí thì đó là tạm ẩn tàng cái bi hạnh mà nêu cái nghĩa thù thắng của đại trí, đề cao tính vô thượng của hạnh Đại thừa Bồ Tát, tròn đầy ánh sáng nơi pháp giới.

Việc thực hành Bồ Tát đạo của Thiện Tài chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp với Văn Thù và Phổ Hiền, vì sao lại phải triển khai? Điều này vốn xuất hiện trong sự tích tham vấn thiện tri thức liên tục của Thiện Tài đồng tử, nhưng bài văn này chỉ đề cập đến phần mở đầu trước khi Thiện Tài đi tham vấn mà thôi.

2.- Hội Phổ Chiếu Pháp Giới ở chùa Đại Tháp

Trong sự nghiệp lớn cứu nhân độ thế mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni kiến thiết, Văn Thù và Phổ Hiền cùng phân chia trách nhiệm gánh vác tuyên truyền và phát triển rộng rãi. Phổ Hiền lãnh đạo phần lớn thanh niên thuộc hội Hành Chứng (tu hành chứng quả) nghiêng về việc tu học thực hành, cho nên thường an định một chỗ. Văn Thù dựa vào biện tài vô ngại lãnh đạo phần lớn thanh niên thuộc đoàn Tín Giải (tin hiểu) xem trọng việc phát dương lý trí, cho nên thường lưu động tuyên truyền bốn phương. Hai ngài phân công hợp tác, phát huy nội tu ngoại hoằng của Phật giáo, tợ như hai mà lại chẳng phải hai, chiếu diệu khắp cùng thế giới, trải dài vô tận.

Có một lần, Văn Thù và Phổ Hiền cùng tham gia đại pháp hội Hoa Nghiêm với Đức Phật Thích Ca tại tinh xá Kỳ Hoàn, vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ. Sau đó, Văn Thù Sư Lợi lãnh đạo đoàn Tín Giải tạm thời từ biệt Đức Phật, chia tay với Bồ Tát Phổ Hiền, du hành về phương Nam, triển khai công tác hoằng truyền Phật pháp. Đoàn Tín Giải một khi đã ra đi thì không từ khổ nhọc, không sợ gian nan. Trải qua biết bao núi non, ruộng đồng, tiến về vịnh phía Nam của Ấn Độ, gặp một thị trấn tên gọi Phước Thành, họ dừng lại tại chùa Đại Tháp, nơi cánh đồng phía Đông của ngoại thành.

Chùa Đại Tháp là Thánh địa Phật giáo nổi tiếng, không những phạm vũ rộng lớn trang nghiêm, cảnh trí u tịch đẹp đẽ, phong cảnh thích hợp với người tu hành, mà nơi đây còn có các bậc Thánh thường đến giảng pháp. Vì thế khách du lịch từ các nơi đến thăm chùa hằng ngày. Trên các nẻo đường dẫn đến chùa, người người đến tham quan, lễ bái không ngừng.

Khi Bồ Tát Văn Thù dẫn đầu đoàn Tín Giải đến Phước Thành, dừng chân nơi chùa Đại Tháp. Chẳng mấy chốc, người trong ngoài Phước Thành đều nghe tin. Đã từ lâu người người vốn khát ngưỡng tinh thần truyền giáo và biện tài vô ngại của Bồ Tát Văn Thù, cho nên Phật tử và những người hâm mộ Phật pháp tấp nập rủ nhau đến chùa. Người thì lễ bái, kẻ thì thỉnh giảng pháp, hoặc phỏng vấn, hoặc chiêm ngưỡng, khiến cho không khí sinh động hẳn lên. Tinh thần của đại chúng rất phấn khởi khiến Bồ Tát Văn Thù và đoàn viên cũng phải bận rộn nhiều. Bồ Tát Văn Thù dự định kế hoạch, tuyên bố sẽ cử hành đại hội Phổ Chiếu Pháp Giới tại chùa Đại Tháp và tuyên giảng Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới trong bảy ngày. Điều này khiến người người vui mừng quá đỗi, thế rồi một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, truyền vạn làm náo động cả Phước Thành.

Pháp hội bắt đầu khai mạc, quang cảnh chùa Đại Tháp nhìn chỗ nào cũng thấy mới mẻ. Phật tử, đặc biệt là thanh niên nam nữ đến nghe giảng pháp rất đông không thể kể xiết. Giảng đường Phổ Chiếu Pháp Giới phải nới rộng thêm ra. Những người đến sau chỉ có thể đứng ở phía ngoài giảng đường.

Bồ Tát Văn Thù bắt đầu giảng pháp. Ngài thong thả bước lên pháp tòa, pháp tướng trang nghiêm, thái độ từ hòa, cặp mắt bình thản phóng ra ánh sáng trí tuệ vô lượng, khiến cho thính chúng đang nhốn nháo liền im lặng và an định. Lúc ấy muôn người lặng yên nhất tâm mong đợi, một hơi thở mạnh cũng không nghe. Diệu nghĩa Phổ Chiếu Pháp Giới chưa tuyên mà không khí trong ngoài hội trường đã hiển thị ra cảnh tượng Phổ Chiếu Pháp Giới.

Bồ Tát Văn Thù bắt đầu khai giảng. Khi đề Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới vang lên đã điểm trúng ngay lòng người đang ngưỡng đợi. Ngài khởi đầu bằng một giọng phạm âm thanh tịnh có tác dụng ảnh hưởng triệt để tới trong ngoài giảng đường, khiến cho nước tâm của thính chúng vô cùng lắng trong. Ngay lúc ấy, giáo pháp hiển hiện bên trong mỗi người mà vẫn dung thông vô hạn ngại, hỗ tương nhiếp nhập trong ánh sáng thanh tịnh huyền diệu mà không bị phân cách. Cũng giống như hàng ngàn ngọn đèn trong một ngôi nhà, ánh sáng ngọn đèn của mỗi người chiếu rọi lẫn nhau không ngại, đây thực là cảnh giới bất khả tư nghị. Sự tuyên thuyết đề Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới của Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đã phát xuất tác dụng bất khả tư nghị, khiến cho tinh thần của chúng hội cùng hòa nhập với nhau. Nhưng đây chỉ mới là sức gia bị của Đại Trí Văn Thù mà thôi, không phải là cảnh giới do thính chúng đạt được. Cho nên, vì muốn cho thính chúng có thể đạt được trí Phổ Chiếu Pháp Giới, Bồ Tát Văn Thù phải dùng đến phương tiện ngôn ngữ giải thích sâu cạn danh nghĩa đề Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới và tuyên giảng nội dung của kinh. Văn kinh không dài lắm, tương tợ như Tâm Kinh, nhưng nghĩa lý thì vô cùng tận, khắp hư không, đầy pháp giới cũng khó dung nạp được hết. Bồ Tát Văn Thù phát huy trí tuệ cao siêu và xảo diệu, khiến cho thính chúng tự mình lãnh ngộ được hỷ lạc của pháp vị. Diệu nghĩa Phổ Chiếu Pháp Giới trùng trùng vô tận, đưa thính chúng vào cảnh giới siêu việt, quên cả thân tâm lẫn thế giới bên ngoài. Chẳng biết thời gian là bao lâu, chợt nghe tuyên bố phần tiếp theo sẽ giảng vào ngày hôm sau, đại chúng như người trong mộng mới tỉnh, mọi người trở về với hiện thực. Sau khi Bồ Tát Văn Thù rời pháp tòa, họ mới sôi nổi bàn tán về pháp lạc chưa từng có và quyến luyến ra về.

Thời gian trôi qua như điện chớp, đại hội Phổ Chiếu Pháp Giới đã đến ngày cuối cùng. Người đến chùa Đại Tháp nghe kinh ngày càng đông đảo, họ ngồi đầy cả trong lẫn ngoài chùa thành cả một biển người. Có người đến vì để nghe kinh, cũng có người vì tôn sùng ngưỡng mộ đạo đức của Bồ Tát Văn Thù mà hấp dẫn đến.

Sau khi Bồ Tát Văn Thù giảng Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới hoàn tất, thính chúng hết lòng cảm tạ và chí thành đảnh lễ. Những vị chưa học Phật thì phát tâm quy y Tam Bảo, những người học Phật rồi thì phát tâm Bồ đề, cầu học đạo Bồ Tát, số nhiều không thể kể xiết. Lại còn số thanh niên đồng nam đồng nữ thuần khiết muốn gia nhập đoàn Tín Giải của ngài Văn Thù, đem nhiệt tâm dũng cảm vì pháp, vì người mà phục vụ, sinh lòng kính ngưỡng không bờ mé, sôi nổi phát tâm học Phật, tu tập Đại thừa Phật pháp. Trong số các đồng nam ấy, có một thanh niên tên gọi là Thiện Tài đồng tử, không biết dũng khí thế nào, đột nhiên tách chúng tiến đến gần trước mặt ngài Văn Thù trang nghiêm thỉnh cầu:

- Lạy đấng Diệu trí thanh tịnh như mặt trăng, lòng từ rộng lớn không bờ mé trùm khắp hết thảy, xin ngài dũ lòng thương chiếu cố đến con, lạy bậc vua trong hết thảy pháp giới, Pháp Bảo là hàng đầu qua lại không trở ngại, xin dũ lòng dạy dỗ con.

Bồ Tát Văn Thù quan sát Thiện Tài đồng tử thấy cậu tuổi còn trẻ, thân thể khang kiện, phong độ phi phàm, cử chỉ trang nghiêm, lời nói thành khẩn, biết là người đã sâu trồng căn lành. Lại thấy trong những ngày vừa qua, Thiện Tài rất chăm chỉ và say sưa nghe giảng pháp, nên ngài đáp ứng yêu cầu khai thị yếu nghĩa pháp Đại thừa, xong rồi lại còn khích lệ và an ủi nữa. Thiện Tài đồng tử được Bồ Tát Văn Thù khai đạo và khích lệ, thật là một sự vui mừng chưa từng có! Sau đó cậu mới cùng đại chúng rời khỏi chùa Đại Tháp.

Được tin Bồ Tát Văn Thù và chúng đoàn Tín Giải sắp rời đi hoằng đạo nơi khác, giới nhân sĩ Phật giáo ở Phước Thành chuẩn bị buổi tiễn đưa thật long trọng và nhiệt tình. Thiện Tài đồng tử cũng chuẩn bị tham gia buổi tiễn đưa tại chùa Đại Tháp.

3.- Điều khổ tâm và mất ngủ của Thiện Tài đồng tử

Trên đường từ chùa Đại Tháp trở về nhà, Thiện Tài đồng tử chợt khởi lên suy tư về những vấn đề liên quan đến việc làm người và việc học Phật của mình từ nay về sau như thế nào. Vấn đề tưởng chừng như thật đơn giản, nhưng càng nghĩ càng thêm rối rắm, đầu óc quay cuồng không thể an định được. Về đến nhà, Thiện Tài tìm một góc vườn hoa, ngồi yên lặng trên phiến đá trầm tư. Trời đã tối mà vẫn chưa thấy bóng dáng con, cha mẹ Thiện Tài vội vã đi tìm. Sau một hồi tìm kiếm, thấy con có vẻ mặt khác thường, ông bà vồn vã hỏi han con có tâm sự gì uẩn khúc không. Thiện Tài đồng tử biết cha mẹ mình không ưa muốn nghe những chuyện này, nên cậu không dám thố lộ, bèn tìm cách trả lời cho qua chuyện và xin phép trở về phòng nghỉ ngơi.

Thiện Tài đồng tử vốn là con của trưởng giả Phước Đức, là người giàu có vào bậc nhất ở Phước Thành. Cha mẹ già mới sinh được một mình cậu cho nên thương con như tính mạng mình. Vợ chồng trưởng giả Phước Đức từ trẻ đã nổi tiếng về việc kinh doanh buôn bán xuất khẩu. Trải biết bao nhiêu cay đắng khổ cực, do chí thú cần cù làm ăn, công việc kinh doanh ngày càng phát đạt, chẳng mấy chốc ông bà đã trở thành cự phú. Thế nhưng có một điều khổ não lớn lao, dù cho có bao nhiêu tiền của cũng không thể giải quyết được, đó là ông bà chưa có được người con nào cả. Vợ chồng trưởng giả vô cùng buồn rầu, lo lắng, tự nghĩ đến cái sản nghiệp đồ sộ của mình sau này sẽ ra sao? Hai ông bà vốn là người hiền lương, không thích làm giàu phi nghĩa, tu nhân tích đức, thường hay ưa bố thí, vui sướng làm việc thiện, được mọi người yêu mến và khen ngợi. Nhưng những điều này cũng không thể nào dứt trừ được tâm lo rầu của ông bà. Cho đến khi tuổi đã xế chiều, sự mong mỏi tưởng chừng như đã tuyệt vọng, thì “Nhà tích thiện ắt có vui thừa”, ông bà đã sinh được một người con trai, khiến cho tâm ưu sầu như lửa đốt đã bao năm nay của vợ chồng trưởng giả Phước Đức mới được mát mẻ.

Tin ông bà trưởng giả Phước Đức sinh con trai lan truyền nhanh chóng, thân thuộc bạn bè đến thăm hỏi chúc mừng không ngớt. Đứa bé có nước da sáng, tinh thần quang minh khác thường, trông không giống những đứa trẻ khác. Thấy mọi người trầm trồ khen ngợi con mình, hai ông bà vô cùng sung sướng và cho biết rằng: “Khi cháu vừa mới sinh ra đời, trong nhà bỗng có thêm nhiều kho của mới, các thứ báu vật tự nhiên được đầy nhà”. Mọi người nghe nói về điềm lành này lại càng hân hoan chúc mừng vang rân. Do điềm lành mà cha mẹ, thân thuộc, cùng thầy tướng giỏi đều gọi cậu bé là Thiện Tài đồng tử.

Thiện Tài đồng tử sinh ra trong cảnh giàu sang sung sướng, được cha mẹ hết lòng thương yêu quý mến. Đồng tử lớn rất nhanh, thân hình khang kiện, tài giỏi xuất sắc, linh hoạt và ngay thẳng thật thà, có tư tưởng, tình cảm rất phong phú, ý chí hoài bão cao thượng. Nhờ tiếp nhận sự giáo dục thực tế liên tục nên đồng tử có được một tính cách phi phàm, đó cũng là động lực và nhân tố cơ bản để cậu học Phật và tu Bồ Tát đạo.

Thiện Tài đồng tử tuy mang tên Thiện Tài nhưng cậu lại hoàn toàn không thích tiền tài danh vọng. Cậu nhận thấy cha mẹ mình suốt đời cứ phải bận rộn, lo toan việc buôn bán làm giàu, phải chịu biết bao cay đắng cực khổ để có được sản nghiệp to lớn, nay tuổi đã già mà vẫn còn cố gắng làm giàu, mong cho con cái sau này được sung sướng. Nhưng tiếc thay, khi vô thường đến có ai đem theo được một chút gì đâu, chỉ có bi thương khổ não mà thôi. Thiện Tài lại nhận thấy mọi người ở Phước Thành cũng đều giống như cha mẹ mình không khác, cho dù giàu hay nghèo ai ai cũng đều bận rộn lo toan về của cải tiền bạc. Không những thế, họ còn vì tiền của mà tranh giành lẫn nhau, khéo léo để chiếm đoạt, trộm đêm cướp ngày, gây bao tội ác về sát, đạo, dâm, vọng mà không nghĩ đến tình người và pháp luật. Tuy có khác biệt về thân phận giàu nghèo, sang hèn, nhưng hành vi tâm tánh thì phần nhiều đều giống nhau. Có điều kỳ quặc là người chưa giàu thì cầu cho được tiền của thật nhiều, nhưng người đã giàu có rồi thì lại mong cầu tiền của càng thêm nhiều nữa.

Thiện Tài đồng tử lại nhận thấy một điều nữa là người ở Phước Thành, không luận là nam nữ, già trẻ, phú quý, bần tiện, ai ai cũng đều chán ghét và buồn bã sợ hãi đối với hiện tượng sinh, lão, bệnh, tử, một ngày nào đó bất chợt nó đến, không một ai tránh khỏi hoang mang rối loạn, mặc cho khổ não đẩy tới chỗ tử vong. Suốt cả cuộc đời đều chỉ vì bản thân, vì gia đình, vì tiền của, rồi rốt cuộc cũng trở về con số không, đây là chân tướng của người đời ở Phước Thành, nhưng có lẽ nhân loại trên thế giới cũng chẳng khác gì hơn!

Thiện Tài nghĩ đến mình, nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến tài sản của cha mẹ, nghĩ đến người ở Phước Thành, nghĩ đến con người trên thế giới, thật là thăm thẳm mờ mịt. Tư tưởng và tình cảm phát sinh về mình, về mọi người và tất cả nhân loại của Thiện Tài thật là phong phú biết bao. Không những trong giới thanh niên khó gặp được một người như cậu mà ngay cả đến hàng lão niên cũng chẳng có mấy người được như vậy.

Thiện Tài lại nghĩ: Vì sao người đời lại không biết phân biệt về định luật hữu vô mà cứ đeo đuổi, truy cầu danh lợi, phú quý không có lúc nào nghỉ ngơi, vĩnh viễn chẳng có lúc nào cho là đã đầy đủ, lẽ nào đây lại là chân ý nghĩa của người đời?

Nếu đây là lý tưởng tối cao của họ, thì tại sao khi khổ não và tử vong đến họ lại hoang mang và bi thương khôn xiết?

Thiện Tài tìm cầu giải đáp nơi học vấn, nghiên cứu tư tưởng của các tôn giáo nhưng cũng chỉ lãnh hội được đôi chút mà thôi. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiện Tài có phần tiến triển hơn, ý niệm tìm cầu cũng thâm thiết hơn, phạm vi nghiên cứu cũng rộng lớn hơn. Nhờ vậy, khi Thiện Tài tiếp xúc với Phật giáo liền phát sinh sự hứng thú rất lớn, phàm chỗ nào có pháp hội diễn giảng, Thiện Tài đều bỏ tất cả mọi việc để đến tham dự. Chùa Đại Tháp cũng là nơi cậu thường đến.

Thiện Tài quan niệm rằng: “Phật pháp khó nghe nên việc cầu pháp là đệ nhất”. Do đấy, đối với Phật pháp, Thiện Tài rất siêng năng chăm chú lắng nghe và tiếp nhận được nhiều điều hay. Như đối với người đời vì sao cầu tiền của không chán, vì sao bị sinh, lão, bệnh, tử, Phật pháp có rất nhiều lý giải hợp lý. Càng suy nghiệm sự việc con người đời hiện tại, cậu càng tăng thêm sự tín tâm, đối với Phật pháp càng sinh khởi lòng ngưỡng mộ không chán, đối với nhân sinh cũng có những hy vọng mới, không còn là sự bao la mờ mịt nữa.

Thiện Tài nhận rõ dục vọng của con người không bao giờ đủ, sinh, lão, bệnh, tử thường xâm chiếm bức bách, không ngoài sự tạo thành của “ngu si che đậy và lửa tham sân lẫy lừng”. Nhân loại bị che phủ bởi ngu si hắc ám, không rõ được hết thảy người vật tồn tại là do các duyên giả có hư vọng không thật, nên đã sinh khởi tâm ái trước tham cầu không chán, nếu chẳng được như ý thì sinh ra sân hận. Trong tâm loài người có hai thứ lửa là tham lam và sân hận không ngừng bừng cháy, càng ngày càng cháy mạnh, có muốn dập tắt cũng không phải dễ. Chẳng hạn như chỗ mong muốn của con người là “tiền của không bao giờ chán”. Ngu si là nhân, tham sân là duyên, tạo nên các thứ nghiệp, thọ quả khổ sinh, lão, bệnh, tử, đấy là lý do mà người đời phải chịu khổ.

Thiện Tài biết chắc Phật pháp có những phương pháp triệt để nhằm giải trừ sinh, lão, bệnh, tử, hơn hẳn các học thuyết và tôn giáo khác tự cho là cứu cánh, là thù thắng. Thiện Tài thường thân cận nhiều bậc Thánh của Phật giáo, cậu rất khâm phục các ngài thông đạt chân đế về thế gian vô thường, khổ, không, vô ngã. Trong việc chuyên tu giới, định, huệ, các ngài đã trừ sạch tận gốc rễ độc hại ngu si tham ái và sân hận, đạt được niềm vui tịch diệt giải thoát sinh tử. Đây cũng là nguyên nhân lớn khiến cho Thiện Tài sinh tâm ngưỡng mộ Phật pháp.

Thế nhưng, Thiện Tài lại nghĩ rằng tự mình được giải thoát sinh tử, còn cái khổ não sinh tử của người khác chưa tiêu diệt được thì làm sao? Chẳng lẽ lại không quan tâm đến ư? Cho nên, đối với Phật pháp, nhất là pháp Tiểu thừa chỉ cầu giải thoát sinh tử cho bản thân mình, Thiện Tài vẫn cảm thấy có chỗ chưa được thỏa mãn cho lắm.

Nhưng từ khi được nghe Bồ Tát Văn Thù tuyên giảng Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới tại chùa Đại Tháp, Thiện Tài cảm nhận được sự an vui rộng lớn không thể nào diễn tả hoặc thí dụ cho được. Do vì Kinh Phổ Chiếu Pháp Giới tuyên dương diệu pháp Đại thừa vô thượng là nêu tánh vô tận bảo tạng. Pháp giới là khắp tất cả, không một pháp nào không ở trong pháp giới. Phật pháp cùng pháp giới tương thông, khổ vui tương cộng. Nhưng phải có trí lớn rộng khắp mới có thể thấu suốt điều này, mới có thể khế chứng và hiển xuất được diệu dụng vô biên, thành tựu hết thảy chúng sinh, trang nghiêm quả Phật vô thượng. Ngài Văn Thù Bồ Tát đã tóm lược rằng: “Muốn cầu viên thành quả Phật phải phát tâm Bồ đề, tu hạnh Phổ Hiền, rộng cứu pháp giới chúng sinh. Muốn hoàn thành việc thoát ly khổ hải của chúng sinh trong pháp giới cần phải tu cho được trí Phổ Chiếu Pháp Giới”.

Điều này quả rất hợp với lý tưởng của Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài vô cùng xúc động và muốn cầu thêm Phật pháp quý báu, nên khi pháp hội kết thúc, cậu liền đến trước Bồ Tát Văn Thù tha thiết thỉnh cầu, được ngài khai thị bằng một câu ngắn, nhờ vậy Thiện Tài gặt hái được những pháp lạc vô lượng. Nhưng nay mai Bồ Tát Văn Thù lại phải hướng dẫn đoàn đi nơi khác, biết đến ngày nào mới trở lại đây? Từ nay về sau biết chỗ nào mà nghe pháp? Thiện Tài vô cùng rầu rĩ, vì cậu còn nhiều điều băn khoăn, mong muốn được hiểu thấu đáo. Như đã phát tâm Bồ đề rồi, lại phải học đạo Bồ Tát và tu hạnh Phổ Hiền như thế nào? Con đường học đạo Bồ Tát rất rộng rất dài, mà ngài Văn Thù mai này sẽ ra đi rồi biết học ai đây?

Lại nữa, Thiện Tài mong muốn được gia nhập đoàn Tín Giải của Bồ Tát Văn Thù để có thể tùy lúc mà thỉnh cầu giáo pháp, nhưng không biết là có đủ điều kiện để gia nhập không? Có đủ tiêu chuẩn hay không? Bồ Tát Văn Thù có đặc biệt linh hoạt cho không? Ngày mai họ đi rồi, thời gian thật là cấp bách, không còn cơ hội để tham khảo nữa, tâm của Thiện Tài rối loạn như kiến bò trên nồi lửa.

Thiện Tài lại nghĩ: Người phát tâm Bồ đề chẳng phải phát rồi là xong. Nếu như muốn hành đạo Bồ Tát, phải thực hiện các công tác, quyết không thể ở nhà mà làm Bồ Tát được. Ly gia để cầu pháp, vì người, đây là việc phải làm. Thế nhưng cha mẹ không đồng ý, không cho phép thì biết phải làm sao đây? Nếu lén lút ra đi thì cha mẹ đau lòng lại mang thêm tội bất hiếu. Vậy thì làm thế nào để tốt đẹp cả đôi bên đây? Rồi... càng nghĩ càng thêm rối rắm.

Đêm đã khuya mà Thiện Tài vẫn còn trằn trọc, thao thức, chưa tìm ra được cách giải quyết vấn đề, khiến Thiện Tài vô cùng khổ tâm. Đây cũng là một điểm rất đặc biệt mà Thiện Tài đồng tử không giống với người thường, vì điều khổ tâm và mất ngủ của cậu tuyệt đối không có chút liên quan gì đến việc thăng quan hay phát tài như người đời thường để tâm đến.

4.- Niềm vui và nỗi buồn của buổi tiễn đưa

Suốt một đêm thao thức suy tư, quá mệt mỏi, Thiện Tài thiếp đi lúc nào không hay, đến khi chợt tỉnh thì mặt trời đã lên khá cao. Sợ bị chậm trễ trong buổi tiễn đưa, Thiện Tài bỏ cả bữa điểm tâm, liền từ biệt cha mẹ, vội vã lao ra lộ, dốc sức chạy về hướng chùa Đại Tháp. Thiện Tài tuy bị mất ngủ suốt đêm, nhưng vì là thanh niên tràn đầy sinh lực và nhiệt tâm cho nên gương mặt cậu không có một chút gì biểu hiện sự mệt mỏi vì mất ngủ. Điều này chứng tỏ Thiện Tài có một sức lực mạnh mẽ vô hạn, cho dù bất kỳ khổ nạn nào cậu cũng đều có thể đảm đương được.

Sau khi pháp hội Phổ Chiếu kết thúc viên mãn, chúng đoàn Tín Giải của Bồ Tát Văn Thù nghỉ ngơi an vui, thoải mái tại chùa Đại Tháp. Sáng sớm, họ thức dậy sửa soạn hành lý rất đơn giản và chuẩn bị khởi hành. Họ đến và đi đều không báo trước, chỉ cốt hoàn thành công tác hoằng pháp, còn việc đưa đón không đáng quan tâm đến. Đối với họ, đến và đi cũng đều giống nhau, bởi vì pháp giới không có đến đi. Nói cái gì đến cái gì đi, chẳng qua là “Không đến mà đến, không đi mà đi”, hà tất phải đón chào nghênh tiếp hoặc tiễn đưa. Nếu chấp trước vào nó sẽ không hợp với nghĩa thật tướng của pháp giới, và cũng không phải là chỗ mong muốn của Bồ Tát Văn Thù. Nhưng có lẽ các đoàn viên sợ phạm lỗi vọng ngữ, nên khi có người hỏi đến họ phải nói rõ việc ra đi, vì thế mới xuất hiện câu tiễn đưa vui vẻ là: “Chân bất ly tục”.

Hội Phổ Chiếu Pháp Giới lần đầu tiên được cử hành tại Phước Thành quaû là một điều rất khó gặp, nên người nghe lãnh hội được pháp vị vô thượng rồi thì không thể không cảm niệm ân đức giáo hóa. Không biết thì thôi, một khi đã biết đoàn ra đi mà không đến tiễn đưa thì hóa ra mình xem nhẹ tình người lắm sao? Vậy làm sao có thể phát ra cái tâm lớn là: “Báo chúng sinh ân, hành Bồ Tát đạo”? Cho nên chúng đoàn của Bồ Tát Văn Thù tuy không muốn được tiễn đưa, nhưng những người nghe kinh lại thành tâm và nhiệt tình đến tiễn đưa. Do vậy buổi tiễn đưa này không thể xem như một cuộc náo nhiệt tầm thường, lại càng không thể đem tâm tưởng của thế tục, dùng thước đo trang sức bên ngoài mà sánh với tâm thành của những người nghe kinh đến tiễn đưa.

Chúng đoàn Tín Giải thấy người đến tiễn đưa càng lúc càng đông, không nén được tâm tình biểu hiện ở chỗ “chân bất ngoại tục” tùy hỷ tiếp đãi, lộ vẻ vui tươi mà “hằng thuận chúng sinh”. Đoàn viên đều là những thanh niên hoạt bát chân chính, cùng với đồng nam đồng nữ tại Phước Thành hợp lại như một gia đình đạo. Họ lưu luyến chúc tụng nhau biểu hiện lòng mong muốn vô hạn: “Tứ sinh cửu hữu, đồng đăng hoa tạng huyền môn. Bát nạn tam đồ, cộng nhập Tỳ lô tánh hải”. Các vị lão niên thì ân cần thăm hỏi Bồ Tát Văn Thù bao giờ mới trở lại chỉ dạy cho họ biết cách tu hành để thoát khỏi biển khổ sinh tử. Có người chưa kịp đợi Bồ Tát Văn Thù trả lời đã rơi lệ ròng ròng. Những người già biết rằng ngày tháng qua mau, mạng sống chẳng còn được bao lâu nữa, trong khi tâm linh thì trống rỗng, đầy lo lắng, làm sao có được một vị đại Bồ Tát thường xuyên khuyến khích chỉ dạy đây? Thanh niên tuổi còn trẻ, sức còn mạnh thì tràn đầy hy vọng, nhưng điều khiến họ tiếc nuối là đoàn Tín Giải chuẩn bị đi một số nơi mà họ không được tham gia vào các công tác Phật sự ấy. Họ mong đợi đoàn Tín Giải sẽ trở lại, lãnh đạo họ phát dương tinh thần Phật giáo tại Phước Thành. Họ rất tự tin ở niềm hy vọng này không phải là hụt hẫng. Cũng có một số thanh niên không ngăn được nỗi buồn ly biệt đã than thở rằng: “Không đến thì thôi! Mới đến đã lại đi rồi, như vậy làm sao người ta chịu được!”. Khiến cho một trận cười chân thành vang lên. Những thanh niên thẳng thắn, nói năng bộc trực không thể so sánh với lời nói thận trọng của các bậc lão niên được.

Thiện Tài đồng tử cũng sớm đến chùa Đại Tháp, mong muốn được thỉnh vấn những điều còn vướng mắc trong tâm, nhưng vì Bồ Tát Văn Thù đang bận rộn tiếp đãi những người đến đưa tiễn, lễ kính, từ biệt, khiến cậu không làm sao có cơ hội để thưa hỏi. Thiện Tài chỉ có thể chen lấn trong đám người, đến trước mặt Bồ Tát Văn Thù, thành kính lễ lạy tiễn đưa để biểu thị tâm thành của mình. Thiện Tài lắng nghe những tiếng than thở bi ai, sầu than, vui cười đan quyện vào nhau cũng giống như cảnh vô ngại pháp giới hiện tiền vậy.

Mọi người đến tiễn đưa đều hy vọng sẽ có được một trận mưa pháp lợi lạc cuối cùng, cho nên đã giảm bớt phần từ biệt và thỉnh cầu Bồ Tát Văn Thù, trưởng đoàn Tín Giải tặng lời tiễn biệt. Bồ Tát vì muốn làm thỏa mãn điều mong cầu và tâm nguyện của tứ chúng, liền nói lời tặng rằng:

“Phật pháp không đến đi, phương tiện có hợp có tan, nhưng nếu thường nghĩ Tam Bảo thì Tam Bảo liền ở trong mọi người, mỗi niệm nhớ Tam Bảo, Tam Bảo liền theo niệm mà đến, có lúc nào xa lìa chúng ta đâu. Giả sử tâm không nghĩ Tam Bảo, Tam Bảo dù ở tại trước mặt cũng như tận chân trời xa thẳm. Người đời có câu rằng: “Gần mặt mà xa cách lòng” là vậy. Mong tất cả quý vị đừng nên bận tâm đến việc đến hay đi của chúng tôi. Tất cả quý vị tinh tấn học Phật thì tinh thần của chúng ta vĩnh viễn khế hợp nhau, cũng là vĩnh viễn ở cùng một chỗ. Học Phật như vậy, Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo luôn luôn gia hộ cho chúng ta, phiền não đoạn diệt, thân tâm mát mẻ, tự tại và an vui, há không phải là hạnh phúc lắm sao?”.

Lời khai thị tinh yếu và ngắn gọn này khiến cho ngọn đèn tâm của hội chúng như được đổ thêm dầu liền phóng ánh sáng lớn, những tăm tối u ám trước đây đều tan biến không còn dấu tích, tiếng vỗ tay vui mừng vang lên như sấm, thể hiện sự thỏa mãn cao độ của niềm vui nghe pháp.

Tiếp đến đại chúng xếp thành hai hàng, tuần tự tiến ra trước cổng chùa. Văn Thù Bồ Tát hướng dẫn đoàn cùng chắp tay, dàn thành một đội hình giống như chim nhạn rồi từ từ hướng về phía Nam mà tiến bước. Đại chúng hoan hô vang dậy, chờ cho đến khi hình ảnh của đoàn Tín Giải mờ dần và mất hút hẳn, đại chúng mới chịu ra về.

Tiếng chuông trống công phu chiều đã ngân vang. Ánh dương khuất dạng sau rặng núi phía Tây, hắt những tia sáng cuối cùng lên đỉnh điện của chùa Đại Tháp, giống như một lớp vàng lá lấp lánh mới được phủ lên đấy. Hiện tượng này cũng chẳng khác gì việc Thánh giả Văn Thù tuy ra đi nhưng vẫn còn lưu lại ánh sáng trí tuệ Phổ Chiếu Pháp Giới để cho mọi người đều ngưỡng vọng suy tư.

5.- Trong rừng vắng dưới ánh trăng, bày tỏ tấm lòng và tình cảm của mình

Vầng trăng lung linh trên nền trời phía Đông, gió hiu hiu thổi. Cái không khí náo nhiệt ban ngày nơi chùa Đại Tháp đã được ánh sáng thanh tịnh phủ khắp, thanh khí tràn đầy, toàn thể cảnh vật núi rừng trở nên u tịch. Các thanh niên nam nữ đến tiễn biệt đoàn của Thánh giả Văn Thù đã trở về nhà. Lúc này không biết họ có ghi nhớ được chút pháp hỷ nào không? Hay là tâm của họ lại rong ruổi theo sắc đẹp, tiền của, ta người, phải trái rồi bị nó chiếm hữu? Điều này chỉ tự mỗi người biết lấy mà thôi. Thế nhưng dưới ánh trăng nơi phía trước chùa Đại Tháp lại còn một bóng người đang quanh quẩn nơi ấy, đó chính là Thiện Tài đồng tử.

Vì sao Thiện Tài đồng tử không trở về nhà? Lại còn không cho mọi người biết là mình lưu lại ở đây? Nhưng ở lại để làm gì? Thật là một người kỳ lạ hết sức! Bởi vì thâm tâm của Thiện Tài không bám víu theo người ở Phước Thành mà lại hướng theo đoàn người của Bồ Tát Văn Thù. Do cậu đã nhận thức được rằng: “Tự mình đã lãnh thọ sự chỉ giáo của Văn Thù Bồ Tát, âm thầm phát tâm Bồ đề, nhưng phát tâm rồi không phải là xong. Không thể ở nhà tại Phước Thành để chờ đợi thành Bồ Tát mà phải thực hành hạnh Bồ Tát. Điều này không thể tự cho mình là thông minh, vọng nghĩ việc mặc áo ăn cơm, ngủ nghỉ, làm việc chỗ nào cũng là đạo Bồ Tát. Đem so sánh việc mình làm với hành vi của các vị đại Bồ Tát thì thực ra mình chỉ là một kẻ phàm phu. Bồ Tát Văn Thù đã đi rồi, chẳng thể nói đạo Bồ Tát của mình đã hoàn thành, không có đạo Bồ Tát nào thành tựu một cách dễ dàng như vậy đâu! Nhưng nếu trở về nhà lại phải giúp đỡ cha mẹ trong việc buôn bán, điều này không thích hợp với tâm Bồ đề của mình cho lắm. Cha mẹ không hiểu, mình không thể oán trách được, nhưng mình cần phải chuyển đổi ước mong của cha mẹ, không để đánh mất tâm Bồ đề, trái ngược với đạo Bồ Tát. Làm thế nào có thể lợi ích cho chúng sinh, hoàn thành tâm nguyện cứu thế của mình đây?”.

Thiện Tài không tha thiết gì đến cái gia tài khổng lồ của cha mẹ, chỉ một lòng nguyện đem thân tâm, tánh mạng, vì người, vì pháp mà phát tâm đại Bồ đề. Với dũng khí và hoài bão lớn lao này, há không xứng đáng để nhân loại xưa nay hướng về khâm phục và ngưỡng vọng hay sao! Cũng có người cho Thiện Tài là đồ ngốc, nhưng điều này cũng chẳng tổn hại gì cả. Bởi vì sự ngây thơ, thuần khiết, nhiệt tình, dũng cảm và trí thông minh của cậu thanh niên này đã phát ra ánh sáng huy hoàng chiếu khắp mọi nơi. Thiện Tài lập nguyện kiên quyết không trở về nhà. Nhưng không trở về nhà mà ở lại trước chùa Đại Tháp để làm gì? Quanh quẩn trước chùa Đại Tháp mà chùa Đại Tháp không giúp đỡ gì cho Thiện Tài ngoài sự vắng lặng. Đi đi lại lại dưới ánh trăng, ánh trăng cũng không đồng tình cho Thiện Tài mà chỉ có thể chiếu ánh sáng thanh tịnh bao phủ toàn thân.

Con mắt tâm của Thiện Tài chợt sáng lên, cậu nghĩ đến đoàn của Bồ Tát Văn Thù chắc chưa đi xa lắm, họ cũng phải dừng nghỉ lúc về đêm, cứ lần theo dấu vết có thể sẽ tìm đến. Nghĩ như thế, tinh thần của Thiện Tài càng thêm phấn khởi, cậu liền rời khỏi chùa Đại Tháp, lần theo đường mà đi. Nhờ niềm tin vững chắc và sự hưng phấn, lại có sự trợ giúp của làn gió mát và ánh trăng thanh, Thiện Tài thẳng tiến về phía trước.

Quả đúng như ý nghĩ của Thiện Tài đồng tử, đoàn Tín Giải của Bồ Tát Văn Thù đã đi được khoảng ba mươi dặm và ngừng lại nơi rừng cây bên đường, nghỉ ngơi trên một thảm cỏ xanh. Trăng sáng vì họ xua đi những tối tăm, gió mát vì họ đuổi đi những muỗi mòng. Lúc họ tọa thiền hay kinh hành đều không bao giờ quên chính niệm. Riêng ngài Bồ Tát Văn Thù ngồi tọa thiền dưới gốc cây một cách khinh an tự tại.

Thiện Tài đồng tử đã tìm được đến nơi, lòng vui mừng không thể tả. Đợi một lúc cho hơi thở điều hòa, Thiện Tài định thần xong tiến đến trước Thánh giả Văn Thù cung kính đảnh lễ và bày tỏ ý nguyện của mình. Bồ Tát Văn Thù liền ca ngợi và an ủi rằng: “Lành thay công đức tạng! Có thể đến chỗ ta, phát khởi tâm đại bi, cần cầu Vô thượng giác”. Thiện Tài nghe xong, thân tâm có cảm giác rất mát mẻ thanh tịnh, mọi nhọc mệt, nóng nực đều tiêu mất. Thiện Tài bèn bộc bạch những vấn đề mà mình đang băn khoăn:

- “Kính bạch Bồ Tát! Làm thế nào để học hạnh Bồ Tát? Làm thế nào để tu hạnh Bồ Tát? Làm thế nào để có chí thú về hạnh Bồ Tát?... Và làm thế nào khiến cho hạnh Phổ Hiền mau được thành tựu viên mãn?”.

Thiện Tài giải bày một loạt các vấn đề một cách chân thành, mạch lạc. Thánh giả Văn Thù cảm động nói rằng: “Nếu có chúng sinh năng phát tâm A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề, là một điều rất khó, đã phát tâm rồi còn cầu Bồ Tát hạnh lại càng khó gấp bội lần”.

Thiện Tài đồng tử nghe lời khen ngợi và khuyến khích này cảm thấy an ổn và vui sướng vì mình không có chút sai phạm nào trong lời dạy của Thánh giả. Thiện Tài không những đã phát tâm Bồ đề rồi mà lại còn cầu Bồ Tát hạnh nữa. Nếu không như vậy mà chỉ ngu ngốc sống qua ngày với gia đình tại Phước Thành, không bị bậc Thánh mắng nhiếc e rằng chẳng có thể được như vậy.

Tiếp đến Bồ Tát Văn Thù khai thị những điểm chính cho Thiện Tài: “Này thiện nam tử! Nếu muốn thành tựu Nhất thiết trí, phải quyết định cầu chân thiện tri thức. Cầu chân thiện tri thức là cầu mong cho được yếu hạnh Nhất thiết trí của Đức Phật. Chân thiện tri thức mới có thể cho ta chân trí, chân kiến, cũng mới có thể đạt đến chỗ chân trí huệ, không đến nỗi đi vào nẻo tà, rơi vào chỗ tương phản với Phật trí. Cầu chân thiện tri thức là khai đường dẫn lối cho việc tu đạo Bồ Tát, rất trọng yếu không thể thiếu được. Học Bồ Tát hạnh mà không thân cận thiện tri thức, sẽ rơi vào chỗ sai lầm “đóng cửa làm xe” (làm theo chủ quan, bất chấp thực tế khách quan).

Ngoài ra còn phải có tâm “cầu thiện tri thức không sinh lười biếng”. Đối với thiện tri thức nên mong cầu càng nhiều càng tốt, mới có thể tăng trưởng trí tuệ liên tục. Cho nên phải “tiếp xúc với thiện tri thức chớ sinh lòng thỏa mãn”. Nếu như sinh lòng thỏa mãn thì trí tuệ sẽ không tăng trưởng, mãi mãi bị đình trệ nơi chỗ chướng ngại đạo. Lại khi thiện tri thức dạy bảo phải nên tùy thuận. Đây là tín điều tất yếu để cầu thiện tri thức. Trái lại, dạy mà không nghe, không tùy thuận làm theo, không những không có lợi ích cho mình mà cũng trái với ý chí thân cận thiện tri thức. Lại còn điều trọng yếu nữa là: Đối với thiện tri thức có phương tiện rất khéo léo, chớ nên thấy chỗ sai lầm. Bởi vì thân cận thiện tri thức là do mình chưa được đầy đủ, chưa biết hết mới phải cầu những điều lợi ích nơi thiện tri thức. Thân cận thiện tri thức, không phải là tìm kiếm những sai sót của thiện tri thức. Cho nên phải chú ý đến chỗ “phương tiện khéo léo”, nắm lấy những chỗ lợi ích cho mình, không nên soi mói những điều sai sót của thiện tri thức. Có như vậy mới hoàn thành việc học Bồ Tát hạnh, mong cầu đức hạnh nơi thiện tri thức”.

Từng chữ từng chữ của lời khai thị và chỉ đạo này đều khắc sâu vào tâm khảm của Thiện Tài mãi mãi. Sau cùng, Bồ Tát Văn Thù giới thiệu với Thiện Tài là ở phương Nam, nơi núi Diệu Phong, nước Thắng Lạc có Tỳ-kheo Đức Vân, là vị đại thiện tri thức nổi tiếng, nên đến đó học hỏi và thân cận. Đối với những câu hỏi “Làm thế nào để hạnh Phổ Hiền mau đạt được viên mãn?”, Thiện Tài đã lãnh hội được lời giải đáp như ý nguyện. Những lời chỉ giáo của Thánh giả, Thiện Tài đều nhất nhất tin nhận không nghi.

Thiện Tài hiểu rõ việc học đạo Bồ Tát, tu hạnh Phổ Hiền, yêu cầu đầu tiên là được trí tuệ quảng đại, điều này phải do thân cận thiện tri thức rất nhiều mới có thể đạt được. Thiện Tài rất cảm kích lòng từ bi của Bồ Tát Văn Thù đã khai đạo một cách thiết yếu và rõ ràng. Thiện Tài không còn phải bận tâm về vấn đề làm thế nào để tu Bồ Tát đạo. Thiện Tài hiểu rằng thân cận thiện tri thức là học tập việc bắt đầu của hạnh Bồ Tát. Có tin sâu vào việc này mới có thể giúp cho việc đi đến đạo Bồ Tát một cách tuyệt đối không sai sót, đem đến cho ta thiện xảo ứng tri, ứng hạnh vô biên, thành tựu hạnh nguyện vô thượng, trọn vẹn mục tiêu tối cao. Thiện Tài dường như đã thấy được con đường sáng phía trước, trong lòng sung sướng vô cùng, liền bái biệt Bồ Tát Văn Thù, trung thành với lời dạy thực tiễn của Thánh giả, không ngại khuya sớm, không ngại gian nan, tiến thẳng về dòng sông phía Nam bắt đầu kiếp sống tham phỏng học hỏi, triển khai bản lý lịch vinh quang trong việc tham cầu thiện tri thức của mình.

NGƯỜI BUÔN CHÂU BÁU

Căn cứ vào truyền thuyết Phó Pháp Tạng Nhân Duyên, theo lời ký của Đức Phật, sau khi Phật diệt độ khoảng một trăm năm thì vị Thánh thứ ba trụ trì Phật pháp là Thương Na Hòa Tu sẽ xuất thế.

Vị Thánh nhậm chức trụ trì Phật pháp đầu tiên sau khi Phật diệt độ là Tôn giả Đại Ca Diếp, đầu đà khổ hạnh đệ nhất. Theo truyền thuyết, những điều chứng ngộ và tuyên dương của Đức Phật là “Vô thượng thắng pháp”, “Thanh tịnh pháp”, “Vi diệu pháp”. Vì sợ rằng khi Phật diệt độ, người thọ lãnh mạng vận làm giáo pháp tiêu diệt khiến chúng sinh đời sau mãi mãi trầm luân nơi biển khổ, cho nên lúc sắp viên tịch, Đức Phật đặc biệt ân cần phó chúc cho Đại Ca Diếp: “Ta nay sắp Bát Niết bàn, đem pháp thậm thâm vi diệu giao phó cho ông, ông vì đời sau mà kính thuận lãnh thọ ý ta, rộng tuyên dương lưu truyền, đừng để bị đoạn tuyệt”. Thực tế, Đức Phật không phải chỉ phó chúc riêng một mình Đại Ca Diếp mà thôi, phàm đã là đệ tử Phật thì đều phải lãnh thọ như thế. Bởi vì tất cả đệ tử chỉ là một chứ không phải hai. Cho nên, không luận là phàm hay Thánh, hễ là đệ tử đều phải có trách nhiệm chung đối với việc trụ trì Phật pháp. Nếu như bảo điều này Phật chỉ nói cho Đại Ca Diếp thì đó là việc làm của một mình Đại Ca Diếp, còn các đệ tử khác xưa nay rất đông, có thể do không nghe, không hỏi, không nói đến họ cho nên họ không có trách nhiệm đối với sinh hoạt Phật giáo chăng?

Điều này quả là đã ngộ nhận tâm nguyện và lòng từ bi của Đức Phật. Bởi vì đương thời đệ tử Phật rất đông, Phật không thể phó chúc cho từng người được. Hơn nữa, trong đại chúng xuất gia, Đại Ca Diếp là một vị Trưởng lão Thượng tọa cao niên trong chúng, đức độ đầy đủ là bậc tôn kính trong Tăng đoàn. Cho nên Đức Phật chọn Đại Ca Diếp làm đại biểu trong Tăng chúng để giao sứ mạng cho ông, xem như là sự kiện rất trọng đại và tối hậu của Đức Phật và cũng là sự bàn giao một cách viên mãn vậy. Lúc ấy, Đại Ca Diếp cũng hiểu sâu sắc về bi nguyện quảng đại của Đức Phật, chí thành tiếp thọ lời dạy của Phật mà phát nguyện: “Lành thay lời dạy bảo! Con nay nguyện phụng trì Chính pháp, khiến cho đời vị lai được nhiều lợi ích, ngưỡng mong Thế Tôn chớ nên lo lắng”. Điều này có nghĩa là Đại Ca Diếp đại biểu cho tiếng lòng của đại chúng, hòa với lòng từ bi của Đức Phật, đã khẳng khái đảm đương không một chút đắn đo nghi ngờ gì cả, do vậy Phật mới an nhiên nhập diệt.

Sau khi Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Đại Ca Diếp lãnh đạo Tăng đoàn kết tập Tạng pháp của Phật, lưu bố nơi thế gian, khiến cho Chính pháp của Phật được truyền bá lưu chuyển không dứt. Cho đến khi tuổi ngày càng cao, không còn đủ sức đảm đương, Đại Ca Diếp mới đem trách nhiệm lớn trụ trì Phật pháp giao cho Tôn giả A Nan lãnh đạo, tự mình đến núi Kê Túc tại Ấn Độ “dùng cỏ làm tòa, kiết già mà ngồi”, “lấy định trụ thân, đợi Ngài Di Lặc”. Sau khi ngài Đại Ca Diếp nhập định tại núi Kê Túc, Tôn giả A Nan đối với sứ mạng trụ trì Phật pháp một lòng một dạ truyền bá, đến nơi nào cũng “du hành tuyên dương diệu pháp, giáo hóa chúng sinh khiến cho đều được độ thoát”. Một hôm, Tôn giả vào trong Trúc Lâm (rừng trúc) nghe một vị tân học Tỳ-kheo tụng bài kệ Pháp Cú: “Như người sống trăm tuổi, không thấy Thủy lão hạc, không bằng sống một ngày, mà thấy được hạc ấy”. Biết rõ đây là một sai lầm rất lớn, người sống được trăm năm không thấy được con hạc ấy đối với Phật pháp nào có liên hệ gì đâu? Không ngăn nổi thương tâm, Tôn giả liền đến trước vị ấy để chỉ bảo: “Lời tụng của nhân giả chẳng phải là bài kệ pháp của Phật, thật là lầm lẫn với lời tà giáo. Bài kệ Pháp Cú của Phật phải tụng như vầy: “Nếu người sống trăm tuổi, không hiểu pháp sinh diệt, không bằng sống một ngày, mà hiểu pháp sinh diệt”. Bởi vì người đời không biết được tính hư vọng sinh diệt của thế gian, bèn sinh khởi ái trước cho là chân thật mới tạo nghiệp rồi phải chịu sự thống khổ sinh tử, nếu như hiểu được tính hư vọng của pháp sinh diệt liền ngăn được ngã kiến tham ái chấp trước, khế nhập tính chân thật của pháp sinh diệt mới có thể giải thoát được thống khổ sinh tử, đây mới là chân Phật pháp, mới là mục đích trì tụng Phật pháp”.

Thế nhưng mấy ngày sau, vị tân học Tỳ-kheo ấy lại bỏ đi lời pháp kệ của Tôn giả chỉ dạy mà dùng nguyên văn lời tụng trước, lấy tà làm chính. Tôn giả bèn hỏi lại duyên cớ, mới được biết thầy của vị Tỳ-kheo này nói rằng: “A Nan đã già lão rồi, trí tuệ suy giảm nên lời nói lầm lẫn không thể tin được! Ông nay cứ như trước mà trì tụng”. Vị tân học Tỳ-kheo nghe theo lời thầy dạy bảo nên đã không dùng lời giảo chính của Tôn giả A Nan nữa.

Lúc này A Nan lấy làm thương xót muôn vàn. Tôn giả cho rằng Phật cách xa thế gian chưa bao lâu mà đã xảy ra tình trạng như thế này. Những bạn đồng học đã lần lượt qua đời, lúc ấy cũng khó có thể kiếm được một vị đồng học ở quá khứ để chứng minh cho câu kệ Pháp Cú do ngài nói lại là đúng không sai, điều này khiến cho A Nan cảm thương xiết bao! Ngài than rằng: “Buồn thay cho thế gian! Rất đáng thương xót! Nay Tỳ-kheo này, ta thân hành nói, lại theo lời tà, không nhận lời ta, biết tâm sự cùng ai đây!”.

Ngài nhớ lại lúc Phật tại thế, nhân có lần đến Ưu Đà Sơn, nước Ma Đột La, Phật có nói rằng: “Sau khi ta diệt độ sẽ có Tỳ-kheo tên Thương Na Hòa Tu từ núi này mà dựng Tăng già lam, thuyết pháp giáo hóa, làm lợi ích cho rất nhiều người”. Tôn giả A Nan biết nhân duyên trụ thế của mình đã hết, những chúng sinh có duyên với mình đã hóa độ xong rồi. Những chúng sinh chưa độ, đến lượt Thương Na Hòa Tu, như lời Phật ký, sẽ lãnh trách nhiệm trụ trì Phật pháp. A Nan liền cỡi thuyền vào khoảng giữa sông Hằng, hiện thần biến mười tám lần, sau đó lại độ tiên nhân Ma Điền Đề rồi nhập Niết bàn. Xá lợi của ngài được phân chia làm hai phần, một phần do vua A Xà Thế nước Ma Kiệt Đà, một phần do vua nước Tỳ Xa Ly giữ lấy để xây tháp cúng dường.

Thương Na Hòa Tu được Tôn giả A Nan độ cho xuất gia, ngài là một bậc thầy có nhiều cống hiến to lớn đối với việc hoằng truyền Chính pháp sau khi Đức Phật diệt độ khoảng một trăm năm.

Truyền thuyết về lai lịch của ngài rất siêu phàm. Vào đời quá khứ, ngài là một người buôn bán châu báu, rất khéo léo trong việc vào biển sâu tìm châu báu. Có một lần, vị thương chủ này cùng năm trăm người bạn đồng hành, chuẩn bị vào biển để tìm châu báu, chợt gặp một vị xuất gia tu hành mang bệnh rất nặng có thể nguy đến tính mạng, không một ai biết đó là bậc Thánh đã tu chứng quả Bích Chi Phật (người tu hạnh Độc giác, ra đời không có Phật tại thế). Vị thương chủ cảm nhận sự thống khổ vì bệnh tật của vị xuất gia tu hành, bèn khởi từ tâm, mời lương y đến chữa trị và hết lòng săn sóc thang thuốc. Những thương nhân như vậy chẳng những xưa đã ít có, mà cho đến ngày nay e rằng cũng không có nhiều lắm.

Cũng có kẻ hoài nghi rằng vì sao một vị đã chứng quả Thánh rồi lại còn bị bệnh nặng như thế? Nhưng họ đâu biết người xuất gia tu hành chủ yếu là đạt cho được tâm không khổ trong sự đau khổ của thân. Bởi vì thân thể là giả tướng tụ hợp của ngũ ấm, bản lai vốn không chân thật cho nên không ai tránh khỏi sự biến hóa của già bệnh cả. Duy có những người không nhận biết thân mạng là pháp vô thường bại hoại, nên khi căn bệnh đến họ mới thống khổ không chịu nổi, trong tâm sinh khởi lo âu phiền não vô hạn! Họ rất sợ hãi là vì hết thảy mọi thứ nơi thân sẽ vĩnh viễn mất hết, đầu óc bức bách như lửa đốt, thật là không dám nghĩ thêm điều gì nữa. Lúc đó mong mỏi có thể thành tiên, cho đến mong được thân kim cang bất hoại. Thế nhưng lại chê tiên đạo không đúng, mà còn cho Đức Phật cũng không linh nữa! Một số tà môn ngoại đạo lợi dụng nhược điểm này của người đời, dùng thủ đoạn để lừa bịp họ bằng các chú thuật trường sinh, bí quyết kim cang, gặp thần thấy quỷ, không ăn chẳng ngủ, chẳng những kẻ ngu không biết mà cho đến người trí thuộc thượng tầng xã hội thế gian phần nhiều cũng có tâm tín ngưỡng sùng bái cầu thầy học đạo. Họ quên rằng từ xưa tới nay, có ai sống mãi mà không chết đâu? Có thân là phải có khổ, làm sao mà lại không bệnh cho được. Có bệnh thì phải mời thầy thuốc đến chữa. Nếu như thọ mạng chưa mất, thuốc men cũng có thể diệt trừ một số thống khổ nơi thân. Cho nên bậc Bích Chi Phật đã chứng quả Thánh tiếp thọ sự trị liệu thuốc men cũng như mọi người, nhưng vì biết thân khổ không thể tránh khỏi nên tâm vẫn an nhiên không bị rối loạn, chẳng có sợ hãi ưu sầu khổ não. Đây là hiện tượng đã đạt được tâm giải thoát, thân khổ mà tâm không khổ, chỉ có bậc Thánh chứng được tính pháp không, vô thường, vô ngã mới đạt được như vậy. Do đó, mới giải thoát được sự trói buộc của sinh tử, không còn sinh tử nữa, thân tâm đạt đến cảnh giới an vui tịch diệt một cách cứu cánh. Cũng chính vì thế, cho nên người buôn bán châu báu này thấy vị Bích Chi Phật bệnh rất nguy kịch mà vẫn ung dung tự tại như không có việc gì xảy ra cả, tựa hồ như bệnh không làm gì được ngài và cái chết cũng không làm ngài lo sợ, điều này khiến vị thương chủ ngạc nhiên và kính phục vô cùng! Vì vậy ông cho mời thầy thuốc đến chữa trị, đồng thời cúng dường cho ngài một tấm y mới. Vị Bích Chi Phật không chịu thay đổi bộ y Thương Na rách nát này (y được chế tạo bằng một loại vỏ cỏ). Bởi vì từ khi xuất gia ngài đã mặc nó trên người và cũng do bộ y này mà ngài thành đạo. Hơn nữa, thân ngài hiện giờ giống như ván thuyền đã mục nát không thể sửa chữa được nên ngài sắp nhập Niết bàn. Sau khi nghe nói, người chủ buôn châu báu mới biết ngài là bậc Vô nhiễm ở thế gian, là bậc tu hành đã đắc quả Thánh, những vị như ngài trên thế gian thật là ít có. Thương chủ hy vọng rằng ngài chưa vào Niết bàn và muốn ngài cùng đi ra biển để ông tiện việc săn sóc thuốc thang và lễ bái cúng dường.

Vị Bích Chi Phật chưa đồng ý nhưng khai thị cho ông những điều quý báu: “Phải nên gieo phước nhiều, có gieo trồng thì mới có thu hoạch, trồng ruộng phước lớn tất sẽ được kết quả lớn”. Nói xong, ngài phóng thân lên hư không hiển hiện thần thông biến hóa mười tám lần. Rồi sau đó trở về chỗ cũ ngồi mà nhập diệt. Thương chủ thấy được diệu dụng thần thông chưa từng có này liền cảm ngộ mà phát thệ nguyện rằng: “Nguyện tôi đời sau gặp được bậc Thánh sư giống như ngài, khiến tôi có được nhiều công đức, cách thức uy nghi cho đến y phục không khác”. Do nhân duyên này, hiện đời thương chủ được tái sinh trong gia đình giàu có. Truyền thuyết kể rằng lúc sinh ra ngài liền được y Thương Na, do vậy mà được đặt tên là Thương Na Hòa Tu. Đây là một sự kiện không thể nghĩ bàn vậy.

Chính nhờ căn bản nhiều đời tu phước, nên hiện đời Thương Na Hòa Tu cũng là một vị đại thương gia buôn bán châu báu. Ông thường đi ra biển để tìm ngọc quý, bình sinh ưa các điều thiện, thích bố thí và cúng dường Tam Bảo. Trong thành Vương Xá chẳng mấy ai mà không biết đến vị đại thương nhân tài giỏi này, ông được người đời khen ngợi là bậc đại thiện sĩ chân chính có tài có đức trong xã hội.

Cũng giống như những người bận rộn, bận đến nỗi những thứ mình cầm trong tay mà cũng quên mất, Thương Na Hòa Tu có lẽ cũng như vậy. Do vì ông bận rộn với việc buôn bán, tuy có lòng tin nhưng chưa chính thức tiếp thụ tín ngưỡng Phật giáo.

Một lần nọ, Thương Na Hòa Tu phát tâm nguyện lớn, chuẩn bị sau khi vào biển tìm châu báu trở về sẽ khai mở đại hội Vô Già bố thí khắp cả, đương nhiên cũng có cúng dường Phật và Tăng. Sau một thời gian đi biển trở về, ông rất sung sướng về đại nguyện đã phát trước đây. Vì đây là một việc làm rất xứng ý, đến nay ông mới có thể thực hiện được. Đã quyết tâm rồi, ông liền làm ngay, ông tranh thủ đến rừng Trúc mời thỉnh Tôn giả A Nan. Ông cầu mong ngài thay mặt mình thỉnh Đức Phật và các vị đại Tỳ-kheo như Đại Ca Diếp, Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất v.v... tham gia đại hội thọ lãnh sự cúng dường thành kính của ông. Ngài A Nan liền cho ông biết là Đức Phật và Đại Ca Diếp v.v... các vị trước sau đều đã nhập Niết bàn rồi.

Ông quá đau buồn và hối hận vì đã để lỡ mất cơ hội ngàn năm mới có! Kinh nghiệm việc này, ông không còn dám chậm trễ nghi ngờ gì nữa, vội thỉnh cầu Tôn giả A Nan đến tham dự đại hội và thọ lãnh cúng dường. Được Tôn giả nhận lời, ông liền vội vàng trở về thành Vương Xá chuẩn bị vật phẩm cho buổi đại hội.

Thương Na Hòa Tu tự nghĩ: Thế gian là vô thường, ngay cả Đức Phật là đấng Đại giác và các vị Thánh đệ tử đều là những vị sống khỏe mạnh, biết nhìn xa trông rộng mà còn không tham đắm thế gian. Huống chi ông là một thương nhân phàm phu, có tiền chưa chắc đã mua được sự trường thọ, có thế lực chắc gì đã bảo vệ được thân kim cang. Cần lấy đây làm sự tỉnh ngộ tự giác, ngó lại xem trong xã hội xưa nay có bao nhiêu người có thể nhận thấy được điều này? Thương Na Hòa Tu vốn xuất thân từ chốn thương trường, thế mà ở trong chốn phàm nhân ấy lại biểu hiện được tính cách phi phàm. Những người buôn bán đời sau là đệ tử Phật, tự nhà mình thiếu chút ít thứ gì, đã được Thương Na Hòa Tu gợi ý cho từ hai ngàn năm trăm năm trước rồi, vì sao không hướng về ngài để cầu chỉ giáo, để được ngang bằng, để làm giống như Thương Na Hòa Tu trong cuối đời của Phật pháp?

Đã đến lúc bắt đầu cử hành đại hội Vô Già. Hội trường được bố trí tại nhà của Thương Na Hòa Tu, đặc biệt cửa lầu cao được nối thông vào trong phòng, mở rộng thêm mặt bằng cho người đi lại. Những chữ bằng vàng to lớn “Đại Hội Vô Già” được dựng ngang phía trước để chào đón, bốn mặt đường đi thông suốt đến hội trường, cờ xí phất phới bay theo gió nhảy nhót trên không, ánh dương hòa với sắc vàng rực rỡ, vật phẩm bố thí và tay người cùng nhau nhảy múa. Bên trong hội trường, phẩm vật bố thí đủ màu đủ sắc chất chồng như núi. Những công nhân, những người bạn cùng buôn bán với ông không mời mà tự đến rất đông lên đến hàng vạn người tự nguyện đảm nhận những công tác cho buổi lễ. Từ khắp mọi nơi, những người bất hạnh, bần khốn, khổ nạn, góa bụa cô đơn, già suy, trẻ yếu, tật bệnh, mù điếc... đông vô số kể tìm đến đại hội để nhận lãnh của bố thí. Cả một biển người nhấp nhô khi lên khi xuống, đầu trên vừa lui ra, chìm xuống thì đầu dưới lại tới nổi lên. Những người phân phát thật là bận rộn, họ chỉ tiếc là mình chỉ có hai tay nên làm không xuể, phải chi đức Bồ Tát Quán Thế Âm đại từ đại bi cho họ có thêm ngàn cánh tay thì mới phân phát kịp. Những người đến nhận lãnh bố thí ai nấy đều hớn hở vui cười, mỗi người ra về với một bao lớn đựng nhiều thứ như y phục, thức ăn và đồ dùng. Thương Na Hòa Tu tận mắt chứng kiến làn sóng người như nước triều dâng đến nhận bố thí trong lòng vui mừng không thể tả xiết, đúng là “vui cái vui của thiên hạ”, ở thế gian này có cái vui nào so sánh được với “cái vui bố thí” này đâu.

Tôn giả A Nan đến nơi, thấy việc làm này cũng hết sức khen ngợi Thương Na Hòa Tu: “Lành thay trưởng giả! Hay biết thế gian là không an nên đã tạo tác phước điền, gây nghiệp kiên cố. Công việc đại bố thí này ở thế gian rất là ít có! Thế nhưng, rốt cuộc chỉ là phước đức không cứu cánh, hữu lậu ắt phải hữu thất (sẽ mất)”. Nhân lúc tâm ý Thương Na Hòa Tu đang khoan khoái, Tôn giả A Nan liền dùng phương tiện để chỉ bảo hướng dẫn:

- “Ông làm việc tài thí rất to lớn ít có! Nay nên làm thêm pháp thí nữa đi! Bởi vì tài thí chỉ có thể giải trừ những bức bách khổ nạn cho người trong một lúc thôi, không thể làm cho họ đạt đến chỗ diệt trừ rốt ráo cái thống khổ sinh tử, cái mạng lưới khổ sinh tử cần phải có pháp thí mới có thể phá trừ được”. Cho nên Tôn giả khen ngợi pháp thí rằng: “Pháp thí vi diệu này nếu hoằng truyền rộng rãi sẽ vượt hơn tài thí nhiều gấp trăm ngàn vạn lần”.

Thương Na Hòa Tu nghe được, bắt đầu có đôi chút hoài nghi: Sao gọi là pháp thí? Công đức pháp thí chắc lớn lắm sao, đến như đại hội bố thí này so sánh cũng không bằng nữa ư? Ông nhận thấy trên thế giới này chưa ai cử hành được việc bố thí nào lớn hơn đại hội bố thí to lớn này của ông, cho nên trong tâm ông không tin tưởng lắm. Nếu quả thực như lời Tôn giả nói: “Pháp thí so với đại hội bố thí này lớn hơn và tốt hơn” thì ông cũng cầu mong sẽ cử hành lần nữa, vì ông cho rằng ông rất giàu có.

Thế nhưng, pháp thí mà Tôn giả A Nan dạy là: “Ở trong Phật pháp xuất gia học đạo, thuyết pháp giáo hóa làm lợi ích cho chúng sinh, ấy gọi là pháp thí. Bởi vì xuất gia học đạo mới khả dĩ biết diệt ác hành thiện, trồng phước tu huệ. Một khi đã khế ngộ được chân lý vũ trụ, hiểu rõ thật tướng của các pháp, không những tự mình giải thoát khỏi những khổ nạn của kiếp người, mà còn có thể đem những điều chứng đắc này giáo hóa hết thảy chúng sinh, khiến cho họ nương theo đó mà được đại tự do, đại phước lạc và lợi ích vĩnh cửu. Điều này so với công đức tài thí có phải càng rốt ráo to lớn hơn không? Như một người nhờ pháp thí mà được đại lợi ích, xoay chuyển thành ra công đức vô cùng vô tận, tận hư không biến pháp giới, há có thể lấy cái chỗ trăm ngàn vạn bội mà thí dụ được ư!”.

Thương Na Hòa Tu vốn là người đã gieo trồng căn lành đời trước, rất hoan hỷ làm việc công đức, nên khi nghe Tôn giả A Nan chỉ bảo, liền vui mừng giác ngộ, buộc miệng nói rằng:

- “Lành thay! Rất hợp với ý nguyện của tôi. Cái công đức vô lượng vô biên phải ở chỗ pháp thí mới có thể thâu hoạch được như nguyện, đem việc làm này mà so với việc bố thí của tôi thì quả thật là vĩ đại hơn nhiều! Rất là lý tưởng!”.

Do vậy, sau khi đại hội bố thí kết thúc, Thương Na Hòa Tu liền theo Tôn giả A Nan xuất gia và trở thành một vị tân Tỳ-kheo kiệt xuất phi thường. Dưới sự chỉ dạy của Tôn giả A Nan, bậc đa văn đệ nhất, “Thí như trút nước qua một chiếc bình khác”, ông đều thấu suốt những điều học hiểu của Tôn giả. Qua sự hướng dẫn thực hành hiểu biết trí huệ, không bao lâu Thương Na Hòa Tu chứng được lý không chư pháp vô thường, vô ngã, thành bậc A La Hán đoạn tận sinh tử. Tôn giả A Nan thấy có người kế tục, bèn đem trọng trách trụ trì Phật pháp phó chúc cho Thương Na Hòa Tu rồi mới an tâm nhập Niết bàn.

Thương Na Hòa Tu vâng theo lời thầy chỉ dạy cũng rộng truyền Chính pháp, độ vô số người. Sau Phật diệt độ, các bậc lãnh đạo Phật giáo có nhiều ảnh hưởng lớn, nhiều cống hiến lớn lao, ngoài Tôn giả Ca Diếp và A Nan ra còn phải kể đến Thương Na Hòa Tu. Thương Na Hòa Tu được tôn vinh vào hàng thứ ba trong các nhân vật lãnh đạo trung tâm trụ trì Phật pháp sau khi Phật diệt độ.

Căn cứ truyền thuyết, Thương Na Hòa Tu hoằng hóa đệ tử rất nhiều nên muốn xây dựng một ngôi chùa trên núi Ưu Đà thuộc nước Ma Đột La để có chỗ cho đồ chúng tu học. Đây là một đạo tràng lý tưởng, thích hợp cho người tu đạo, non sáng nước trong, bách biếc tùng xanh, môi trường chung quanh rất đẹp đẽ thanh khiết, lại xa nơi chợ búa thị tứ, ít người lai vãng, càng giúp thêm phần yên tĩnh. Trước đây Đức Phật và A Nan đã từng du hóa đến ngọn núi này. Thế nhưng hiện nay trong núi có hai con rồng độc hại hung dữ chiếm cứ, khiến cho kẻ xa người gần không ai dám vào trong núi.

Thương Na Hòa Tu bèn dùng thần lực làm chấn động hang núi. Hai con rồng cỡi mây nhả khói tạo nên một trận cuồng phong dữ dội muốn hại Thương Na Hòa Tu. Trải qua một cuộc đấu pháp giữa người và rồng, cuối cùng ngài cũng hàng phục được hai con rồng dữ. Rồng là loài có tâm sân hận rất lớn, khó mà điều phục được. Phải chăng sự việc này là để tượng trưng cho các thủ lãnh và dân chúng nơi núi rừng hoang dã, có tính tình ví như rồng rất khó giáo hóa! Khi Tôn giả lãnh đạo đồ chúng đến núi này định dựng chùa để tu hành, liền bị dân chúng trong vùng ngăn trở không chấp nhận, nhưng nhờ pháp lực cao siêu cùng đức độ từ bi, Tôn giả đã điều phục được những sự ngoan cường chống đối của họ và cảm hóa khiến họ quy y theo Phật pháp.

Trong số đệ tử xuất gia của Thương Na Hòa Tu, có một vị Đại sư đặc biệt xuất chúng, tên gọi là Ưu Ba Cúc Đa, lúc ở Kế Tân hoằng hóa, dưới tòa có năm trăm đệ tử, điều đó đủ cho thấy sự hưng thịnh của Đại sư. Chúng đệ tử này tuy thọ giáo với Đại sư, nhưng vẫn còn phiền não sâu nặng, tâm ngã mạn cống cao rất lớn, do vậy mà Đại sư khó thể điều phục được, khiến cho phần nhiều ở nơi sinh tử không được giải thoát.

Thánh giả Ưu Ba Cúc Đa biết phước đức nhân duyên của mình khó mà thành tựu lợi ích cho đồ chúng, tự nghĩ: “Chỉ có thầy ta mới có thể hóa độ được”, nên thầm mong mỏi Thương Na Hòa Tu đến nơi đây để giáo hóa. Tôn giả Thương Na Hòa Tu biết được việc này liền dùng sức thần thông từ trên không mà bay đến chỗ ấy. Trong lúc Ưu Ba Cúc Đa không có ở nơi đó, năm trăm đệ tử nhìn thấy Tôn giả đến nhưng không ai thèm để ý, họ chỉ ngước mặt lên trời mà thôi, đủ biết sự ngã mạn của họ còn cao hơn đỉnh núi. Tôn giả vẫn thản nhiên đi thẳng đến chỗ ngồi nơi thiền phòng của Ưu Ba Cúc Đa. Năm trăm kẻ ngạo mạn này thấy Tôn giả y áo sơ sài, đầu tóc, móng tay dài nhọn đến ngồi nơi chỗ của thầy mình, họ liền giận dữ la mắng, đuổi xua Tôn giả ra khỏi, không một ai biết lễ phép tôn kính bậc Thượng tọa Trưởng lão Tỳ-kheo. Người nào người nấy khí thế hung hăng, thấy Tôn giả vẫn ngồi lặng yên, một số người lỗ mãng xông lên lôi kéo. Nhưng rồi cả bọn vô cùng kinh ngạc, vì Tôn giả vẫn ngồi yên nơi tòa dường như có rễ bám sâu vào núi lớn, không làm sao lay chuyển di động được chút nào. Lúc ấy họ hết dám khinh thường, vội vã cử người đi tìm thầy về. Ưu Ba Cúc Đa về đến thiền phòng chợt nhận thấy Tôn giả liền thành kính đảnh lễ. Mọi người thấy vậy đều trố mắt ngạc nhiên, vì họ vẫn cho rằng thầy mình là tài giỏi bậc nhất, còn như Tôn giả có bộ dạng già lão xấu xí, cho nên họ không sinh khởi tâm lễ kính.

Tôn giả biết mọi người vẫn chưa dứt tâm ngã mạn, liền nhập “Long phấn tấn định”, tay chỉ hư không, trên hư không liền giáng một dòng sữa thơm như tấm vải trắng từ trên núi cao chảy xuống. Sau khi xuất định, Tôn giả hỏi Ưu Ba Cúc Đa: “Đây là thứ tam muội gì?”. Ưu Ba Cúc Đa không thể hiểu biết được, chúng đệ tử lại càng không biết gì, lúc đó họ mới giảm bớt đôi chút tánh ngã mạn.

Tôn giả liền diễn thuyết các thứ diệu pháp tam muội. Cuối cùng Tôn giả nói:

- “Tướng định tam muội của A Nan, thầy ta, ta không thể biết, nay tam muội của ta các người cũng không thể biết được. Tam muội của Đức Như Lai chúng ta lại càng chẳng thể biết được. Điều này biểu thị tam muội vô lượng, rất thậm thâm. Chỉ có người vô trí không biết chỗ cao sâu, ít học Phật pháp, cho nên mới sinh khởi những cuồng vọng ngã mạn cống cao”.

Lúc ấy, năm trăm người đệ tử ngạo mạn đã cúi đầu khuất phục. Mỗi người đều tự trách móc hối hận về những điều lỗi trước của mình. Đối với Thương Na Hòa Tu, hình vị tuy không xuất chúng, lời nói tuy không làm người sợ, nhưng hiện ra uy đức vô thượng. Thế là từ đấy họ dứt bỏ được tâm ngã mạn, siêng năng tinh tấn, về sau đều đắc quả A La Hán.

Tôn giả Thương Na Hòa Tu vâng lãnh di mạng của Tôn giả A Nan, đã hết lòng với trách nhiệm hoằng truyền Phật pháp, và vâng lời dạy của Tôn giả A Nan, hóa độ Ưu Ba Cúc Đa xuất gia, giao trách nhiệm lớn trụ trì Phật pháp cho Ưu Ba Cúc Đa đảm đương tiếp nhận. Lúc ấy, Thương Na Hòa Tu cảm thấy “chỗ làm đã xong”, liền theo thông lệ hiện thần biến một lần cuối cùng, sau đó nhập Niết bàn. Di thể xá lợi của ngài được Ưu Ba Cúc Đa đem phân truyền cho các chúng đệ tử lập tháp cúng dường. Đây là vị Đại sư thứ ba trụ trì Phật pháp sau Đức Phật diệt độ. Tên tuổi của ngài được mãi mãi lưu truyền trong lịch sử hoằng truyền Phật pháp, được các hàng đệ tử Phật hàng vạn đời sau chí thành hướng về tôn kính ca ngợi.

VÔ TƯỚNG HẢO PHẬT

Vô Tướng Hảo Phật là vị Đại sư thứ tư kế tục trụ trì Phật pháp sau khi Phật diệt độ. Tên ngài là Ưu Ba Cúc Đa, sau khi xuất gia hoằng truyền Phật pháp, độ sinh vô số. Tuy sắc thân của ngài chưa được đầy đủ phước đức tướng hảo trang nghiêm như các Đức Phật, nhưng ngài có trí đức cao thâm tợ như các Đức Phật, có biện tài vô ngại và thuyết pháp thiện xảo khiến người người khâm phục năm vóc sát đất. Kể từ lúc ngài hóa đạo, các bậc Thánh được giải thoát rất nhiều, nếu dùng thẻ tre để mà đếm thì phải chất đầy hết hang đá cao lớn sáu trượng. Vì thế các bậc giáo giới đương thời một lòng tôn sùng ngưỡng mộ, xưng tán ngài là Vô Tướng Hảo Phật. Đây là một vinh dự cao thượng một đời ít có, trong lịch đại Hiền Thánh của Phật giáo dường như cũng không từng thấy có nhiều. Vị Đại sư Ưu Ba Cúc Đa Vô Tướng Hảo Phật này lai lịch ra sao? Làm thế nào mà ngài lại được tên tuổi vinh dự như vậy? Xin mời xem văn dưới đây sẽ rõ.

1.- Trồng căn lành đời trước

Căn cứ truyền thuyết Phó Pháp Tạng Nhân Duyên: Đại sư đã nhiều đời nhiều kiếp tìm cầu đạo thoát khổ, chỉ vì chưa gặp được minh sư, cho nên lầm vào đường rẽ không có phương pháp để đạt được chính quả. Lúc Phật còn tại thế, Đại sư sinh làm đồ chúng của Ni Kiền ngoại đạo, tên gọi là Tát Già. Nhờ nhiều đời tu đạo, tuy chẳng phải chính hạnh, nhưng Tát Già cũng chẳng ham ưa chỗ luyến ái vinh hoa hư ảo của người đời, nhìn thấu danh lợi thế gian là gốc trói buộc khổ não của nhân loại, hay đem lòng chán ghét xa lìa, cho nên đạt được trí huệ siêu việt hơn người. Luận bàn nhiều khiến người thần tìm đến, lập hạnh nhiều khiến đồng đạo khâm phục.

Một lần nọ, Tát Già nghe nói Đức Phật lãnh đạo đệ tử Hiền Thánh rất đông, đang giảng pháp giáo hóa độ chúng sinh tại Kỳ Viên nước Xá Vệ. Tát Già ôm ấp tâm cống cao, rêu rao với đồ chúng đồng đạo là mình muốn đến chỗ Phật để cùng biện luận chân lý. Một vài người đồng đạo vốn biết Đức Phật là bậc cao minh được cả trời, người tôn kính, nên đã nói với Tát Già rằng:

- “Ông cùng với Phật biện luận sợ rằng cũng giống như lửa đom đóm mà tranh với ánh sáng mặt trời. Phật có người đệ tử tên là Xá Lợi Phất có trí tuệ tuyệt vời, không những người nghe tên khâm phục mà ở trong chúng đệ tử Phật cũng là bậc tôn kính, trí tuệ bậc nhất. Nếu như ông biện luận với Xá Lợi Phất mà thắng được cũng là rất khó rồi huống chi là biện luận với Phật”.

Tát Già xưa nay tưởng rằng đồng đạo cũng mong muốn ông cùng với Phật biện luận để đề cao uy danh và trình độ của mình, biểu hiện một ít trí dũng siêu quần. Không ngờ lại bị đồng đạo tưới cho một chậu nước lạnh, khiến cho niềm tự tin bị lay chuyển, lửa ngạo mạn bị dập tắt. Ông sợ biện luận sẽ bị thua. Hơn nữa, một số đồng đạo là bậc trí nhân Ni Kiền trước đây từng tôn vinh ông nay đã táng thất, điều này càng làm cho ông mất hứng thú. Cho nên ông không còn đặt vấn đề biện luận với Phật nữa. Có người khinh chê ông rằng đã nói mà không dám làm. Kỳ thật ông đã giác ngộ rồi, nên không muốn thực hiện nữa. Mặc cho chúng đương thời nói những lời gièm chê xấu xa, chi bằng giấu cái dốt để giữ gìn cái tốt đẹp là hơn. Đây chính là cái chỗ thông minh của ông, không hổ thẹn là một người trí trong Ni Kiền ngoại đạo.

Không chỉ như thế, ông còn nghe những người đồng đạo rất xem trọng, ca ngợi trí tuệ của Xá Lợi Phất, mặc dù họ cách xa ngài và không cùng đạo với ngài. Ông tự nghĩ nếu như mình có được trí tuệ như Xá Lợi Phất chắc chắn sẽ được mọi người tôn kính biết bao! Nghĩ đến điều này, trong lòng ông chợt phát khởi một niềm hy vọng mà không hề nói cho ai hay biết. Một hôm, ông âm thầm lặng lẽ đến Kỳ Viên, cầu mong gặp Phật và xin rằng:

- “Kính mong Đức Phật hãy độ con xuất gia và xin Ngài ban cho con được trí tuệ như Xá Lợi Phất”.

Đức Phật không hề ngạc nhiên trước việc người ngoại đạo Ni Kiền xin xuất gia, nhưng Ngài biết chí nguyện của ông ta vừa bày tỏ là không thể thành tựu được, liền giải thích cho ông biết rằng:

- “Ông muốn xuất gia, Ta rất hoan nghênh việc này, thế nhưng ông muốn Ta cho ông trí tuệ giống như Xá Lợi Phất, điều đó là việc không thể làm được”.

Tát Già nghe xong, rất thất vọng và quay trở về. Ông cứ tưởng rằng Phật có thể cho ông trí tuệ, cho nên ông đã đem cái ý nghĩ hết sức kỳ quặc của mình để phát tâm xuất gia, hy vọng sẽ không nhọc mệt bao nhiêu mà thành được một người có trí tuệ, khiến cho đồng đạo ngạc nhiên, tôn sùng ngưỡng mộ cũng giống như Xá Lợi Phất vậy. Ông đâu biết rằng trí tuệ của Xá Lợi Phất có được là do sự tinh cần tu học. Có thể nói ông là người thông minh nhất đời lại mơ hồ một lúc ư! Có lẽ đương thời chỉ có một mình ông là có cái tư tưởng ấy. Ông đến một cách âm thầm, rồi lại âm thầm ra về, những người đồng đạo không hề hay biết sự việc này. Thế nhưng, sau khi ông quay về, Phật mới nói với chúng đệ tử rằng:

- “Ni Kiền Tát Già đến cầu xuất gia và muốn Ta cho ông ấy trí tuệ nhưng không được, do vậy ông ấy thất vọng mà về. Ta quan sát nhân duyên xuất gia của ông ta chưa thành thục. Tương lai sau khi Ta diệt độ một trăm năm, do nhiều đời có tâm nguyện mong cầu trí tuệ đến lúc ấy ông ta liền được sáng suốt, thiện căn đã thành thục, sẽ xuất gia tu học và trở thành một vị A La Hán đại lực hoằng dương Phật pháp nơi thế gian: Đuốc tuệ chiếu soi, quảng hóa chúng sinh, Phật pháp sẽ có một thời hưng thịnh”.

Đại chúng nghe rồi, biết thiện căn của Tát Già chẳng phải thường, tuy hiện đời theo ngoại đạo, nhưng tương lai sẽ làm bậc Thánh như lời Phật thọ ký, họ đồng sinh tâm hy hữu mà ca ngợi chúc lành. Phật cùng đại chúng nói việc ấy rồi, về sau tin này xoay vần lưu truyền không ngừng.

2.- Sinh vào gia đình buôn bán

Một trăm năm sau Phật nhập diệt, trong thành nước Ma Đột La ở Ấn Độ, có một trưởng giả tên Cúc Đa, bình sinh lấy việc buôn bán làm nghề nghiệp, cốt ở chỗ giàu có vinh thân. Ông sinh được ba người con, người lớn nhất tên là A Phu Ba Cúc Đa, người kế tên Nan Đà Cúc Đa, người con út tên Ưu Ba Cúc Đa. Tiền thân của người con út chính là Ni Kiền Tát Già. Cúc Đa trưởng giả lúc đầu là tiểu thương nhân đem sức cần lao khắc khổ để làm giàu. Sau khi thành gia lập nghiệp, nhờ có trí thông minh, tính siêng năng và nhờ sự hỗ trợ của ba người con, sự nghiệp của ông phát triển một cách thuận ý. Trong số ba người con, Ưu Ba Cúc Đa trẻ tuổi nhưng lại tài ba xuất sắc hơn, tánh tình rất từ hòa, khẩu tài lanh lợi nên được trưởng giả yêu mến nhất. Lại do chàng có thể cách đoan chính, phẩm hạnh thiện lương nên được bà con hàng xóm và dân buôn hoan hỷ ngưỡng mộ.

Khi được 22 tuổi, Ưu Ba Cúc Đa bắt đầu học tập việc buôn bán trong một tiệm buôn của trưởng giả. Lúc mời chào khách hàng, chàng đều biểu hiện hành động khéo léo tài giỏi. Chàng tiếp đãi khách hàng rất ân cần lễ phép, lời nói ôn hòa dịu dàng, thường hay bán rẻ hàng hóa, hoặc cho thêm khách hàng chút ít. Những nhân viên sợ mất lợi nhuận nhưng không dám ngăn cản mà chỉ báo cho trưởng giả biết. Đương nhiên trưởng giả chẳng hài lòng lắm về việc buôn bán kiểu này và rầy la chàng một trận. Thế nhưng chàng vẫn đối đãi rộng rãi với khách hàng, không chịu cải đổi chút nào hết. Cũng giống như người bạn tốt, thấy khách ra đi với lòng hoan hỷ, chàng mới an vui như vừa giúp họ làm một việc tốt đẹp vậy. Tư cách rộng rãi này được khách hàng truyền tụng tuyên dương, những khách hàng nghe tiếng đến mua hàng ngày càng đông, khiến việc buôn bán ngày càng thịnh vượng. Tuy tiền lời kiếm được vốn rất ít, nhưng nước nhỏ giọt lâu ngày cũng đầy bình, tích tiểu thành đa, khiến cho tài nguyên ngày một lớn dần. Lúc ấy, những nhân viên kỳ cựu mới chịu khâm phục trí tuệ đặc biệt của ông chủ trẻ tuổi. Trưởng giả lấy làm hổ thẹn, vô cùng cảm mến Ưu Ba Cúc Đa, tuy niên thiếu mà có cái nhìn xa rộng và vui mừng bất tận vì sự thành công của con mình.

Lúc Ưu Ba Cúc Đa thành nhân, do nhờ có tri thức quảng đại, chàng tiếp xúc với sự việc một cách rộng rãi, bắt đầu quan sát sự khổ vui của người đời, nêu lên những vấn đề hiện thực một cách chi ly, suy tư trong tâm rất kỹ càng, minh bạch. Vào lúc này, Phật pháp lưu hành rất phổ biến, từ các thành phố lớn cho đến thị trấn nhỏ, nơi nào cũng có chùa chiền Phật giáo và Tăng đoàn hoằng pháp. Do vậy, đôi lúc rảnh rỗi Ưu Ba Cúc Đa thường đến thăm chùa cảnh, được nghe một đôi chút Phật pháp và hiểu được nhân sinh vốn vô thường.

Có một lần vào buổi sớm mai, đang trên đường đến tiệm buôn, chàng gặp một vị Tăng, đó chính là Tôn giả Thương Na Hòa Tu, vị Đại sư kiệt xuất lãnh đạo Tăng đoàn Phật giáo thời bấy giờ. Ngài nhận lãnh sứ mạng hoằng truyền Phật pháp, thường đi giáo hóa bốn phương, vì Phật pháp trụ nơi đời vị lai mà tìm kiếm bậc nhân tài lãnh đạo. Theo chỉ thị của Tôn giả A Nan, Đại sư Thương Na Hòa Tu được biết theo lời huyền ký của Đức Phật, trưởng giả Cúc Đa ở nước Ma Đột La tương lai có người con tên Ưu Ba Cúc Đa xuất thế, nên độ cho xuất gia, giao phó trách nhiệm lớn trụ trì Phật pháp. Cũng bởi lý do này nên hai mươi năm trước Tôn giả đã cùng với trưởng giả Cúc Đa kết bạn. Lúc ấy, việc buôn bán của trưởng giả Cúc Đa đang thời hưng thịnh với sự giúp đỡ tích cực của hai người con đầu. Thương Na Hòa Tu muốn xin một trong hai người con của trưởng giả xuất gia, nhưng vì việc buôn bán cần phải có người trợ giúp nên ông đã khéo léo từ chối. Nhưng ông cũng có lời hứa rằng: “Nếu như sinh đứa con thứ ba, nhất định sẽ thỏa mãn ý nguyện của Đại sư, tùy Đại sư cho nó xuất gia”. Đại sư biết chẳng thể nào cưỡng cầu được, đành phải chờ đợi đến sau này.

Lần này tình cờ gặp Ưu Ba Cúc Đa trên đường đi, thấy Ưu Ba Cúc Đa có biểu hiện oai nghi khác thường, Đại sư liền hỏi thăm, được biết đây chính là con thứ ba của trưởng giả Cúc Đa, người mà ngài đang tìm cầu. Đại sư nhớ đến lời ước hẹn hai mươi năm về trước mà lòng vui mừng khôn xiết, nhưng e ngại trưởng giả lại đoạn tuyệt lời ước. Do vậy, Đại sư muốn gây tâm lý cảm thông trước với Ưu Ba Cúc Đa và khai thị pháp yếu khiến cho chàng phát khởi tâm chí xuất gia, không ưa các việc thế gian. Đại sư liền hướng về Ưu Ba Cúc Đa mà nói:

- “Trông ngươi có vẻ thanh tịnh, nhưng không biết trong tâm ngươi có thanh tịnh không?”.

Ưu Ba Cúc Đa nghe rồi, quả nhiên bị lời nói này tác động gây chú ý, ông muốn tìm hiểu và hỏi:

- “Thưa Đại sư, ngài nói tâm con là có thanh tịnh không, con chẳng rõ điều này. Thế nào là tâm thanh tịnh? Thế nào là tâm không thanh tịnh?”.

Thương Na Hòa Tu thấy chàng phát khởi nghi vấn, biết đây là người dũng cảm khí khái, chẳng phải hạng thanh niên tầm thường. Ngài liền vì chàng mà giải đáp:

- “Tâm đối với sự vật, không sinh khởi tưởng niệm tham, sân, si, ấy là thanh tịnh. Ngược lại, khi gặp sự vật ưa thích thì sinh tâm tham đắm, vật không ưa thích thì sinh giận ghét, không tìm hiểu nguyên nhân sự vật một cách rõ ràng mà vọng sinh tham sân ấy là si, mà còn tự cho là phải, đó là mạn, đấy tức là hiện tượng tâm không thanh tịnh. Làm người không những thân phải thanh tịnh mà tâm cũng phải thanh tịnh, như vậy mới là một người hoàn mỹ! Đủ biết xa lìa tâm niệm không thanh tịnh, đó tức là bỏ ác gần thiện, là hành vi của bậc trí. Ngươi hãy tự mình quan sát: Đối với các sự vật thế gian, có khởi tâm tham, sân, si mạn không? Như vậy có thể biết là tâm mình thanh tịnh hay không thanh tịnh. Bây giờ ta muốn hỏi ngươi: Tâm của ngươi rốt cuộc là thanh tịnh hay không thanh tịnh? Hay là thanh tịnh thì ít mà không thanh tịnh thì nhiều?”.

Ưu Ba Cúc Đa hiểu được tâm lý có những vấn đề như thế này, song từ trước đến giờ chàng chưa hề nghĩ đến một cách rõ ràng như vậy. Chàng tuy vào đời không lâu, đối với tình cảm hoạt động thế sự như lời Thương Na Hòa Tu nói, những điều đó có chút thanh tịnh hay không thanh tịnh, dường như đều có lỗi, mà cái sau tợ hồ như nhiều lỗi hơn cái trước. Thế nhưng chàng không bao giờ lưu ý tới, mặc cho các hoạt động lùi vào quá khứ. Hiện tại với câu hỏi tâm mình tịnh hay bất tịnh, chàng không biết phải đáp như thế nào cho đúng. Chàng nghĩ: Chỉ có từ hiện tại mà bắt đầu lưu ý đến hoạt động của tâm tịnh hay bất tịnh mới có thể biết một cách minh xác và trả lời cho Đại sư được. Nhưng mà phải ghi nhận hoạt động tâm linh tịnh và bất tịnh như thế nào? Tâm niệm trong một ngày không biết đã là bao nhiêu rồi, huống gì một tháng, một năm. Điều này làm sao mà ghi nhận cho được đây? Chàng thấy không biện pháp nào thông minh hơn là hướng về Đại sư mà thỉnh giáo:

- “Thưa Đại sư! Con không biết tâm con là tịnh hay bất tịnh, do vì xưa nay chưa có chú ý đến vấn đề này. Con nghĩ bây giờ phải bắt đầu lưu tâm đến hoạt động tâm lý của chính mình, đợi cho đến khi biết rõ tâm mình rồi con mới có thể phúc đáp cho Đại sư. Mong ngài chỉ thị cho con phải dùng phương pháp nào để mà theo dõi?”.

- “Ngươi chưa trả lời vấn đề của ta được, cũng tốt. Ngươi muốn theo dõi hoạt động của tâm tịnh hay bất tịnh, ta sẽ chỉ cho một phương pháp: Hãy lấy một số đá sạn màu đen và màu trắng, dùng hai cái đấu để đựng. Lúc nào tâm khởi niệm bất tịnh liền bỏ một hạt đá sạn màu đen vào một cái đấu. Nếu như tâm niệm sinh khởi là tịnh liền lấy một hạt sạn màu trắng bỏ vào một cái đấu khác. Làm như vậy trong khoảng bảy ngày, đem hai cái đấu ra so sánh xem được bao nhiêu đen trắng thì biết được kết quả như thế nào”.

Ưu Ba Cúc Đa nghe được biện pháp này rất lấy làm vui mừng, lễ tạ từ biệt Thương Na Hòa Tu, hẹn bảy ngày sau sẽ gặp lại, rồi chàng đi vội đến tiệm buôn. Lúc ấy Đại sư cũng lên đường tiếp tục công việc hoằng hóa.

3.- Hiến thân cho Phật giáo

Sau khi Ưu Ba Cúc Đa lãnh thọ lời khai đạo của Thương Na Hòa Tu, tư tưởng của chàng bắt đầu có sự thay đổi mới mẻ. Trước đây chàng chỉ nghĩ đông nghĩ tây u u mê mê, hoạt động đối nhân đối vật mặc tình mặc ý, dù có nhiễm, tịnh, tốt, xấu đều không quan tâm lắm, ấy chính là tấm lòng chân thật thuần khiết của người thanh niên. Hiện tại chàng thực hành theo phương pháp của Thương Na Hòa Tu chỉ dạy mà lưu tâm đến sự động niệm của tâm. Chàng bắt đầu phát hiện những điều mới mẻ, khi tâm niệm hoạt động, chàng cố gắng ghi nhận và bỏ các hạt sạn đen, trắng. Trong ngày đầu, hoàn toàn là sạn đen cả. Chàng tự nghĩ đến hoạt động sôi nổi của con người là do tham, sân, si, mạn lôi kéo, không thấy có một niệm thanh tịnh phát khởi. Điều này khiến cho chàng càng cố gắng thêm, muốn chế ngự tâm niệm bất thiện, rốt cuộc cũng không thể làm theo như ý được. Chàng có đôi chút ngạc nhiên về tâm của mình, cuồng động không nghe lời cũng như con ngựa rong ruổi nơi đồng hoang, nếu như không gia tâm quán chiếu ràng buộc, há chẳng phải thành ra vọng động bất tịnh, sai khiến thân và miệng tạo ác nghiệp ư? Thảo nào trên cuộc đời này không biết bao nhiêu người làm điều xằng bậy mà không biết hồi tâm sám hối, há chẳng phải như lời tục vẫn thường nói là do tập quán mà tự nhiên thành ư? May mắn là chàng vẫn chưa rơi vào tình cảnh chứa nhóm ác nghiệp đến nỗi khó cải đổi. Từ trong chỗ khai thị của Thương Na Hòa Tu, chàng phát giác ra tính trọng yếu của tâm niệm chẳng nên để phóng túng. Bắt đầu công phu trị tâm, buộc niệm, quả thật là thâm diệu vô cùng, nên chàng cũng có đôi chút giác ngộ rằng: Hành vi thiện ác của người đời cảm thọ khổ hay vui đều là căn bản của hết thảy mọi vấn đề nơi thế gian. Dường như chàng đã thấy được đôi chút quang minh mà các người thanh niên bình thường khác chưa thấy được. Chàng rất phấn khởi hân hoan vô hạn về niềm hy vọng và sức tinh tấn của mình. Chàng không ngừng tập trung ý chí, quan sát xoay chuyển vọng động của tâm niệm khiến cho nó phát sinh thiện niệm. Đến giữa ngày thứ hai đã có một số hạt sạn trắng lác đác xuất hiện trong cái đấu trống rỗng. Tuy nó chưa được bao nhiêu so với số hạt đen, nhưng điều này khiến chàng hoan hỷ và tăng thêm lòng tự tin, bởi vì tâm có thể từ nhiễm ô mà chuyển thành bạch tịnh. Chàng miên man theo dõi tâm viên nhảy nhót của mình, ra sức chế ngự và hướng nó về chỗ thanh tịnh. Trải qua nhiều ngày phấn đấu, dần dần chàng đã khống chế được nó. Đến ngày thứ bảy, chàng có thể cột trói tâm viên một cách như ý. Nhờ vậy mà từ chỗ nhiều sạn đen trở nên ít dần đến chỗ trắng toàn bộ. Công phu trị tâm buộc niệm của chàng đã thành công một cách phi thường. Chàng đã có thể khiến cho tâm niệm xa lìa bất tịnh mà hiển hiện tâm thanh tịnh. Nhưng công phu này mới chỉ là việc chế ngự bước đầu giúp cho nội tâm thanh tịnh mà thôi, vẫn chưa phải là đạt đến chỗ công hạnh thanh tịnh tự tại trong việc đối nhân tiếp vật, điều này còn cần phải tiến tu thêm nữa.

Sau bảy ngày, theo lời ước hẹn, Thương Na Hòa Tu đến thành Ma Đột La để gặp Ưu Ba Cúc Đa. Đại sư nghe Ưu Ba Cúc Đa trình bày kinh nghiệm tu trì và kết quả trị tâm nhiếp niệm trong bảy ngày qua. Đại sư biết chàng đã thành tựu một cách dị thường, vì trong bảy ngày mà có thể tu dứt niệm ác bất tịnh, trụ nơi thiện định thanh tịnh. Điều này không phải là người bình thường có thể làm được. Đủ chứng tỏ thiện căn của chàng rất sâu dầy. Ở thế gian có một số người vào đạo, không cần quan sát thiện căn huệ lực sâu cạn hay dầy mỏng, mà chỉ cốt cầu pháp vô thượng cao sâu mầu nhiệm, mong muốn mau chóng thành Phật tác Tổ. Điều này nói lên người tu đã không tự lượng sức mình mà người dạy cũng chẳng biết quan sát căn cơ.

Đại sư Thương Na Hòa Tu ban đầu dạy Ưu Ba Cúc Đa buộc niệm bằng cách bỏ hạt sạn đen và trắng thấy đã đạt được kết quả tốt đẹp, lúc đó mới vì chàng mà nói thêm một tầng sâu hơn nữa là pháp thanh tịnh Tứ Chân Đế, Khổ, Tập, Diệt, Đạo xuất thế gian. Sau khi nghe giảng dạy, Ưu Ba Cúc Đa liền giác ngộ rằng: Tất cả khổ vui nơi thế gian đều là pháp vô thường biến hoại, đều bởi hoạt động của tham, sân, si, mạn mà tạo thành kết quả, chỉ có tu theo thiện pháp xuất thế mới có thể siêu thoát khổ não và thống khổ vô thường bại hoại, đạt đến chỗ thanh tịnh tự do và giải thoát. Từ trong lý giải này, tâm chàng bừng sáng, không còn tham ái cảnh giới sáu trần: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; liền chứng quả Tu Đà Hoàn ra khỏi thế gian bước vào dòng Thánh. Đối với việc chứng ngộ của chàng, Thương Na Hòa Tu hết lời khen ngợi và khuyến khích chàng không được tự mãn mà phải cầu tiến hơn nữa thì mới thâu hoạch được kết quả lớn hơn. Chàng lắng nghe và phấn khởi vô cùng, rồi cáo biệt Đại sư ra về, trong lòng tràn ngập niềm vui nghe pháp.

Một ngày nọ, có người tớ gái trang điểm xinh đẹp từ trong thành đến mua hoa, Ưu Ba Cúc Đa cũng ưu đãi như những khách hàng thường ngày, bán cho cô ta hoa đẹp với giá thấp. Người tớ gái đem hoa về cho nữ chủ nhân. Thấy hoa đẹp mà giá lại thấp, người chủ hỏi lại người tớ gái và được biết là do Ưu Ba Cúc Đa bán cho, khiến cô ta nghĩ ngợi không yên. Nguyên nữ chủ nhân này tên là Bà Tu Đạt, thường được gọi là Đóa hoa giao tiếp([1]). Cô vốn là một kỹ nữ lẳng lơ, không biết bao nhiêu người đàn ông, trai trẻ trong thương trường đã bị tan nát sự nghiệp trong vòng tay của cô. Nghe danh tiếng Ưu Ba Cúc Đa, cô tưởng chàng cũng giống như những kẻ ham mê sắc đẹp nên muốn giao hảo, cô liền sai người tớ gái mời chàng đến vui chơi. Thế nhưng chàng vốn là người chẳng ham đắm thanh sắc, vả lại cũng biết cô là người không đàng hoàng, chẳng có ý tốt nên chàng liền từ chối lời mời. Không bao lâu, nữ nhân Bà Tu Đạt vì hại người lấy của nên bị phép nước khép tội xử xẻo tai mũi, chặt tay chân vứt ra ngoài bãi tha ma. Tin tức lan truyền khắp thành Ma Đột La, có người mắng nhiếc rằng chết như vậy cũng chưa hết tội, đủ biết cô ta hại người không phải là ít. Cũng có người nói cô chết quá thê thảm, tuy cô thật đáng ghét nhưng cũng đáng thương hại. Ưu Ba Cúc Đa nhân sự việc này mà hiểu thêm rằng:

Thân là gốc lớn của muôn điều khổ. Những khổ não vô biên đều từ thân mà phát sinh. Như nữ nhân kia nếu chẳng bị mê hoặc bởi thân thể giả tạm thì làm gì mà có cái hình phạt ấy? Kỳ thật không chỉ có một nữ nhân này ngu si, nhận giả làm chân, gây tội tự chiêu lấy quả báo. Nhìn nơi cuộc đời này, xét cho kỹ người chân chính có thể hiểu được huyễn thân vô thường, khổ, không, vô ngã, không tham ái chấp trước, hỏi được có bao nhiêu người đâu? Điều này khiến cho chàng càng nghĩ đến những hư vọng của thế gian, họ đã không có tâm chán ghét xa lìa lại còn tăng trưởng thêm lên. Đối với những mê chấp này của người đời, cần phải ra sức tuyên dương Phật pháp để giác tỉnh họ. Nhờ sự quán chiếu về vấn đề này khiến chàng có được nhiều thâu hoạch tâm linh và chàng đã chứng được quả A Na Hàm, hàng thứ ba trong bốn quả Thánh, không còn trở lại thế gian thọ sinh tử nữa. Đây là người tại gia học Phật chứng được quả vị tối cao. Nhìn lại những Phật tử tại gia học Phật xưa nay, người chứng được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả có được mấy ai đâu?

Lúc ấy, Đại sư Thương Na Hòa Tu biết được nhân duyên xuất gia của Ưu Ba Cúc Đa đã thành thục, liền đến gặp trưởng giả Cúc Đa và nhắc lại lời ước hẹn của ông hai mươi năm về trước, yêu cầu ông cho Ưu Ba Cúc Đa xuất gia. Nhưng vì trưởng giả thấy Ưu Ba Cúc Đa trợ giúp mình trong việc buôn bán rất đắc lực, trong lòng không muốn rời xa và toan nuốt lời hứa. Đại sư nghiêm nghị bảo rằng:

- “Đây là tâm nguyện của ông đã hứa, không nên tự làm điều trái ngược lại. Hơn nữa ông giữ Ưu Ba Cúc Đa ở nhà thì chỉ có thể giúp cho việc buôn bán của ông phát triển, nhưng đối với nhân quần xã hội thì có gì là lợi ích lớn đâu? Như nếu Ưu Ba Cúc Đa xuất gia, có thể làm Phật sự lớn hơn, đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh thì cái công đức này không có gì sánh bằng được. Lúc Phật còn tại thế đã từng nói một trăm năm sau ở nước Ma Đột La sẽ có một người xuất thế hưng khởi Phật pháp rộng lớn. Lời nói này ứng với Ưu Ba Cúc Đa hiện nay. Nếu như ông không cho Ưu Ba Cúc Đa xuất gia, há chẳng phải là làm trở ngại cho nhân duyên hưng long Phật pháp, làm tổn hại lợi ích của đại chúng ư?”.

Trưởng giả Cúc Đa nghe rồi mới tỉnh ngộ rằng: Tâm tánh Ưu Ba Cúc Đa không giống với những người khác, lúc nào cũng từ ái đối với mọi người, thường vì mọi người mà làm những việc lợi ích, không tham ái mọi thứ ưa muốn của người đời. Lại thấy Ưu Ba Cúc Đa thường siêng năng tu trì Phật pháp, chí xuất trần sớm đã bộc lộ, chỉ vì ông chưa lưu tâm sâu sát đó thôi. Nay Thương Na Hòa Tu đã nhắc nhở, e rằng nếu ông giữ Ưu Ba Cúc Đa ở lại nhà, không những làm cản trở tiền đồ của con mà còn trái với tâm nguyện nữa, do vậy ông liền chấp thuận lời yêu cầu của Đại sư. Kỳ thật Ưu Ba Cúc Đa đã sớm có ý nguyện quyết tâm xuất gia, ôm ấp hoài bão hiến thân cho Phật giáo rồi và còn chỉ đợi nhân duyên đến mà thôi. Nay nghe cha mình là trưởng giả Cúc Đa đồng ý cho Đại sư Thương Na Hòa Tu độ mình xuất gia, trong lòng chàng vui sướng vô cùng. Thế là không chần chờ gì nữa, chàng liền bái biệt cha theo thầy về chùa thế phát, thọ Cụ túc giới, hoàn thành ý nguyện hiến thân tâm cho Phật giáo, gánh vác sứ mạng trụ trì Phật pháp. Nhờ đã chứng được quả Thánh thứ ba, trong lúc thọ đại giới, Ưu Ba Cúc Đa liền chứng được quả A La Hán, phiền hoặc đã tận. Công việc của Thương Na Hòa Tu đã tròn, liền đem trách nhiệm lớn trụ trì Phật pháp giao cho Ưu Ba Cúc Đa rồi ngài tùy duyên du phương hóa độ. Từ đấy Ưu Ba Cúc Đa bắt đầu nhiệm vụ mới hoằng pháp độ sinh.

4.- Quảng độ chúng sinh

a.- Hoằng đạo ở Ma Đột La

Ma Đột La là nơi Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa ra đời. Trong lúc giúp đỡ cha là trưởng giả Cúc Đa buôn bán, nhờ ưu đãi với khách hàng, Tôn giả đã rộng kết thiện duyên với bạn bè và được đông đảo quần chúng ngưỡng mộ. Nay họ nghe tin ngài xuất gia hành Như Lai sự, làm lợi ích cho nhân sinh, họ lại càng tán dương hết lời. Trong lúc ngài tuyên dương Phật pháp, dù ở chỗ nào, già trẻ nam nữ cũng đều đến nghe ngài giảng giải Phật pháp thật là đông đảo. Do bởi mọi người đều biết ngài là con của phú thương, nhưng chẳng ham danh lợi, tính tình từ hòa, đã hiến thân cho Phật pháp nhằm làm lợi ích nhân sinh, cho nên đối với tâm lý đại chúng, ngài đã gây được cảm tình tốt đẹp và rất có tín nhiệm với họ. Thêm vào đó, ngài lại có trí tuệ thông minh, tu chứng Phật pháp, lời nói của ngài không những mạch lạc rõ ràng khiến người nghe cảm động mà còn khéo léo đưa người vào đạo. Không bao lâu, đã có một vạn tám ngàn người được ngài giáo hóa xuất gia tu chứng quả vị A La Hán. Còn những người tại gia thọ sự giáo hóa của ngài thì vô lượng vô số. Sức cảm hóa của ngài khiến nhân dân trong nước Ma Đột La hết lòng tán thán ca ngợi, những nước gần xa cũng đều được nghe danh và khâm phục kính nể. Ngài được đồ chúng và những người ngưỡng mộ tôn phụng là Vô Tướng Hảo Phật. Vinh dự Vô Tướng Hảo Phật được truyền bá rộng rãi từ đấy, cho nên có lời tôn sùng rằng: Sớm nghe tên Vô Tướng Hảo Phật, chiều chết cũng xứng đáng.

b.- Hàng ma phá tham sân

Việc Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa hoằng pháp độ sinh rộng khắp khiến cho Ma vương Ba Tuần lấy làm rối loạn, vừa kinh sợ vừa giận tức. Ma vương vốn rất sợ Phật pháp hưng thịnh, không thích những bậc cao Tăng hoằng pháp. Vì nếu Phật pháp lưu hành rộng rãi, chúng sinh sẽ thay đổi các điều ác mà theo điều thiện, nghe pháp ham mê học Phật. Do vậy số người theo ma sẽ giảm thiểu đi và uy thế của chúng cũng không còn, cho nên Ma vương nhất quyết đối đầu với Phật pháp và những người tu học Phật. Nếu như chẳng hàng phục được Phật pháp và những người tu đạo, chúng sẽ tìm cách ngăn trở và phá hoại. Lúc Phật còn tại thế, chúng ma tìm cách phá hoại nhưng chẳng làm sao thắng được Ngài, trái lại còn bị Đức Phật hàng phục. Đệ tử của Phật rất nhiều vị đắc A La Hán, biết không thể nào thắng nổi, nên ma chẳng dám phá rối. Hiện tại chúng thấy Ưu Ba Cúc Đa là vị Tăng mới xuất gia, hoằng pháp không biết cao siêu thế nào mà có thể làm chấn động người đời quy y tín ngưỡng, chúng rất phẫn nộ quyết đến phá hoại. Ma vương thừa lúc Tôn giả đang thuyết pháp, hiện xuất ma thông giáng một trận mưa vàng ròng cùng trân bảo rơi rớt xuống hiện trường nơi pháp hội. Những người nghe kinh cho là Tôn giả thuyết pháp cảm ứng đến Trời nên đã mưa vàng ròng trân bảo xuống. Mọi người liền bị động tâm, xôn xao gây nên một trận rối loạn. Lúc ấy thật không biết có người nào thấy vàng bạc châu báu mà không sinh tham ái. Đang lúc mọi người đua nhau lượm vàng ròng trân bảo, chợt có người lớn tiếng nói rằng:

- “Hãy vứt bỏ những vàng ròng trân bảo ấy đi, chúng chỉ là ma thuật của Ma vương dùng độc xà biến thành để làm nhiễu loạn tâm các vị nghe kinh mà thôi”.

Đại chúng nghe rồi vội vàng vứt bỏ vàng ròng trân bảo ấy đi vì sợ rắn độc cắn chết. Bởi vì Tôn giả đã biết được đấy là pháp thuật của Ma vương làm ra hầu phá hoại pháp hội của ngài. Ma thuật của ma vương đã bị Tôn giả điểm phá, Ma vương biết Tôn giả chẳng phải là kẻ phàm nhân. Ma pháp không còn linh nghiệm nữa, nhưng Ma vương không từ bỏ chủ ý đả kích Tôn giả. Hắn biến thành một người già đến nghe kinh, có đem theo một tràng hoa đẹp. Lúc Tôn giả giảng kinh xong, hắn thành kính dâng tràng hoa choàng lên cổ Tôn giả. Ma vương làm như vậy với mục đích phá giới hạnh của ngài, vì trong luật không cho đeo tràng hoa đẹp, thính chúng nhìn thấy sẽ khởi tâm khinh mạn, chê bai Tôn giả và sẽ mất đi lòng thành kính tôn sùng ngưỡng mộ của họ. Nhưng Tôn giả cũng đã biết rõ ý đồ này, liền hiện thần thông biến thành một tràng hoa đẹp tặng lại và đeo vào cổ Ma vương. Vì Tôn giả không có tâm tham nhiễm nên tràng hoa đeo trên mình tùy thời có thể dứt bỏ. Còn Ma vương có tâm nhiễm trước nên muốn bỏ vòng hoa mà không làm sao bỏ được, dường như nó đã bắt rễ ở đó. Lúc ấy, những hoa đẹp liền biến thành ba thứ xác chết: Người chết, chó chết và rắn chết, thịt nhão nhét, mùi hôi xông lên không thể chịu nổi. Ma vương chẳng thể nào giải trừ được, nên mới hướng về Tôn giả cầu xin tha thứ, biểu lộ lòng sám hối không dám tái phạm pháp lực của Tôn giả. Tôn giả vì lòng từ bi liền tiêu trừ những xác chết ấy và biến chúng trở thành những hoa đẹp. Ma vương hết lòng khâm phục. Do vì Ma vương trước đây đã được thấy tướng hảo của Đức Phật nên Tôn giả muốn Ma vương biến hiện sắc tướng của Phật cho ngài chiêm ngưỡng. Ma vương liền chấp thuận nhưng yêu cầu Tôn giả không nên lễ kính, vì đấy chỉ là giả tướng biến hóa ra mà thôi. Tôn giả nhận lời hứa. Trong lúc Ma vương biến hóa thành tướng Phật, Tôn giả trông thấy bất giác như gặp được Phật, trong lòng vui sướng vô cùng liền lễ bái không ngớt. Ma vương phục hồi nguyên hình, có đôi chút phiền trách Tôn giả đã không giữ đúng lời hứa. Nhưng Tôn giả cho biết là không phải Tôn giả lễ kính Ma vương mà chính là kính lễ Phật, bởi vì trong tâm Tôn giả lúc ấy chỉ có thấy Phật chứ chẳng thấy chút hình bóng nào của ma cả. Việc đấu pháp của Tôn giả và Ma vương đã kết thúc. Sau đó Tôn giả hàng phục Ma vương bằng những lời lẽ đẹp đẽ. Nhờ việc hàng phục ma thành công đã khiến cho Phật pháp càng thêm hưng thịnh và việc hoằng pháp của Tôn giả càng được rộng rãi mau chóng.

c.- Hóa đạo tại thành Hoa Thị

Thành Hoa Thị là kinh đô mới của nước Ma Kiệt Đà, đặt dưới sự thống trị của A Thứ Già Vương (tức vua A Dục). A Thứ Già Vương là một vị vua danh tiếng kiệt xuất của Ấn Độ, là người cùng thời đại với Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa. A Thứ Già Vương không chỉ là một tín đồ Phật giáo thuần thành mà còn là một ông vua có công rất lớn trong việc hoằng truyền hộ trì Phật pháp, từng tạo tám vạn bốn ngàn tháp Phật, rất nổi danh trên thế giới.

Một ngày nọ, A Thứ Già Vương đến chùa Sát Kê Đầu Mạt thăm Thượng tọa Da Xá. Trong lúc đàm đạo, Thượng tọa Da Xá nhắc về việc lúc Đức Phật còn tại thế có nói rằng sau Phật diệt độ một trăm năm sẽ có một vị vua nổi tiếng ra đời hưng long Phật pháp, đấy tức là chỉ cho A Thứ Già Vương. Riêng về vị cao Tăng lãnh đạo Phật giáo là chỉ cho Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa vậy. A Thứ Già Vương cũng đã từng nghe về truyền thuyết này, và cũng được nghe nói tại nước Ma Đột La có một vị Tăng đạo cao đức trọng rất được mọi người tôn sùng ngưỡng mộ. Hiện tại lại nghe Thượng tọa Da Xá nhắc lại lời Phật ký sau một trăm năm sẽ có một vị cao Tăng hóa độ nhân thế khiến cho nhà vua phải chú ý, liền hỏi Da Xá rằng:

- “Kính bạch Đại đức, như Đại đức vừa nói lời Phật thọ ký vị cao Tăng, chẳng hay vị ấy đã ra đời hay chưa?”.

Da Xá đáp: “Tâu Đại vương, vị cao Tăng này đã ra đời rồi và đã chứng quả A La Hán. Nếu như Đại vương rảnh việc quốc chính nên đến viếng thăm sẽ có rất nhiều lợi ích lớn”.

A Thứ Già Vương rất hoan hỷ tiếp nhận lời đề nghị của Thượng tọa Da Xá, lập tức trở về vương cung, phái sứ giả đến trước thưa với Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa rằng vua sắp đến thăm ngài. Lúc ấy, Tôn giả có sáng lập một ngôi đạo tràng lớn ở núi Ưu Đà nước Ma Đột La, thường có một vạn tám ngàn đệ tử thân cận tu học hoằng pháp. Khi ngài biết A Thứ Già Vương sắp đến thăm, e rằng sẽ gây sợ hãi cho dân chúng trong nước, ngài quyết định làm một người bạn không mời, tự mình sẽ đến thăm nhà vua, làm một chuyến du hành đến thành Hoa Thị. Sứ giả nghe tin Tôn giả sẽ tự thân đến thành Hoa Thị, vội vã quay trở về báo tin cho A Thứ Già Vương biết. Quốc vương rất lấy làm vinh hạnh, chuẩn bị nghênh tiếp, ra lệnh dọn dẹp sạch sẽ đường sá, trang sức bằng các loại hoa thơm, có cả đội nhạc dàn chào. Khi Ưu Ba Cúc Đa cùng các đệ tử tùy hành gần đến vương thành, nhà vua dẫn bá quan, Tăng chúng cùng đông đảo nhân dân ra khỏi thành nghênh tiếp. Khi vừa gặp Tôn giả, nhà vua liền năm vóc sát đất kính lễ. Bá quan cùng với nhân dân vì quá đông đảo nên chỉ đứng chắp tay cung kính xá chào. Sau đó vua tiếp rước Tôn giả về vương cung, thỉnh ngài đăng bảo tòa khai thị Phật pháp, khiến cho đại chúng đồng triêm pháp lợi. Nhà vua thành tâm cúng dường Tôn giả và các đệ tử của ngài. Trong lúc gặp gỡ, nhà vua được Tôn giả kể cho nghe sự tích một đời hoằng đạo của Đức Phật, nhà vua sinh khởi lòng ngưỡng mộ vô hạn, phát nguyện đi thăm viếng và lễ bái những Thánh tích của Phật, xây tháp để kỷ niệm, cầu mong Tôn giả vì vua mà hướng dẫn. Tôn giả vui vẻ đồng ý. Sau vài ngày nghỉ ngơi, ngài hướng dẫn nhà vua đi tham lễ Thánh tích của Phật như: Nơi đản sinh, trên núi tu đạo, chỗ thuyết pháp và cánh rừng Niết bàn... đều đến chiêm bái không sót một chỗ nào. Đến đâu nhà vua cũng bố thí cúng dường, xây tháp sửa chùa, kính lễ rất thành tâm. Sau khi thăm viếng các Thánh địa trở về, nhà vua lại cử hành đại hội bố thí rộng khắp. Chuyến đi này của Tôn giả có ảnh hưởng rất lớn đối với A Thứ Già Vương và nhân dân nước Ma Kiệt Đà, vì thế lực Phật giáo lúc bấy giờ được cổ vũ rất mạnh mẽ. Công việc hoằng hóa đã xong, Tôn giả liền trở về, quốc vương cùng thần dân cung kính tiễn đưa mà lòng cứ lưu luyến mãi không thôi.

d.- Phổ độ những người hữu duyên

Tôn giả có hoài bão và tâm nguyện hoằng pháp độ sinh, cho nên trong khi du hóa hễ gặp người nào có duyên ngài đều hóa độ tu hành đắc đạo. Một ngày nọ, ngài hành hóa trong thành Túc La, có một phú thương tên Thiện Hộ nhờ sự buôn bán thuận lợi nên muốn thiết lập đại hội bố thí rộng khắp và cúng dường Tăng già. Có một vị Tăng phàm phu tên A Sa La cũng được mời thỉnh cúng dường. Riêng có một vị Thánh Tỳ-kheo-ni đã nêu ý kiến với A Sa La nên trang nghiêm thân tâm để thọ sự cúng dường. A Sa La rất vô tâm, liền cạo sạch râu tóc, tắm gội thân thể sạch sẽ, mặc y thanh tịnh vào. Thánh Tỳ-kheo-ni biết A Sa La hiểu lầm ý mình nên nhắc lại cho A Sa La rõ là phải tẩy rửa thân tâm cho thanh tịnh trang nghiêm để đến dự đại hội. A Sa La rất tức giận vì cho rằng Thánh Tỳ-kheo-ni chê bai mình không trang nghiêm thanh khiết. Thánh Tỳ-kheo-ni giải thích rằng:

- “Bạch Đại đức! Tôi nói trang nghiêm không phải là trang nghiêm tâm tướng bên ngoài, mà là tẩy trừ tâm cấu uế để trang nghiêm Phật pháp bên trong vậy!”.

A Sa La nghe rồi mới nhận biết mình lầm lẫn và hổ thẹn vô cùng. Bởi vì ông chưa được Thánh đạo trang nghiêm cho nên mới có phiền não ô trược trong tâm. Nhờ Thánh Tỳ-kheo-ni nhắc nhở, ông đã đến thân cận học tập với Ưu Ba Cúc Đa Tôn giả. Sau khi được Tôn giả khai thị pháp yếu, lại nhờ uy đức gia bị của Tôn giả khiến cho A Sa La có được tâm ý sáng suốt, đột phá vô minh, chứng quả A La Hán, giải thoát sinh tử.

Lại có một vị Tỳ-kheo mới theo Tôn giả xuất gia được ngài chỉ dạy phép tọa thiền tu quán, nhưng vì do tâm lười biếng, nhàn tản nên chẳng bao lâu ông rơi vào con đường mộng ảo. Tôn giả dùng phương tiện hết sức dạy dỗ khuyến khích. Ngài thị hiện thần thông biến nơi trụ xứ thành một thân cây, ba mặt đều là những hố sâu, chỉ có một con đường nhỏ bằng cành cây dẫn đến gốc cây, nơi đó chỉ có một chỗ ngồi nhỏ hẹp. Tôn giả bảo vị Tỳ-kheo đến tọa thiền dưới gốc cây nguy hiểm này, ông ta quá sợ nhưng chẳng dám trái lời dạy của thầy. Từ đó ông phải chăm chú tinh cần không một chút phân tán, chuyên tâm nhất chí phòng hộ thân tâm, e rằng nếu chỉ một chút lơ là có thể sẽ rơi xuống vực sâu tan nát thân xác. Nhờ phương tiện đặc thù cảnh giác cao độ này khiến vị Tỳ-kheo không chỉ phá trừ được sự quấy nhiễu khốn khổ của ma ngủ, mà còn do sự nhất tâm bất loạn này mà ông đạt được chính định, phát sinh ánh sáng trí tuệ, tiêu diệt hết vô minh hắc ám, tiến nhập vào thế giới quang minh thành bậc Thánh tự tại.

Cách quan sát căn cơ để dạy dỗ của ngài là phương tiện rất thù thắng, những người được hóa độ và đắc đạo đều là những người có duyên cả. Những người được ngài giáo hóa và chứng đạo cho đến khi ngài nhập diệt rất nhiều, nếu lấy thẻ tre mà ghi chép, có thể chứa đầy một thạch thất cao lớn sáu trượng. Điều này cho thấy sức giáo hóa độ người của ngài thật vô lượng vô biên. Riêng số người tại gia tín ngưỡng quy y theo ngài thì thật là không thể tính kể được.

e.- Công thành Niết bàn

Sau Phật diệt độ một trăm năm, những đệ tử của Ngài đều siêng hoằng đạo để Phật pháp lưu truyền không dứt, trong đó có bốn vị Đại sư có rất nhiều công đức đáng được truyền tụng là: 1/ Đại Ca Diếp, 2/ A Nan, 3/ Thương Na Hòa Tu, 4/ Ưu Ba Cúc Đa. Các ngài xoay chuyển kế thừa Phật pháp khiến cho mạng mạch miên trường. Mỗi vị Đại sư trong lúc giữ gìn, gánh vác Như Lai đại pháp đều đặc biệt quan tâm đến tương lai Phật pháp. Ở trong chúng Tăng tìm kiếm những bậc nhân tài xuất chúng, để sau này luân lưu gánh vác việc trụ trì Phật pháp theo đúng như lời Phật phú chúc.

Thời quá khứ, sau khi Phật diệt độ, Tôn giả Ca Diếp lãnh thọ phú chúc của Đức Phật mà lãnh đạo Tăng đoàn, trụ trì Phật pháp. Sau khi Ca Diếp nhập định ở núi Kê Túc, Tôn giả A Nan nối tiếp sứ mạng lãnh đạo truyền dương Phật pháp. Lúc A Nan nhập diệt phú chúc cho Thương Na Hòa Tu phụ trách hoằng dương Chính pháp. Và Thương Na Hòa Tu truyền trao trách nhiệm lớn cho Ưu Ba Cúc Đa. Đến lúc Tôn giả Ưu Ba Cúc Đa cũng đã vì Phật pháp mà làm tròn trách nhiệm của mình một cách tận tâm tận lực. Thế sự vô thường, có sinh ắt phải có diệt, Tôn giả đã đắc quả Thánh, ngài luôn ghi nhớ đến trách nhiệm và chúng sinh đời sau, nên ngài rất quan tâm trong việc tìm người phó thác Phật pháp để kế thừa sau này.

Một lần nọ, tại nước Ma Đột La, Tôn giả tình cờ gặp một thanh niên tên Đề Ca Ca, oai nghi biểu hiện khác tục, trí tuệ sáng suốt lạ thường, có thể làm bậc pháp khí. Tôn giả bèn hỏi thăm lai lịch, quê quán và dùng mọi phương tiện khuyến khích chỉ dẫn. Sau khi hiểu được Phật pháp, Đề Ca Ca mong muốn xuất gia. Tôn giả quy y thế phát cho Đề Ca Ca và hết lòng thương yêu dạy bảo, làm phát huy ánh sáng quý báu của viên ngọc quý ẩn tàng bấy lâu. Lúc Đề Ca Ca tròn hai mươi tuổi được thọ Cụ túc đại giới, hoàn thành Tăng cách một cách kiện toàn xứng đáng làm ruộng phước cho nhân gian. Đề Ca Ca không phụ lòng mong mỏi của Tôn giả, trong lúc thọ giới đệ tam Yết- ma liền chứng tam minh lục thông, thành bậc A La Hán phạm hạnh đã lập. Đây là sự kiện vui mừng lớn lao trong cuối đời của Tôn giả. Lúc ấy Tôn giả phú chúc cho Đề Ca Ca rằng: “Hãy thắp lên ngọn đèn sáng lớn chiếu khắp nơi mê tối, khiến cho mọi người đều được lợi lạc, phát tâm tu đức, đoạn tuyệt lưới ái, ra khỏi đám bùn dục vọng”.

Việc chuyển đại pháp luân, cứu khổ chúng sinh đã có người kế thừa sau này rồi, Tôn giả coi như đã làm tròn trách nhiệm, những năm còn lại nơi cuộc đời ngài tùy duyên hóa độ. Không bao lâu việc hóa duyên của Tôn giả cũng đã xong. Ngài ở Ưu Đà Sơn sau khi biến hóa thần thông mười tám lần liền nhập vào Vô dư Niết bàn. Các đệ tử lấy thẻ tre trong thạch thất hỏa táng di thể ngài. Lúc ấy đại địa chấn động, thái hư buồn ảm đạm. Sau khi lễ trà tỳ chấm dứt, đệ tử thu xá lợi và xây tháp phụng thờ. Đây là vật kỷ niệm hữu hình duy nhất của ngài còn lưu lại nhân gian mà các bậc hiền nhân và chúng sinh đời sau thường chiêm ngưỡng lễ bái cúng dường.

Đề Ca Ca nhận lãnh trách nhiệm giao phó mà hoằng truyền Phật pháp khắp nơi. Như vậy Phật giáo trong khoảng một trăm năm sau Phật diệt độ có năm vị Tổ nối tiếp nhau thừa kế. Từ đấy về sau, do sự phát triển xã hội phù hợp với thời đại mới nên đã có sự phân chia dòng và các bộ phái Phật giáo.

VUA A DỤC

1.- A Dục ra đời

Một trăm năm sau Phật diệt độ (trước Công nguyên chừng 270 năm) tại thành Hoa Thị nước Ma Kiệt Đà, Trung bộ Ấn Độ, ngày nọ có một tin được truyền đi khiến mọi người hân hoan là: Đệ nhất phu nhân của quốc vương Tần Đầu Sa La vừa hạ sinh một vương tử. Văn võ bá quan lần lượt vào triều kiến chúc mừng quốc vương. Bên ngoài thần dân ai nấy đều vui mừng, lớp lớp kéo nhau đến vương cung, vừa ca vừa múa rầm rộ biểu thị lòng vui sướng, chúc mừng quốc vương và cầu cho quốc gia ngày một tiến bộ hưng thịnh.

Quốc vương hết sức phấn khởi tiếp thọ sự chúc mừng nồng nhiệt của thần dân. Trước đây ngài rất yêu quý đệ nhất phu nhân, nay bà lại sinh thêm cho ngài một vị vương tử khiến ngài lại càng yêu quý hơn nữa. Ngài vào hậu cung thăm hỏi đệ nhất phu nhân. Phu nhân vừa sinh con trai lại được quốc vương yêu quý nên cảm thấy hạnh phúc vô hạn. Những ưu sầu phiền não thường ngày hay khởi lên nay đều tan biến hết không còn một chút dấu vết. Để kỷ niệm ngày sinh con ra trong niềm vô ưu, phu nhân yêu cầu quốc vương đặt tên con là A Dục, vì A Dục có nghĩa là Vô ưu. Quốc vương cũng cảm thấy vô ưu rất hợp với tâm tình và nguyện vọng của mình lúc bấy giờ, cho nên ngài đồng ý đặt tên cho vị vương tử mới ra đời là A Dục.

2.- Thuở thiếu niên không được như ý

Vương tử A Dục sinh trưởng nơi vương cung được phụ vương và mẫu hậu thương yêu vỗ về, tưởng chừng như được niềm hạnh phúc vô tận. Thế nhưng nguồn hạnh phúc chỉ có được ngắn ngủi tạm thời trong thời kỳ thơ ấu mà thôi. Còn từ tuổi niên thiếu cho đến lúc thành nhân, vương tử A Dục cảm nhận khoảng cách giữa mình và cha mẹ, anh em có nhiều điều sầu khổ không được như ý, ngày càng quấy nhiễu thân tâm không biết lúc nào mới có thể giải trừ được.

Nguyên do tướng mạo của vương tử A Dục có đôi chút kỳ quặc và khác lạ với mọi người. So với vương huynh, vương đệ, A Dục thiếu đi cái dáng vẻ của người vương tử cao quý mà chỉ hiện lên cái khí khái của bậc anh hùng hảo hán. Trong vương cung, vương tử A Dục bị tổn thương lớn về tình cảm, vì đối với anh em không được sự kính nể, phụ vương không còn yêu mến, cho nên A Dục ở trong cảnh ngộ thất sủng, một nỗi khổ tâm khó nói ra ngay từ khi còn niên thiếu. Thế nhưng A Dục vẫn còn được tình yêu thương nồng thắm của người mẹ, bà đã ban cho A Dục sự che chở từ ái, nhờ đó đã làm vơi đi những ưu tư uất ức trong lòng. Được sự che chở và khích lệ của mẫu hậu, A Dục đã phát khởi ý chí tiến thủ, tinh thần rất kiên cường bất khuất, không có một chút bạc nhược nản lòng thoái chí. Vương tử A Dục không vì những điều thống khổ bên ngoài đưa đến làm cản trở ý chí, mà trái lại lúc nào cũng tự mình phấn đấu, học tập, vì tiền đồ tương lai mà quyết tâm đi tới.

3.- Xem tướng nơi Vườn Vàng

Mặc dù vương tử A Dục có nhiều điều thất ý nhưng nhờ mẫu hậu thương yêu, an ủi vỗ về đã bù đắp phần nào nỗi bất hạnh, tạo được niềm vui trong lòng, do vậy mà A Dục vẫn an nhiên sinh hoạt và học tập.

Một ngày nọ, quốc vương ra lệnh cho các vương tử tập trung trong vườn Vàng, một thắng địa bên ngoài thành. Nghe nói có vị danh tướng sư tên Tần Lăng Già Bà Tha vâng lệnh vua sẽ xem tướng các vị vương tử để tuyển chọn người kế thừa vương quốc Ma Kiệt Đà. Bởi vì vua Tần Đầu Sa La tuổi ngày một cao mà lại có quá nhiều vương tử, nên vua băn khoăn khó quyết định, không biết lập ai làm thái tử để kế vị thống lãnh việc nước sau này. Đây là việc đại sự không thể nào kéo dài lâu được, vua chấp nhận biện pháp mời tướng sư vì vua mà xem tướng để tuyển chọn thái tử, nhằm biểu thị tấm lòng chí công vô tư của vua đối với các vương tử. Điều này không biết là có đúng như vậy hay không? Vương tử A Dục biết phụ vương bình sinh không yêu mến mình cho lắm, nên cũng chẳng hy vọng gì về việc này và không muốn tham dự, nhưng vì bị mẫu hậu ép buộc nên đành phải đến dự.

Trong khu vườn Vàng xuất hiện rầm rộ chưa từng thấy, nào là quốc vương, các vị phu nhân, các vương tử, văn võ bá quan và dân chúng vô số kể rủ nhau đến để xem tướng sư coi tướng tuyển chọn thái tử. Trong ngoài khu vườn Vàng trở thành một biển người. Có những người không thể chen chân vào được bên trong thì cũng đứng bên ngoài để chờ đợi tin tức về việc tuyển chọn thái tử.

Bên trong vườn, các vị vương tử đua nhau trang sức rực rỡ, áo quần đẹp đẽ, mong được tướng sư chiếu cố. Riêng vương tử A Dục thì trước sao nay vậy, chẳng cần trang sức gì thêm cả, đã vậy lại còn cỡi một con voi to lớn thô kệch tiến vào vườn. Thật ra con voi ấy là của La Đề Quật La, con của vị Thủ tướng đương triều tặng cho A Dục. Bởi vì La Đề Quật La thấy các vương tử đều ngồi trên những chiếc xe trang hoàng mỹ lệ, còn riêng vương tử A Dục thì đi bộ nên đã đưa tặng A Dục con voi to lớn ấy. Trong các vương tử, A Dục đã biểu lộ phong cách đặc biệt khác hẳn các vương huynh, vương đệ. Đó là điều mà vương tử A Dục có thể thắng một cách bất ngờ chăng?

Lúc ấy, quốc vương hạ chỉ tướng sư Tần Lăng Già Bà Tha bắt đầu xem tướng các vương tử. Biển người trong vườn lao xao chuyển động. Các vương tử xếp hàng trước mặt vị tướng sư. Tướng sư đi đi lại lại, xem thấy các vương tử ai ai cũng đều trang sức sang trọng, có khí khái của người vương tử nhưng không người nào có phước tướng vạn dân kính ngưỡng. Chỉ có vương tử A Dục là có tư cách phong độ khác thường không giống với các vị vương tử kia, cái tướng đại phước đức đáng bậc vương giả ẩn sâu bên trong không lộ ra bên ngoài hình dáng. Các vương tử giống như những ngôi sao sáng trên bầu trời thi nhau lấp lánh, còn vương tử A Dục như vầng trăng rực rỡ giữa các vì sao. Tướng sư trong lòng âm thầm kính phục. Thế nhưng, do vì tướng sư có nghe quốc vương không yêu mến vương tử A Dục, e rằng khi nói rõ chân tướng sợ quốc vương không vui, thậm chí sẽ mang họa vào thân nữa. Mặt khác ông cũng sợ các vị vương tử khởi tâm oán hận, tìm cách đối phó với vương tử A Dục thì hậu quả không sao lường trước được. Tướng sư suy nghĩ thật kỹ. Quả xứng đáng là người khéo thông nhân tình, cơ trí hơn người. Tướng sư báo với quốc vương rằng: “Dáng vẻ của các vương tử đều đầy đủ phước tướng, khó phân cao thấp, khó định được ai là người đại phước. Chỉ có cách là dựa theo việc ưa làm phước cao quý của các vương tử mà tìm cầu phân biệt. Như trong các vương tử người nào ăn mặc, đi đứng, tư cách thể hiện có phần ưu thắng hơn, người ấy xứng đáng được tuyển chọn”. Quốc vương nghe rồi, trong lòng bối rối khó mà quyết định. Các vương tử tranh nhau bày tỏ với quốc vương rằng mình có phước báu đệ nhất, nhao nhao ầm ĩ cả lên khiến quốc vương không sao ngăn được. Cuối cùng ngài phải tuyên bố việc xem tướng kết thúc, công việc tuyển chọn thái tử sẽ bàn lại sau, lúc đó các vương tử mới chịu yên. Quốc vương cùng triều thần đều trở về triều, dân chúng cũng phân tán khắp nơi. Các vương tử cũng còn ôm lòng hy vọng, đua nhau khoe mình phước lớn hơn người. Khi ấy chỉ có vương tử A Dục là thơ thới vui mừng vì đã hiểu được lời nói của tướng sư. Các vương tử chỉ lo tranh cãi nhau, không biết rằng vương tử A Dục trong cuộc sống bình thường có những đức hạnh mà các vương tử khó thấy khó cầu, đó là cái tướng phước ẩn tàng siêu xuất đệ nhất, hy vọng tương lai sẽ trở thành một vị vua. Tướng sư trên đường trở về gặp xa giá đệ nhất phu nhân hồi cung, liền nhẹ nhàng vượt lên chúc mừng: “Xin chúc mừng vương hậu! Vương tử A Dục phước tướng đệ nhất, tương lai ắt sẽ được làm vua”. Sau đó vội vàng từ biệt.

4.- Chinh chiến với nước lân cận

Kết quả xem tướng trong vườn Vàng chưa được viên mãn, quốc vương có phần lo lắng buồn rầu không yên. Bỗng nghe cận thần báo cáo nước thuộc bang Đắc Xoa Thi La tạo phản khiến nhà vua càng thêm lo lắng. Bởi vì điều này quan hệ nghiêm trọng đến quốc gia, nếu như không chinh phạt thuộc bang làm loạn thì quyền thế quốc vương sẽ bị tổn hại, uy tín sẽ bị tiêu mất. Quốc vương lập tức đình chỉ việc tuyển chọn thái tử để lo việc phái binh chiến đấu với nước làm loạn. Có lẽ trong lòng quốc vương có đôi chút thiên kiến nên đã phái vương tử A Dục vốn là người chưa có kinh nghiệm tác chiến làm chủ tướng cầm quân đi chinh chiến. Vương tử A Dục thân thể cường tráng, sức lực khỏe mạnh, học được đôi chút văn võ, tuy không có tướng mạo nho nhã, văn chương, nhưng lại có khí khái võ sĩ anh dũng hùng tráng. Tuy chưa một lần chinh chiến, nhưng A Dục vẫn an nhiên nhận lệnh của vua cha không một chút lo sợ. A Dục sẵn sàng phất cờ chỉ huy, không quan tâm đến binh tướng nhà vua cấp cho mạnh hay yếu, khí giới sắc hay cùn, cứ thế dẫn đầu đội ngũ xông pha chiến trận. Trong lúc hành quân, A Dục rất xem trọng kỷ luật quân đội, thưởng phạt phân minh, đối với binh tướng bộ hạ đồng cam cộng khổ với nhau, điều này khiến cho bộ hạ cảm phục tài năng lãnh đạo của A Dục, một lòng nghe theo sự chỉ huy. Cho nên việc kéo quân đi không gặp gì trở ngại, chẳng bao lâu đã đến chỗ nước phiến loạn.

Quốc vương Đắc Xoa Thi La được tin vương tử A Dục lãnh đạo đại quân kéo đến nước mình một cách thần tốc như vậy, khiến nhà vua kinh ngạc đến lo sợ hoang mang, vội vã xuất quân ra khỏi thành nghênh chiến. Lúc ấy vương tử A Dục tự thân tiến về phía trước, xông pha chiến trận, tướng sĩ thấy chủ tướng chiến đấu trong tinh thần không sợ sệt, khiến họ càng thêm phấn chấn, hăng say, một người đương đầu với cả mười quân địch. Quân của nước Đắc Xoa Thi La đại bại, chạy trở vào trong thành cố thủ. Vương tử A Dục thừa thắng xông lên truy kích tới cùng. Vua quan, tướng sĩ nước phản loạn biết không thể chống cự lại, bèn ra khỏi thành nhận tội xin đầu hàng.

Tin tức thắng lợi đầu tiên được truyền về bản quốc, quan dân trong nước vui mừng đến ngạc nhiên, sinh khởi lòng khâm phục kính ngưỡng vô hạn đối với A Dục. Quốc vương cũng không ngờ đến chuyện thành công tốt đẹp này và bắt đầu có cái nhìn khác về vương tử A Dục. Không bao lâu, vương tử A Dục kéo quân chiến thắng trở về, được triều thần và muôn dân đón tiếp vô cùng trọng thể. Việc cử binh chinh phục nước phản loạn của vương tử A Dục đạt được thắng lợi đã làm chấn động các nước thuộc bang xa gần. Bắt đầu từ đấy vương tử A Dục được nổi danh là anh hùng dũng mãnh thiện chiến. Về sau, quốc vương nhiều lần phái A Dục ra trận, mỗi lần chiến đấu đều mang thắng lợi về. Nhờ vậy mà A Dục có được nhiều kinh nghiệm nơi trận địa và trưởng thành về tài năng quân sự. Đây là một trợ lực rất lớn giúp cho A Dục thống nhất Ấn Độ sau này. Tuy nhiên, sự thành công trong vương nghiệp của A Dục không chỉ ở chỗ tài năng quân sự đặc biệt xuất sắc ấy mà thôi đâu.

5.- Huynh đệ tranh vị

Lần trước A Dục vương tử đã chinh phục được nước Đắc Xoa Thi La, nhưng sau một thời gian chỉnh đốn lại lực lượng quân sự hùng mạnh, vua nước này lại nổi lên làm loạn. Lần này quốc vương phái vương tử Tô Thâm Ma là vị tướng tài năng có nhiều kinh nghiệm chiến trường, tướng sĩ thuộc hạ rất tinh nhuệ. Đại quân của Tô Thâm Ma đi chiến đấu so với quân của A Dục lần trước thì thế mạnh hơn nhiều. Nhưng quân phản loạn cũng dũng mãnh không kém, chống cự rất kiên cường khiến cho chiến sự phải kéo dài, khó có thể mà chinh phục nổi. Tin tức truyền về bản quốc khiến nhà vua lo lắng vô cùng. Bởi vì trong các vương tử, Tô Thâm Ma được quốc vương rất thương yêu, có ý muốn đưa lên làm thái tử, cho nên sự an toàn của Tô Thâm Ma rất quan trọng đối với nhà vua. Vì quá lo âu, chẳng bao lâu nhà vua lâm bệnh nặng. Sợ hỏng việc nước, vua liền triệu tập các vị đại thần để bàn bạc hai việc chính yếu. Một là đề nghị lập Tô Thâm Ma làm thái tử, hai là phái vương tử A Dục thống lãnh đại quân tăng viện cho Tô Thâm Ma. Nhưng cả hai đề nghị lớn này đều bị triều thần phủ quyết, bởi vì các quan trong triều đều quy phục vương tử A Dục. Nhất là vị Thủ tướng vốn đã có sự bất hòa với vương tử Tô Thâm Ma, từ khi bị vương tử này trêu đùa làm nhục ông về cái đầu hói. Cho nên Thủ tướng đã kiến nghị với quốc vương vấn đề ngược lại là lập vương tử A Dục lên làm vua trông coi việc nước. Ngày sau, khi vương tử Tô Thâm Ma trở về sẽ giao việc trị quốc lại cho ông. Trong tình thế ấy, quốc vương không biết làm thế nào hơn, lòng càng thêm sầu não khiến bệnh tình càng gia tăng và nhà vua đã băng hà. Văn võ bá quan trong triều suy tôn vương tử A Dục lên ngôi vua. Bắt đầu công việc quốc chính mới, A Dục liền ủy nhiệm La Đề Quật La, con trai vị Thủ tướng làm đệ nhất phụ thần, ông này là người tài trí và chính là người đã tặng con voi cho vương tử A Dục trước đây. Từ nay trách nhiệm của vua A Dục hết sức nặng nề.

Tin quốc vương băng hà và vương tử A Dục được triều thần suy cử lên ngôi báu, truyền đến đội quân của vương tử Tô Thâm Ma giống như tiếng sét đánh giữa trời quang làm chấn động mọi người. Nhất là vương tử Tô Thâm Ma quá đau buồn thương tiếc người cha đã qua đời một cách đột ngột, lại thêm vương vị đã về tay A Dục. Tô Thâm Ma không còn đầu óc đâu để mà đánh quân phiến loạn nữa, vội vàng hạ lệnh rút quân về nước để chịu tang, dựa vào cớ này để giữ gìn lực lượng chuẩn bị tư thế tranh giành vương vị.

Tướng lãnh bộ hạ của Tô Thâm Ma đều là những người thân tín, rất ủng hộ và trung thành phục vụ ông như tình cảm bạn bè. Vì họ cũng đều muốn ông lên làm vua để họ dễ dàng thăng quan tiến chức và cầu được nhiều lợi dưỡng. Cho nên trên dưới một lòng tuân thủ và phục vụ Tô Thâm Ma hết mình, điều này đã làm cho tinh thần sĩ khí càng mạnh thêm lên... Lúc ấy đại quân vội vã rút lui, trở về thành Hoa Thị. Ngay cả đến quân nước phản loạn đang truy kích cũng không ngờ đến việc rút quân nhanh chóng của vương tử Tô Thâm Ma. Nhân cơ hội này nước phản loạn liền bổ sung lực lượng, chỉnh đốn quân ngũ.

Vua mới cùng quần thần nơi thành Hoa Thị nghe tin đại quân của vương tử Tô Thâm Ma rút về nước, buông bỏ nhiệm vụ đánh dẹp nước phản loạn. Biết đây không phải là tin lành, cho nên quần thần một mặt sớm kết thúc việc quốc tang, mặt khác lo nghiêm thủ thành trì, chuẩn bị lực lượng kháng cự hành động quân sự của Vương tử Tô Thâm Ma. Trong sách lược chỉ đạo phòng thủ và kháng chiến, tân Thủ tướng La Đề Quật La cống hiến nhiều mưu lược, phần lớn đều được vua A Dục chấp nhận. Trong đó có một kế hoạch là dùng máy móc chế tạo một con bạch tượng có thể cử động được, bên trên đặt bức tượng vua A Dục, bốn chung quanh rải cỏ đất, phía dưới là hầm sâu, được đặt ở cửa thành phía Đông để dụ quân địch lọt vào đó.

Đại quân của vương tử Tô Thâm Ma về tới phía ngoài thành Hoa Thị, liền phân chia làm bốn cánh tiến quân. Thế là chiến tranh huynh đệ bắt đầu bộc phát. Người đến quyết phải lấy cho bằng được, còn người giữ càng cố gắng chống cự lại. Thật không làm sao tránh khỏi cảnh tượng chiến tranh ác liệt và tàn khốc xảy ra. Vương tử Tô Thâm Ma là danh tướng có kinh nghiệm lâu năm nơi chiến trường. Vua A Dục cũng là dũng sĩ nổi danh trong và ngoài nước. Chiến sự xảy ra, hai bên đều dốc hết toàn bộ lực lượng và ra sức chiến đấu một cách kiên cường, thật khó mà phân thắng bại. Nhưng thật bất hạnh cho vương tử Tô Thâm Ma! Vương tử đã cầm quân tiến về cửa phía Đông và bị trúng kế rơi xuống hầm sâu mất mạng. Chủ tướng đã chết, quân đội của Tô Thâm Ma hoảng loạn tan rã, kết quả vua A Dục toàn thắng. Theo truyền thuyết thì số bộ hạ tướng sĩ của vương tử Tô Thâm Ma, ngoài những người bị tử thương ra, số còn lại đều trốn vào trong núi sâu rồi xuất gia tu hành ở đó có đến hàng vạn người.

Sau khi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn chấm dứt, vua A Dục mới an tâm dồn mọi nỗ lực kiến thiết quốc gia. Vua A Dục thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại một cách xuất sắc, lúc ấy mới hiển xuất tài năng chính trị rất phi thường của ông. Thế nhưng trong thời kỳ đầu khai triển vương nghiệp mọi việc không phải đều yên xuôi cả.

6.- Khai phát vương nghiệp

Vào thời Đức Phật còn tại thế, Ma Kiệt Đà là một trong tám nước lớn của Ấn Độ. Sau khi Phật diệt độ, thế lực của nước Ma Kiệt Đà khá mạnh, đã từng thôn tính vài quốc gia khác. Cho đến thời vua Tần Đầu Sa La, trong các quốc gia lớn nhỏ tại Ấn Độ lúc bấy giờ, Ma Kiệt Đà đã trở thành cường quốc bá chủ một phương. Trong khoảng thời gian một trăm năm sau Phật diệt độ, nước Ma Kiệt Đà cũng đã bao lần thay đổi triều đại thống trị. Theo sử Ấn Độ, phụ thân của Tần Đầu Sa La đã sáng lập ra vương triều Khổng Tước, cho đến vua A Dục là đời thứ ba, chính là lúc đang hưng thịnh. Sau khi vua A Dục kế thừa ngôi vua, trong nội bộ đã tiêu diệt được tập đoàn quân sự rất lớn của vương tử Tô Thâm Ma. Điều này khiến cho máu anh hùng trào dâng mãnh liệt, không một thế lực nào có thể ngăn chặn được quyền uy cuồng nhiệt của ông. Trong việc đối nội đối ngoại, ông đều thực thi đường lối chính trị cứng rắn nghiêm khắc hầu như là bạo ngược.

Căn cứ truyền thuyết, có khoảng năm sáu trăm quan viên trong triều tỏ thái độ bất mãn và xem thường vua đều bị ông hạ lệnh giết hết. Lại có năm trăm cung nữ theo vua dạo chơi trong vườn, các cung nữ đối với vua chỉ có đôi chút kính trọng vì quyền uy chớ họ thường không thích thân cận, đôi khi có những biểu hiện thô tháo. Thừa lúc vua nghỉ ngơi, họ tản mạn trong vườn đùa giỡn, bẻ hoa mà chơi, vua biết được truyền đem họ ra thiêu chết. Có lẽ do lúc niên thiếu A Dục có quá nhiều điều không được như ý, nên khi làm vua nắm quyền trong tay đã thỏa thích làm theo những ưa muốn tùy hứng của mình, mà không chút thương xót nỗi thống khổ của nhân dân. Trong việc trừng trị tội phạm, ông lập ra một nhà lao ngục lớn cực kỳ hà khắc, lại cử một người cực kỳ hung ác tên Kỳ Lê trông coi ngục này, khiến tội nhân phải chịu những khổ hình ghê gớm. Phàm người nào vào trong ngục thọ tội rồi thì không có hy vọng được trở ra. Quan ngục Kỳ Lê thấy tội nhân chịu hình phạt thảm khốc thì lấy đó làm vui, cho nên lao ngục này được gọi là ngục Ái Lạc. Trong thời kỳ đầu mới trị vì, vua A Dục thi hành chính sách cai trị rất khắc nghiệt, khiến nhân dân ta thán, oán trách đủ điều, cho đến mắng chửi ông ta là vua hung ác bất nhân bất nghĩa và đặt cho ông cái tên là “Hắc A Dục”.

Về đối nội, vua A Dục ngược đãi nhân dân, dùng võ lực để đàn áp các vương hầu bất phục tùng. Về đối ngoại, ông dùng hành động quân sự để đối trị và xâm lược các nước khác, mở rộng thêm uy quyền thống trị của mình. Cũng do tài năng quân sự kiệt xuất mà vua A Dục đã thành công một cách ưu việt, thống nhất được toàn lãnh thổ Ấn Độ mà từ trước tới giờ chưa một ai làm được. Do vậy ông đã trở thành một ông vua có công khai phá rất lớn trong lịch sử Ấn Độ, ấy chính là một thành tựu rất huy hoàng của ông.

Thế nhưng do tác phong cai trị bạo ngược cho nên những thắng lợi của ông chỉ mang tính cách là hoành hành xưng bá mà thôi. Bỗng nhiên có một sự thay đổi rất lớn lao. Vua A Dục đổi mới lập trường chính trị, từ một kẻ bạo ngược trở thành một vị đại đế vương sùng nhân chuộng nghĩa ở thế gian khó có ai sánh kịp. Lịch sử Ấn Độ ghi chép đó là một trang sử quang huy, thực sự là một điều hiếm có lạ thường trên thế gian này vậy.

7.- Dùng Chính pháp trị nước

Việc đại cách tân tư tưởng chính trị của vua A Dục theo truyền thuyết là do hai nguyên nhân lớn sau đây tạo thành.

Nguyên nhân thứ nhất là lúc vua A Dục chinh phục nước Yết Lăng Già (Kalinga) ở phía Đông Nam bộ Ấn Độ. Quân lực hai bên rất kiên cường, chiến sự cũng hết sức khốc liệt. Kết quả vua A Dục đã chiến thắng trận này, song lực lượng cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề, số người tử vong rất lớn lao. Tuy là người đã nhiều năm xông pha chiến trận, đánh Nam dẹp Bắc, nhưng vua A Dục chưa từng gặp một trận nào bị sát thương nhiều như thế, khiến vua A Dục không ngăn được mối thương tâm, trong lòng xót xa vô hạn. Khi đó ông chợt nhận ra rằng tội ác của chiến tranh rất lớn, đã khiến cho quân dân vô tội phải chết một cách thê thảm, lộ rõ sự ngu si của người thế gian vì tham vọng mà tạo nên cảnh tượng chém giết lẫn nhau thật là tàn khốc như tên đồ tể, cơ hồ như muốn hủy diệt tất cả. Một nỗi xót xa trong lòng, không nỡ nhìn thấy cảnh máu đổ thịt rơi nữa, cho nên vua A Dục quyết định dùng đức thay chính trị hà khắc để giáo hóa thiên hạ. Việc thay đổi quá nhanh chóng này khiến thần dân trong nước chân thành cảm phục và kính ngưỡng, xóa đi quan niệm ác vương ban đầu.

Còn thuyết thứ hai cho rằng nhà vua được cảm hóa bởi tài đức của một vị xuất gia học Phật tên là Hải Tỳ-kheo. Theo truyền thuyết thì cha mẹ Hải Tỳ-kheo là thương nhân thu thập châu báu, do vì sinh Hải Tỳ-kheo trên biển nên đặt tên con là Hải để kỷ niệm. Lúc Hải được 12 tuổi cùng theo cha mẹ ra biển để thu thập châu báu, chẳng may gặp cướp biển, cha mẹ đều bị giết chết. Hải do còn nhỏ tuổi nên được tha, sau khi sống sót trở về, nhìn thấy nhân sinh đa khổ nên Hải bèn xuất gia học Phật. Một lần nọ, Hải Tỳ-kheo đi khất thực đến thành Hoa Thị. Vì là người phương xa đến nên không biết rõ con đường hiểm, Hải Tỳ-kheo đi lạc vào ngục Ái Lạc, bị quan ngục Kỳ Lê bắt giữ coi như là một tội phạm. Hải Tỳ-kheo thấy tên ác nhân này biết chẳng có thể lý sự được, chỉ tiếc là mình chưa chứng đạo quả mà phải chết uổng như vậy, rất lấy làm đau buồn và yêu cầu quan ngục hoãn lại cho ông bảy ngày sau sẽ chịu tội chết. Quan ngục đồng ý. Trong khoảng thời gian thật ngắn ngủi này, Hải Tỳ-kheo dốc lòng tu trì pháp tứ quán: Khổ, không, vô thường, vô ngã. Trong lúc thực hành tu quán, ngài lại tận mắt chứng kiến cảnh quan ngục hành hình những tội nhân rất tàn khốc, khiến việc thực hành pháp quán của ngài càng thêm phần sâu sắc nhập thần. Nhờ sự bức thiết trong ngoài này, ngài mau chóng đoạn được các phiền não hệ lụy, đắc quả A La Hán giải thoát, giống như từ trong hầm hố hiểm độc tối tăm mà nhảy ra khỏi, đến được chỗ an lạc sáng suốt. Đúng bảy ngày trôi qua, quan ngục không cần nói năng gì cả, liền đem ngài đặt vào trong vạc nước đang đun sôi, nhưng không thể nào làm thương tổn đến thân xác ngài, ấy là do ngài hiển thị thần thông bất khả tư nghị. Quan ngục kinh hãi báo lên cho vua biết. Vua A Dục lập tức cùng thị vệ vào ngục, thấy tận mắt Hải Tỳ-kheo đang ung dung tự tại hiển thị thần thông trong vạc nước sôi sùng sục. Lúc này nhà vua mới biết sự tu luyện của bậc Thánh Tăng chẳng phải là chỗ kẻ phàm phu có thể đo lường được. Nhà vua liền sinh khởi lòng tôn kính tột cùng chưa từng có! Hải Tỳ-kheo nhân cơ hội này nói lại lời ký của Đức Phật rằng: “Sau Phật diệt độ một trăm năm sẽ có một vị vua ứng vận sinh ra làm Chuyển Luân Vương thống nhất thiên hạ, lấy Chính pháp trị thế, hoằng dương hộ trì Phật pháp”. Vua A Dục nghe xong bất giác trong lòng chuyển động, có cảm giác như mình hòa vào trong lời ấy, khiến ông phát khởi niềm tin cao quý. Hải Tỳ-kheo lại khai thị tiếp: “Việc bày ra đại lao ngục hại mạng chúng sinh như vậy là biện pháp không hợp với Chính pháp. Nên “lấy vô úy mà thí cho hết thảy chúng sinh”, ấy là thực hành Chính pháp một cách rộng rãi, có như vậy mới là một vị vua vinh quang đáng tôn kính”. Vua A Dục lãnh thọ lời chỉ giáo liền giác ngộ, rất lấy làm hối hận về lỗi lầm của mình và tin nhận lời chỉ dạy của Hải Tỳ-kheo mà phụng trì Phật pháp, triển khai sinh hoạt chính trị mới, vận động đường lối mới là đem Chính pháp trị nước, tôn sùng Phật pháp, bảo vệ chúng sinh. Việc làm đầu tiên là nhà vua hủy bỏ ngay ngục Ái Lạc, thay vào đó là lập viện nuôi dưỡng người già đơn độc, đem lòng từ cứu độ chúng sinh, giáo dục rộng rãi việc ngăn ác hành thiện, lập nhiều tháp Phật để cho nhân dân trong nước có cơ hội tác phước.

Việc thay đổi đột ngột tác phong chính trị đã đem vinh quang lớn lao đến cho vua A Dục. Sự mở rộng thành tích chính trị này khiến cho nhân dân tỏ niềm kính yêu, khâm phục, đã tôn xưng nhà vua bằng một danh hiệu vinh dự cao quý ít có xưa nay là “Pháp A Dục”.

8.- Hoằng hộ Phật pháp

Nhờ cảm nhận đức hạnh của Hải Tỳ-kheo nên vua A Dục biểu hiện lòng tôn sùng kính ngưỡng Phật pháp rất chí thành kính tín và trung thực đôn hậu. Nhà vua đã nhận ra được rằng trước đây mình đã buông thả và đánh mất đi sự độ lượng cao quý của một vị vua, chưa thực sự chiếu cố đến phước lợi của thần dân, chỉ chú trọng đến việc mở rộng quyền uy, mà ngay đến bản thân mình còn chưa được hưởng sự an ổn còn nói chi đến việc làm phước giúp người. Quốc gia cần phải an định, nhân dân cần được lạc nghiệp, vậy mà vua thường hay vui chơi hoặc gây ra chiến tranh, chẳng những quấy nhiễu dân, làm nhọc dân mà còn làm hao tiền tốn của và sức lực của nhân dân, khiến lòng người lo sợ không lúc nào yên. Huống chi lại cùng nhau tàn sát, coi mạng người như đám cỏ, khiến chúng sinh chết bất đắc kỳ sở, ôm hận ngậm oán, làm vua lại nhẫn tâm nhìn thấy mà không nghĩ lại ư? Nhờ Hải Tỳ-kheo dũ lòng bi mẫn vì chúng sinh mà thí vô úy, khiến tâm linh vua A Dục phát sinh sự cảm mộ Phật pháp. Nhờ đó nhà vua đã cải tiến sinh hoạt tập quán, buông bỏ mọi truy cầu hưởng thụ dục lạc, một lòng tu sửa bản thân, dứt hẳn những hành vi săn bắn, túng dục ưa thích của mình, thay vào đó là những hành vi bảo vệ sinh mạng, làm phước đối với mọi người và chú trọng đến việc chăm lo đời sống cho nhân dân được sung túc. Vua còn ra sức răn dạy thần dân phụng hành giới thiện, chỉ bày lối sống theo Chính pháp, đem tinh thần giáo dục vô úy mà thí cho hết thảy chúng sinh một cách thực tiễn, hiển xuất thành quả chính trị mới của Pháp A Dục Vương mỗi ngày một thêm phát triển huy hoàng.

Việc hoằng hộ Phật pháp của nhà vua cũng đáng đặc biệt biểu dương, ông không những hết lòng thành tâm cung kính Tam Bảo mà còn cống hiến mọi thứ để hoằng dương Phật pháp. Nhà vua đem xá lợi của Phật ở trong tháp do vua A Xà Thế xây dựng trước kia, phân chia cúng dường kiến tạo tám vạn bốn ngàn bảo tháp, khiến cho nhân dân các nơi có cơ duyên chiêm lễ tháp Phật, cùng gieo phước tạo nhân lành mà không phải đi xa nhọc mệt. Ngài lại phái nhiều vị Đại đức Tăng già chia nhau đi truyền bá Phật pháp, hy vọng nhân dân xa gần đều có thể thấm nhuần Phật pháp. Đấy là tâm nguyện quảng đại vì lợi ích của chúng sinh ở thế gian mà hướng dẫn hoằng pháp hộ giáo, hành động vĩ đại đó xưa nay khó kiếm được mấy ai!

Vua A Dục được xem là bậc Chuyển luân Thánh vương nơi thế gian. Không những ông đã vì Phật pháp phụng hiến lớn lao mà còn tự đào luyện thành công lòng bi mẫn đức độ rộng lớn, siêu xuất những ông vua bình thường ở thế gian. Lịch sử Tây phương so sánh công nghiệp anh võ cái thế của ông ngang hàng với Đại đế Khải Táp (César), Đại đế A Lịch Sơn (Alexendre), Đại đế Nã Phá Luân (Napoléon)... được nhân loại trên thế giới biết đến và kính ngưỡng. Đối với Đông phương, đức nghiệp sáng chói của Đại đế A Dục khiến nhân loại khâm phục không phải ở chỗ võ công cái thế hay xây dựng nhiều tháp miếu, mà chính là do ông đã đem Chính pháp giáo hóa thế gian. Dù có quyền thế uy lực tột đỉnh nhưng ông không có một chút kiêu ngạo phóng túng, chỉ lấy đức làm mục đích để giáo dục dân chúng. Không những tại Đông phương ít có mà cả Tây phương cũng khó kiếm được người như thế.

9.- Thân cận thiện tri thức

Những người học Phật không luận Tăng hay tục đều coi việc thân cận thiện tri thức là điều trọng yếu không thể nào thiếu được. Vua A Dục tuy là vị vua cao quý đối với thiên hạ, nhưng với Phật giáo, ông là một tín đồ tại gia. Để chứng tỏ lòng thành kính và không kiêu mạn, nhà vua thường thân cận cầu học nơi các bậc Đại đức Tăng già. Chùa Kê Đầu Ma là một thắng địa Phật giáo nổi danh tại thành Hoa Thị, nơi đây có nhiều vị Hiền Thánh Tăng trụ trì hóa đạo, hoằng truyền Phật pháp. Trong số đó, có một vị Thượng tọa Tỳ-kheo tên Da Xá là bậc thượng thủ Tăng già đạo cao đức trọng, cũng chính là bậc đại thiện tri thức mà vua A Dục thường hay thân cận. Trong những lúc ngài dạy đạo, vua A Dục hay đem nghĩa lý Phật pháp ra để cầu học hỏi mở rộng kiến thức, nhờ đó mà tín tâm ngày một lớn, pháp hỷ ngày càng phong phú, khiến cho tâm hoằng giáo hộ pháp và nguyện thân thiện tác phước của vua càng thêm tinh tấn không ngừng.

Một lần nọ, Thượng tọa Da Xá cho vua A Dục biết là tại Na Na Bạt Lợi A Lan Nhã, núi Ưu Lâu Mạn Đà nước Ma Đột La, có một vị Thánh Tăng là Tỳ-kheo Ưu Ba Cúc Đa. Ngài là vị đại thiền sư nổi tiếng “Giáo thọ thiền pháp, thật là đệ nhất”, đệ tử do ngài giáo hóa có đến hàng vạn vị A La Hán. Vua A Dục lại được nghe Thượng tọa Da Xá nói vị Đại sư này cũng ra đời ứng theo lời huyền ký của Đức Phật giống như trường hợp của vua A Dục, nhưng phân chia nhau người thì gánh vác việc trụ trì Phật pháp, người thì lo hộ trì Phật pháp. Vua lộ vẻ hoan hỷ khôn xiết, muốn đến ngay chỗ ngài để kính lễ. Đủ thấy lòng khát vọng thân cận thiện tri thức của vua A Dục rất là hiếm có.

Vua A Dục liền phái sứ giả đến báo trước cho Đại sư Ưu Ba Cúc Đa biết là vua sẽ đến thăm. Nhưng Đại sư nghe tin nhà vua sẽ đến tham vấn, ngài e sợ đội quân hộ tống của nhà vua quá đông sẽ làm kinh nhiễu dân chúng nơi đây, liền nhờ sứ giả trở về báo cho vua biết là Đại sư sẽ tự du hóa đến thành Hoa Thị. Vua A Dục rất lấy làm hoan hỷ, truyền chỉ cho thần dân chuẩn bị đường sá sạch sẽ, trang hoàng mọi thứ đẹp đẽ để nghênh đón Đại sư Ưu Ba Cúc Đa. Đại sư cùng với cả vạn vị đệ tử đi trên những chiếc thuyền lớn ven theo sông Hằng Hà mà đến. Đây là một cuộc du hóa rất lớn của Tăng đoàn làm chấn động cả thành Hoa Thị. Quan quân và dân chúng cùng nhau ra ngoài thành hân hoan đón mừng trọng thể không sao kể xiết được. Vua A Dục cũng đích thân đến nghênh đón Đại sư. Trước mắt hàng vạn quan dân, vua không một chút ái ngại gì, liền hạ mình năm vóc sát đất đảnh lễ Đại sư hết sức cung kính để bày tỏ lòng ngưỡng mộ vô hạn. Thần dân chứng kiến cảnh này sinh khởi lòng kính phục nhà vua rất lớn. Bởi vì con người bình thường có tính ngã mạn sâu nặng, mấy ai dám hạ mình như thế, huống chi vua là bậc đại đế vương ở Ấn Độ, thống lãnh cả Nam Diêm Phù Đề hết sức tôn quý!

Vua A Dục nghênh tiếp Thánh giả và Tăng đoàn đến vương cung cúng dường và vấn pháp, được thêm những pháp hỷ chưa từng có, chẳng thể dùng ngôn ngữ tả xiết được! Sau đó, vua đưa Thánh giả cùng Tăng đoàn đến chùa Kê Đầu Ma an trụ xong mới trở về cung. Việc nhà vua tin Phật, trọng Pháp, kính Tăng như thế đều có tác động ảnh hưởng đến tâm lý của quan dân, khiến họ nảy sinh lòng kính tin hoan hỷ, đó cũng là một tác dụng giáo hóa thầm lặng: Người trên thực hành, kẻ dưới noi theo. Phật pháp hưng long, nhân vương hộ pháp, quả thật là một nhân duyên trợ lực rất lớn lao. Lời phó thác của Đức Phật cho các quốc vương đại thần ở đời sau vì Phật pháp mà hộ trì, càng thấy rõ lòng bi mẫn của Ngài thật là sâu sắc, thật là chu đáo từng ly từng tý, mọi vấn đề xa xôi lợi ích chúng sinh Ngài cũng đều quan tâm tới, không như người đời chỉ nghĩ đến cái lợi vị kỷ mà thôi.

10.- Hành hương Thánh tích

Đại sư Ưu Ba Cúc Đa được vua A Dục tỏ niềm tôn kính và cúng dường khiến cho việc hoằng hóa của ngài đạt được nhiều thành công tốt đẹp. Dân chúng tại thành Hoa Thị nhờ Đại sư ban rải pháp nhũ nhiều lần nên cũng hưởng được niềm an vui vô cùng tận. Nước Ma Kiệt Đà sinh hoạt theo Chính pháp trong hoàn cảnh mới, khiến nhân dân trong nước được an lạc hạnh phúc và Phật giáo càng thêm hưng thịnh.

Một lần, vua A Dục thỉnh Đại sư Ưu Ba Cúc Đa vào cung cúng dường. Lúc vua đỡ Đại sư lên tòa, được chạm vào thân thể “mềm mại như tơ lụa” của Đại sư, bất giác nhà vua sinh khởi lòng hâm mộ vô hạn, liền chắp tay ca ngợi phước đức siêu thường của Đại sư mà tự hổ thẹn “cái phước bé nhỏ của ta với thân thể thô kệch”. Thật đáng tủi hổ! Đại sư liền vì vua mà thuyết về pháp môn bố thí, hành bố thí sẽ cảm ứng được phước báu phú quý, nhất là cúng dường Tam Bảo, công đức càng thù thắng hơn, khó có thể thí dụ cho hết được. Sau khi nghe xong, vua A Dục sinh tâm tín kính, lập nguyện chiêm bái các Thánh tích một đời của Đức Phật, xây tháp để làm lợi ích cho chúng sinh ở vị lai, gieo hạt giống phước. Đây là đại nguyện không phải là chỗ người thường có thể làm được, cho nên Đại sư hết sức ca ngợi, nguyện sẽ vì vua mà hướng dẫn thực hiện. Vua A Dục liền mở cuộc hành hương đến viếng các Thánh tích của Đức Phật.

Đoàn hành hương thật là đông đảo, gồm những vị đại thần cùng đội quân hộ tống nhà vua và cả Tăng đoàn. Đầu tiên đoàn đến vườn Lâm Tỳ Ni, chiêm ngưỡng lễ bái nơi Đức Phật đản sinh. Sau đó theo thứ tự mà đến thành Ca Tỳ La, nơi cắt tóc xuất gia, khu rừng khổ hạnh, Bồ đề đạo tràng, nơi chuyển pháp luân và chốn Song Lâm Niết bàn cho đến Kỳ Đà lâm. Mỗi lần đến nơi nào, vua A Dục đều ân cần chí thành chiêm ngưỡng lễ bái và chăm chú lắng nghe Đại sư Ưu Ba Cúc Đa tường thuật rành rẽ về sự tích khi xưa của Đức Phật. Vua hết lòng cảm phục tán thán, ra lệnh cho các quan cúng dường hàng trăm ngàn lượng vàng và xây tháp cúng dường. Sau đó đoàn đến Kỳ Đà lâm, nơi đây có rất nhiều tháp thờ các đệ tử của Đức Phật, như tháp của Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Bà Câu La, A Nan... Sau khi nghe Đại sư giới thiệu và ca ngợi công đức lớn lao của từng vị Tôn giả, vua A Dục đều chiêm lễ hết thảy và cúng dường cả hàng trăm lượng vàng. Duy chỉ có tháp của Tôn giả Bà Câu La, vua chỉ cúng dường có một đồng mà thôi. Bởi vì vua nghe nói Tôn giả Bà Câu La lúc sinh tiền tuy có công đức “không bệnh tật suy yếu, ít dục đệ nhất”, nhưng do bởi “chưa từng dạy người ta một câu kệ nào”, chỉ hay tự lợi mà không có thể lợi tha. Vì lẽ ấy vua A Dục chỉ dâng cúng một đồng mà thôi, thế nhưng một đồng tiền vừa để trước tháp bỗng tự quay trở lại chỗ nhà vua, chứng tỏ ngay cả một đồng Tôn giả cũng không cần. Vua A Dục thấy vậy kinh hãi hối hận, mới biết Tôn giả quả thật là thiểu dục đệ nhất. Điều này chẳng phải chính là bài pháp lớn dạy về tánh không tham chăng? Cho nên nhà vua càng cung kính ca ngợi sự thậm thâm vi diệu khôn cùng. Cuộc hành hương hoàn tất, tâm nguyện của vua A Dục lại được thành tựu thuận lợi, cũng là niềm tin tha thiết của nhà vua mà được thêm nhiều điều lợi ích, lòng hân hoan sung sướng này chỉ có mình vua biết được mà thôi.

11.- Đại hội Vô Già

Đây là đại hội trai tăng bố thí rất lớn mà người bình thường không đủ sức thực hiện nổi, ngay cả người giàu sang mà không biết tu phước cũng không thể làm được, chỉ có hàng đệ tử Phật ưa làm việc đại phước đức và có thật nhiều tiền của mới có thể cử hành được. Vua A Dục nghĩ về quá khứ, các nhân sĩ phụng sự Phật pháp rất ít người thực hiện được đại hội Vô Già. Vì mong muốn gieo nhân duyên phú quý nên nhà vua phát nguyện làm một việc trai tăng bố thí vĩ đại. Trước khi chuẩn bị cử hành đại hội, vua A Dục đã đặc biệt thọ trì Bát quan trai giới, sau đó mới cầu thỉnh Hiền Thánh Tăng già ở bốn phương đến ứng cúng. Theo truyền thuyết, tứ phương Hiền Thánh Tăng, phàm phu thanh tịnh Tăng đến thọ nhận cúng dường có đến mười vạn người. Còn dân chúng nghèo khổ đến nhận bố thí thì vô số không thể tính đếm được.

Bên trong trai đường, nơi cúng dường chư Tăng, các vị Hiền Thánh Tăng đến ngồi dự đông đủ. Vua A Dục chợt nhận thấy còn có một chỗ rất tôn quý mà chưa có vị Tăng nào ngồi. Vua lấy làm lạ, bèn hỏi Thượng tọa Da Xá mới biết nơi ấy là để dành riêng cho Tôn giả Tân Đầu Lô. Tôn giả Tân Đầu Lô là vị đệ tử lớn của Đức Phật hiện còn tại thế, có thắng đức bậc nhất về “tiếng rống của sư tử”. Lúc ấy đã cách Phật diệt độ khoảng một trăm năm mà Tôn giả vẫn còn tại thế, thì ngài cũng phải vào khoảng 200 tuổi. Tân Đầu Lô Tôn giả chính là một trong mười vị Tôn giả lãnh thọ lời Phật lưu mạng sống tại thế gian để hộ trì Phật pháp chưa có nhập Niết bàn. Cho nên ở thế gian, hễ nơi nào có đại hội trai tăng đều dành một chỗ tôn quý thỉnh Tôn giả quang giáng ứng cúng, tôn ngài làm Thượng tọa. (Thượng tọa là tiếng tôn xưng các vị Tỳ-kheo cao đức có giới lạp từ 20 năm trở lên, còn có giới lạp từ 50 năm trở lên được tôn vinh là Kỳ Túc). Tôn giả Tân Đầu Lô là bậc Kỳ Túc chừng 200 tuổi nên đặc biệt được tôn phụng. Vua A Dục nghe Thượng tọa Da Xá giới thiệu, lòng rất hoan hỷ đến nỗi lông tóc dựng đứng. Ngay lúc ấy, có một vị Thánh Tăng đầu bạc, lông mày thanh tú dài gần chấm đất, đi đến chỗ trống ngồi xuống. Vua A Dục biết chắc đấy là Tôn giả Tân Đầu Lô liền cung kính đảnh lễ. Vua lại nghĩ đây là cơ duyên hiếm có, liền cầu thỉnh Tôn giả thuật lại sự tích Đức Phật thuyết pháp độ sinh khi còn tại thế mà chính Tôn giả đã được thấy nghe. Tôn giả vì vua mà nói rõ mọi vấn đề. Vua A Dục mải mê tìm cầu hiểu biết, rất hứng thú hỏi han không ngớt mà quên đi đại sự trai tăng. Tôn giả liền nhắc nhở vua là đã đến giờ thọ trai. Vua liền thỉnh cầu các vị Hiền Thánh Tăng trước tiên hãy vì vua mà cử hành nghi thức rưới nước thơm lên cây Bồ đề. Cây Bồ đề là vật kỷ niệm khi Đức Phật chứng đạo. Tâm nguyện của vua A Dục tôn trọng cây Bồ đề, cúng dường cây Bồ đề để biểu thị lòng tôn kính đạo Phật, mong muốn đạo lớn Bồ đề của Đức Phật phồn vinh mậu thịnh, giác ngộ thế gian, lợi ích nhân sinh, khắp mọi nơi đều được mát mẻ. Cho nên nhân lúc chư Hiền Thánh Tăng vân tập, nương nhờ uy thần phước đức của đại chúng cử hành nghi lễ tưới cây Bồ đề, mong nó được ngàn năm tươi tốt. Sau đó vua cung thỉnh chư vị thọ trai. Tự thân vua A Dục dâng cúng tam y lên chư Tăng, điều này khiến cho vương thân quyến thuộc cùng các tể quan trong triều đều hết lòng cung phụng chư Tăng, đồng chia nhau công đức trai tăng bố thí. Thọ trai xong chư Hiền Thánh Tăng đồng chú nguyện rằng: “Nguyện cho người bố thí, sẽ được nhiều lợi ích, nếu vui vẻ mà làm, sau ắt được an lạc”. Đại hội Vô Già kết thúc, vua A Dục một lần nữa làm việc phước lợi thành công và gây ảnh hưởng rất lớn cho mọi người.

12.- Vương đệ xuất gia

Lòng sùng kính Tam Bảo của vua A Dục rất thanh tịnh thuần khiết tợ như tấm vải trắng. Đối với Tăng đoàn, vua hết lòng cung kính cúng dường một cách bình đẳng. Mặc dù trong Tăng đoàn khó tránh khỏi cảnh phàm thánh lẫn lộn, rồng rắn ở chung, thế nhưng nhà vua với lòng chí thành không hề khởi tâm phân biệt tốt xấu, khen chê phải trái. Vua chỉ một lòng thực hiện tín nguyện trang nghiêm của mình, làm tròn trách nhiệm hộ giáo của người Phật tử tại gia, không can thiệp vào lập trường, công việc của Tăng già.

Thế nhưng người em của vua là Túc Đại Đa lại sinh lòng bất mãn, vì ông cho rằng chư Tăng thọ tứ sự cúng dường: Y phục, thức ăn, chỗ ở và thuốc men của nhà vua, chỉ làm cho họ tăng thêm lòng tham dục mà thôi, chớ họ có dụng công tu hành gì đâu. Túc Đại Đa đã từng thấy nghe các ngoại đạo đương thời tu hành khổ hạnh, do vậy mà ông hoài nghi: “Sa môn Thích tử mặc y phục đẹp, ăn thức ăn ngon, làm sao có thể đoạn dục được?”. Cho nên ông không đồng ý việc cúng dường chư Tăng của vua A Dục.

Vua A Dục biết vậy liền tìm mưu kế và phương tiện để đả thông tư tưởng Túc Đại Đa. Vua mật sai cận thần tìm cách khuyến dụ Túc Đại Đa sinh ý muốn được làm vua mà hành động phạm thượng. Quả nhiên, Túc Đại Đa không sáng suốt, lầm vào mưu kế của vua. Vua A Dục đem ra xét xử, lấy tình huynh đệ cho phép Túc Đại Đa được làm vua, tha hồ tận hưởng lạc thú trong vòng bảy ngày, sau đó sẽ đem xử tử. Sau bảy ngày, vua A Dục tự thân đến thăm Túc Đại Đa, hỏi ông về sinh hoạt trong bảy ngày làm vua vui sướng như thế nào? Vương đệ trả lời một cách đau buồn rằng: “Cái chết ở trong đầu, ăn còn không biết ngon lành, có gì đâu mà vui sướng nữa!”. Nhà vua liền nói: “Vương đệ sợ chết cho nên cái niệm dục lạc tiêu mất. Còn Sa môn Thích tử hiểu biết chân chính về nỗi khổ lớn của sinh tử vô thường, mong cầu giải thoát không ngớt, còn đâu có tâm hưởng thụ y phục, ăn uống, huống chi lại có niệm tưởng nam nữ dục lạc?”. Nghe xong, Túc Đại Đa liền tỉnh ngộ, nghĩ đến cái chết có thể khiến cho con người buông bỏ dục lạc. Phật pháp khai thị pháp ngữ cho nhân sinh, nói về sinh, lão, bệnh, tử để đe dọa cảnh giác họ, quả thật là ý nghĩa sâu sắc. Lúc ấy Túc Đại Đa rất khâm phục phương tiện khéo léo của vua A Dục, khiến cho ông từ trong chỗ mê muội đạt đến chỗ hiểu biết cao siêu của Phật pháp, cái đáng kính của Tăng chúng. Để tỏ lòng thành kính ăn năn sám hối, ông đến chùa Kê Đầu Ma chí tâm cung kính cầu thỉnh Thượng tọa Da Xá hoan hỷ làm lễ quy y Tam Bảo cho ông. Sau đó Túc Đại Đa được Thượng tọa Da Xá khai thị về việc tu học Phật pháp, tán thán pháp tối thắng của người xuất gia, khiến ông phát tâm đại hoan hỷ mong muốn xuất gia. Thế là chẳng cần suy nghĩ đắn đo, ông liền thỉnh cầu Thượng tọa Da Xá thế phát xuất gia. Thượng tọa bèn khuyên ông hãy trở về suy nghĩ cho thật chín chắn và nên thương lượng với vua A Dục trước đã.

Túc Đại Đa thấy Thượng tọa Da Xá chưa chấp nhận cho mình xuất gia nên cũng không dám thỉnh cầu nài nỉ thêm. Thế nhưng tâm chí thành xuất gia của ông kiên định phi thường, nhất quyết phải đạt cho được mục đích mới chịu. Ông liền trở về vương cung mong cầu vua A Dục hỗ trợ. Vua A Dục lấy làm bất ngờ, khuyên em bỏ ý định ấy đi, vì vua nghĩ đến tình cảm ruột thịt, không muốn em sống đời xuất gia thanh bần khổ hạnh. Túc Đại Đa hết sức nhạc nhiên. Ông không ngờ rằng anh mình là người rất sùng kính Tam Bảo mà lại lấy tình cảm thân thiết ngăn cản không cho mình xuất gia, thật là lạ lùng, không biết phải giải bày làm sao đây! Thế nhưng với ý chí quyết tâm và lòng kiên định, cuối cùng Túc Đại Đa cũng thuyết phục được vua A Dục phải thỏa mãn ý nguyện xuất gia của mình.

Sau khi xuất gia, vì sợ gần vương thành, chợ búa sẽ làm chướng ngại đạo nghiệp nên Túc Đại Đa đã tìm đến một nơi xa vắng để ẩn tu. Có lần ông bị bệnh, vua A Dục biết được liền phái người đem thuốc đến cho ông và ông dần dần bình phục.

Lúc đó, ngoại đạo Ni Kiền Tử thấy vua A Dục sùng tín Phật pháp khiến Phật giáo hưng thịnh, liền sinh tâm đố kỵ, kiếm chuyện lăng nhục Phật giáo. Vua A Dục liền phái người đến trừng phạt đồ chúng Ni Kiền Tử, không một người nào sống sót. Bất hạnh thay, Túc Đại Đa bị giết lầm trong số ngoại đạo Ni Kiền Tử đó. Vua A Dục biết tin rất lấy làm đau buồn, từ đấy cấm chỉ việc giết hại các sa môn và biến cố tôn giáo mới được yên ổn, không còn hỗn loạn nữa.

13.- Vương tử Câu Na La mù mắt

Vua A Dục từ khi lên ngôi trị vì thiên hạ, ban đầu khai phá vương nghiệp rất là cực khổ. Kế đến là thực hiện rộng rãi Chính pháp, thi hành nhân nghĩa, phụng trì tuyên dương Phật pháp. Đối với sinh hoạt trong cung đình, vua giữ gìn rất thanh khiết, không tham đắm thanh sắc, cho nên không có nhiều con nối dõi. Có một vị phu nhân tên Liên Hoa sinh được một người con trai, vua rất yêu quý, đặt tên con là Pháp Tăng. Bởi Pháp Tăng có diện mạo đoan chính, nhất là cặp mắt rất đẹp tợ như mắt chim Câu Na La, vì thế mọi người đều yêu mến gọi là vương tử Câu Na La. Khi vương tử Câu Na La trưởng thành, kết hôn với một thiếu nữ tên Chơn Kim Man. Cả hai vợ chồng rất mực hiền lành, thông minh và hiếu thảo, khiến vua A Dục rất vui lòng. Nhờ sự hấp thụ sự tôn sùng Tam Bảo của vua A Dục, cho nên vương tử cũng rất kính tin Phật pháp, thường theo vua cha đến chùa Kê Đầu Ma lễ Phật nghe pháp. Thượng tọa Da Xá đối với vị vương tử có cặp mắt đẹp này cũng hết lời ca ngợi. Tuy nhiên, ngài luôn nhắc nhở vương tử không nên vì thế mà sinh tâm kiêu mạn tham ái. Bởi vì hết thảy mọi vật trên thế gian này đều là vô thường, không ngừng biến hóa, cặp mắt này tuy rất đẹp đẽ, nhưng chẳng có thể tồn tại mãi mãi. Tuy vương tử Câu Na La chưa thấu hiểu hết về lời cảnh tỉnh sâu xa này, nhưng trong tâm của vương tử cũng đã ghi nhận một ấn tượng sâu sắc.

Đệ nhất phu nhân của vua A Dục là Đế Thất La Xoa, không phải là người sinh ra vương tử Câu Na La, bà cũng rất yêu cặp mắt đẹp của vương tử. Một hôm, vì không cầm lòng được, phu nhân Đế Thất La Xoa ngỏ ý muốn cùng Câu Na La ân ái, nhưng bị vương tử cự tuyệt. Bà rất xấu hổ và sinh lòng oán hận, tìm mọi cách mưu hại vương tử để rửa hờn.

Ít lâu sau, vương tử Câu Na La được vua cha phái đi chinh phạt nước Càn Đà La ở phương Bắc. Sau khi vương tử Câu Na La bình định được bọn phản loạn rồi, quốc vương nước Càn Đà La nhận được chiếu chỉ của vua A Dục buộc phải móc cặp mắt của vương tử Câu Na La. Vua Càn Đà La rất bất mãn việc này, nhưng vì sợ uy thế của vua A Dục nên đành phải đưa chiếu chỉ cho vương tử. Vương tử Câu Na La vốn là người con hiếu thảo, rất tôn kính phụ vương nên không hề kháng cự, tự cầm dao khoét hai mắt mình, chịu mù lòa một cách tàn nhẫn vô lý. Lúc ấy Câu Na La rất đau đớn nhưng chợt nhớ đến giáo lý vô thường mà Thượng tọa Da Xá đã khai thị trước đây, vương tử liền thể ngộ được pháp lạc và giải trừ đi những ưu não về cặp mắt đẹp đã mất. Sau đó, vương tử lang thang kiếm ăn bằng cây đàn cầm, lần hồi về đến vương cung trong thành Hoa Thị. Vua A Dục nghe được tiếng đàn cầm quen thuộc liền phái người ra hỏi thăm và vua rất kinh ngạc khi nhận ra người mù đó chính là Câu Na La vương tử, đứa con yêu quý của mình được cử đi chinh phạt bọn phiến loạn. Vua vô cùng xót xa đau buồn và tìm hiểu cho rõ sự tình. Khi đó mọi việc đều được sáng tỏ: Nguyên vì trong lúc vương tử Câu Na La cầm quân đi chinh phạt, vua A Dục lâm trọng bệnh, được bà đệ nhất phu nhân Đế Thất La Xoa ân cần săn sóc hầu hạ. Khi khỏi bệnh, nghĩ đến công lao săn sóc khổ nhọc của phu nhân và để đền ơn, vua cho bà được làm vua bảy ngày. Trong thời gian này, đệ nhất phu nhân Đế Thất La Xoa đã lợi dụng lòng tốt của vua A Dục để hành động tội lỗi phi nhân. Bà ta dùng ấn tín và ngụy tạo chiếu chỉ của vua A Dục, ra lệnh móc mắt vương tử Câu Na La nhằm thỏa mãn ý nguyện rửa hận của mình. Khi hiểu rõ sự tình, vua rất đau lòng trước việc làm của đệ nhất phu nhân, liền truyền lệnh trị tội bà. Vua cũng rất vui mừng vì vương tử Câu Na La còn được sống sót trở về. Đây là một biến cố bất hạnh xảy ra trong vương cung.

14.- Rộng tu ruộng phước

Người học Phật cần phải song tu phước và huệ mới có thể khế hợp với tâm ý của Phật, mới thật là Phật tử tin hiểu chân chính. Tu huệ cần phải nghe pháp Phật, thân cận thiện tri thức để được khai ngộ. Tu phước phải sinh khởi tâm từ bi thường cứu giúp người nghèo khó, kính trọng cúng dường Tam Bảo. Vua A Dục tuy là bậc đế vương cao quý nhưng đối với việc học Phật lúc nào cũng tâm niệm thực hiện hai môn phước, huệ. Trong một đời của nhà vua, thường làm những việc hoằng hộ Phật pháp như phổ biến Chính pháp, xây dựng chùa tháp, hành hương Thánh tích, cử người truyền giáo, mở đại hội Vô Già, cứu tế khổ nạn... Với đại nguyện đại hạnh ấy, vua luôn tích cực hoặc tự mình hoặc khuyến khích người làm, cùng nhau cầy cấy ruộng phước, xứng đáng làm bậc mô phạm cho người đời sau.

Ở trong vương cung, vua A Dục thường đem Phật pháp giáo hóa hướng dẫn các phu nhân, thái nữ. Có một lần, nước Sư Tử cống hiến năm viên Như ý bảo châu. Nhà vua cúng dường tháp Phật bốn viên, còn một viên sẽ tặng cho cung nhân nào mặc y phục đẹp nhất. Các cung nhân nghe lệnh vua liền đua nhau mặc y phục thật đẹp, trang sức bằng anh lạc, vì ai cũng mong muốn được vua ban thưởng. Riêng có phu nhân Tu Xà Đa nhớ đến kinh Phật thường ca ngợi cái đẹp rằng: “Giới y phục anh lạc là trang nghiêm đệ nhất”, cho nên bà thọ trì Bát quan trai giới, thường mặc y phục màu trắng tinh khiết, ở trong các cung nhân nổi bật lên vẻ đẹp trang nghiêm thanh tịnh, rất hợp với ý nguyện tuyển chọn cái đẹp của vua A Dục. Vì vậy phu nhân Tu Xà Đa được vinh dự nhận viên bảo châu ấy. Nhờ vậy các cung nhân, thế nữ trong cung đều học tập thọ trì tám giới nhằm trang nghiêm phẩm hạnh giới đức của mình. Đặc biệt là lúc vua A Dục thỉnh chư Tăng vào cung cúng dường. Trước đây vua A Dục có mở pháp hội cho các cung nhân được nghe pháp, trong lòng họ có những thắc mắc nghi ngờ nhưng không dám cầu hỏi, bởi vì sợ phạm lỗi. Về sau trong cung có người đã tu đầy đủ quả phước nhân thiên muốn cầu pháp giải thoát xuất thế, nên đã mạo muội cầu thỉnh Tăng già khai thị pháp Bát Chính Đạo và họ đã tu đắc quả Tu Đà Hoàn. Vua A Dục biết được điều này rất lấy làm hoan hỷ, cho phép các cung nhân được tự do nghe pháp, thỉnh pháp, cho nên việc tu học Phật pháp trong cung ngày càng phổ biến thịnh hành.

Lúc vua A Dục thỉnh chư Tăng vào cung để cúng dường, có hai sự kiện rất lạ lùng, lý thú. Việc thứ nhất là có vị Tăng tên Ưu Bát La, nơi miệng thường tỏa ra mùi hương hoa sen. Vua tưởng lầm là Sư ngậm hương liệu trong miệng hầu làm loạn tín tâm của cung nhân, nên yêu cầu Sư phải súc miệng thật sạch, thế nhưng càng súc thì miệng lại càng thơm. Lúc ấy nhà vua mới hiểu là vị cao Tăng này có công đức miệng thơm như hoa sen, là vì nhiều đời thường tán dương Phật pháp nên được như vậy. Do đó vua rất hoan hỷ và càng thêm lòng kính trọng. Sự hiểu lầm của vua A Dục mới chỉ là tâm lý nghi ngờ, nên không làm tổn hại đến sự tôn nghiêm của Tăng chúng.

Sự kiện thứ hai càng lý thú hơn. Trong Tăng chúng đến ứng cúng có một Sa di mới bảy tuổi. Vua A Dục rất lúng túng khó xử, vì vua thấy chú còn quá nhỏ tuổi, nếu mình đảnh lễ chú trước mặt cung nhân e họ sẽ coi nhẹ thể diện của mình, còn không đảnh lễ sẽ trái với nguyện của mình. Thế là vua nghĩ ra một cách, vua mời chú Sa di ra ngoài đến một chỗ vắng không có người, rồi vua đảnh lễ chú một cách cung kính và dặn dò chú chớ đem việc này nói cho người khác biết. Thế rồi chú Sa di liền dùng thần thông đi vào trong chiếc bình đựng nước, rồi từ trong ấy đi ra trước sự ngạc nhiên thán phục của vua A Dục, và chú cũng dặn dò vua không nên nói cho ai biết việc này. Vua rất ngạc nhiên vô cùng vì không thể ngờ được rằng chú Sa di tuy nhỏ tuổi lại có thần thông siêu tuyệt như thế. Vua chợt nhớ đến lời dạy trong kinh Phật: “Sa di tuy nhỏ nhưng không nên xem thường”, nhờ vậy mà lòng tin của vua càng thêm sâu đậm.

Các cung nhân được học Phật pháp, biết kính trọng Tăng già phần lớn là nhờ công đức của vua A Dục, đây là những việc hoằng hóa Phật pháp tại trong cung. Đối với tôn giáo, vua A Dục chọn Phật pháp làm quốc giáo. Đối với Phật, Pháp, Tăng vua hết lòng tôn kính cúng dường. Điều này khiến cho Bà-la-môn giáo sinh lòng ghen ghét, oán trách. Một lần nọ, đồ chúng Bà-la-môn giáo tập hợp khoảng năm trăm người, do một người biết chú thuật cầm đầu, biến thành người của Ma Hê Thủ La Thiên tìm đến vương cung, yêu cầu vua A Dục cúng dường cho họ một bữa ăn. Vua A Dục rất hoan hỷ, ra lệnh cho nhà bếp phải chuẩn bị chu đáo, cấp cho họ năm trăm phần ăn đầy đủ. Nhưng người Bà-la-môn cầm đầu nói rằng họ không muốn ăn cơm rau của vua mà muốn ăn đầu của người trọc, tức là đầu các vị Hòa thượng. Vua A Dục rất khó xử, đành phải sai người đến chùa Kê Đầu Ma thỉnh cầu Thượng tọa Da Xá quang lâm giải quyết vấn đề thần quái này. Nhưng Thượng tọa không đi, chỉ phái một chú Sa di nhỏ đến mà thôi. Vua A Dục trông thấy chú Sa di nhỏ như thế này làm sao giải quyết được vấn đề đây? Lòng vua bối rối thật là như lửa đốt... Riêng chú Sa di thì rất bình thản vô tư. Chú yêu cầu vua A Dục cho chú ăn no nê đã rồi chú sẽ thỏa mãn ý nguyện của những người Bà-la-môn. Thế rồi chú Sa di bắt đầu ăn, mọi người thấy chú ăn mà kinh hồn khiếp vía! Năm trăm phần thức ăn mà vua A Dục ra lệnh chuẩn bị cho những người Bà-la-môn chú đều đã ăn hết. Thế nhưng cái bụng của chú Sa di thật lạ kỳ, ăn nhiều như thế mà chú vẫn còn chưa thấy no, vì vậy chú đành phải ăn luôn những người Bà-la-môn. Chú ăn từng người, từng người một, cho đến người thứ bốn trăm chín mươi chín, chỉ có người cầm đầu vội vàng bay lên trên không trốn thoát mà thôi. vua A Dục thấy vậy lo sợ cái bụng thần của chú Sa di sẽ không chừa cả mình. Chú Sa di biết tâm niệm của vua liền trấn an rằng: “Vua là người đàn việt lớn của Phật pháp, Phật pháp không khi nào làm tổn hại người hộ pháp”. Vua A Dục lúc ấy mới yên tâm và tiễn đưa chú Sa di về chùa. Khi vừa vào đến chùa, mọi người bỗng kinh ngạc khi nhận thấy bốn trăm chín mươi chín người Bà-la-môn bị chú Sa di ăn lúc nãy đều biến thành những vị Tăng không có râu tóc. Thần thông diệu dụng của chú Sa di quả thật là không thể nghĩ bàn. Nhờ vậy, mà đồ chúng Bà-la-môn giáo xuất gia tu học Phật pháp rất nhiều. Thật tình mà nói, sự hộ trì Phật pháp của vua A Dục không những khiến cho nhân dân xu hướng Phật giáo mà còn làm cho nhiều tín đồ của các tôn giáo khác cũng thay đổi tín ngưỡng, quy hướng Phật giáo.

Vua A Dục luôn chiếu cố đến đời sống của nhân dân, quan tâm đến việc phát triển sự nghiệp hữu ích cho quần sinh và Phật giáo, gây tạo những điều phúc lợi cho người nghèo khổ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân làm ra nhiều của cải vật chất, khiến cho quốc dân được nhiều điều lợi ích, an vui, hạnh phúc. Vua A Dục không tham lam tài vật và còn khuyến khích nhân dân cùng nhau tu thiện, gieo trồng ruộng phước, thực hành Bồ Tát đạo, hiệu quả của việc này đạt được rất lớn. Có lần vua trông thấy một người nghèo phát tâm bố thí làm phước, đem chút ít tiền bạc hiếm hoi của mình hoặc đem sức lực để đổi lấy đồng tiền mà làm việc phước đức không chút tiếc công. Vua A Dục thấy nhân dân thuần khiết tích phước như thế rất lấy làm cảm động và khen thưởng họ. Nhân dân phần nhiều chịu ảnh hưởng sinh hoạt Chính pháp của nhà vua nên họ nỗ lực xem trọng việc thực hành thiện pháp.

15.- Đức sáng thiên thu

Việc hoằng hộ Phật pháp của vua A Dục và tài trí mưu lược kiệt xuất của ông trong việc trị nước theo Chính pháp đã khiến cho Ấn Độ thống nhất và phồn vinh trong khoảng hai mươi năm. Thế lực của nước Ma Kiệt Đà từ trước tới nay chưa từng có được như vậy. “Ta xưa nơi đại địa này làm chủ được hết thảy, những vị vua kiêu mạn ta đều chế phục được”. Và những thành tích làm cho đời sống nhân dân an định như “kẻ nghèo khổ không thế lực, ta đều hay cứu giúp”, cho đến các bậc nhân sĩ xa gần đều hướng về và ngưỡng mộ vua A Dục.

Thế nhưng trong sự vận hành của đại đạo, “hết thảy đều chuyển biến hoại diệt, thế gian không có gì thường trụ mãi mãi”. Vương nghiệp của vua A Dục cũng như mặt trời mọc chiếu sáng ban ngày rồi sẽ lặn về đêm, đó là quy luật tất yếu mà thế gian thường nói “Vật cực tất phản” (sự vật phát triển đến cực điểm rồi thì sẽ chuyển hóa theo chiều ngược lại). Tấm thân tứ đại giả hợp của vua cũng đã thay đổi và cuối cùng bệnh tật kéo đến, sinh mạng của vua A Dục cũng có hạn, làm sao tránh khỏi vô thường được!

Trong lúc vua A Dục lâm bệnh, vua nghĩ đến những thành tựu đã đạt được trong một đời của mình mà lòng vui mừng thanh thản, vì vua đã hết lòng làm các việc công đức, ra sức hoằng hộ Phật pháp mà chưa có vị vua nào có thể làm được như vậy. Thế nhưng vua cũng còn có một chút ân hận là: Trưởng giả Tu Đạt Đa thời Phật tại thế đã từng làm việc bố thí cúng dường rất lớn, trọn đời ông ta bố thí có tới hàng trăm ức tiền vàng. Vua so sánh việc làm bố thí trong đời mình với Tu Đạt Đa thì còn thiếu tới bốn ức. Lúc ấy có vị đại thần ở bên cạnh đề nghị vua nên hạ chỉ lấy số vàng còn tồn trong kho của vua để thực hiện đầy đủ ước nguyện bố thí một trăm ức. Tuy nhiên nhà vua tự biết bệnh tình của mình không đủ sức để làm thêm nữa. Vì hiện tại còn có một việc quan trọng hơn nữa là chưa kiến lập Thái tử. Vua liền truyền chỉ lập vương tôn Thắc Ma Đề con của vương tử Câu Na La làm Thái tử. Không bao lâu triều thần tôn Thái tử Thắc Ma Đề lên làm vua. Sức lực của vua A Dục lần lần giảm sút, vua ra lệnh đem tất cả những vật tư hữu còn lại của mình đến chùa Kê Đầu Ma làm công việc cúng dường chư Tăng lần cuối cùng. Thượng tọa Da Xá tiếp nhận phẩm vật cúng dường và phân phát cho chư Tăng. Công việc cúng dường hoàn tất, lúc lâm chung nhà vua rất mãn nguyện, chính niệm vãng sinh. Một đời nhân vương như dầu hết đèn tắt, tuyên bố thọ chung, đại địa chấn động xót thương người quá cố!

Tóm lại, từ khi vua A Dục tin tưởng phụng sự Phật pháp, cho đến giây phút cuối của cuộc đời, tín tâm đầy đủ không lúc nào lui sụt, ra sức thực hành Chính pháp chưa từng có lúc giải đãi. Đối với Phật pháp có thể xưng là “Nhân Vương hộ quốc”, đối với thế gian cũng xứng đáng là vị Thánh quân. Lịch sử thế giới đều ghi nhận những thành công của vua A Dục là “Đức sáng thiên thu”, đâu chỉ riêng là vị quốc vương của Phật giáo.



[1]Người đàn bà nổi tiếng giao tiếp trong xã hội (có ý khinh miệt)


--- o0o ---
Vi tính: Diệu Huệ, Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567