Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Phần Hai: Cái thấy, Thiền định và Hành động của Đại thừa

06/06/201303:46(Xem: 6311)
05. Phần Hai: Cái thấy, Thiền định và Hành động của Đại thừa

KHO TÀNG TÂM CỦA CÁC BẬC GIÁC NGỘ

The Heart Treasure of the Enlightened Ones
Nguyên tác: Patrul Rinpoche - Bản dịch Anh: Nhóm dịch thuật Padmakara
Bản dịch Việt: An Phong và Đương Đạo - Thiện Tri Thức, 1999

 

PHẦN HAI
CÁI THẤY, THIỀN ĐỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẠI THỪA

 

Ba con đường

Phần đầu, phác thảo con đường sơ bộ, Tiểu thừa, có ý định làm nảy sanh trong chúng ta một cảm giác mệt mỏi và ghê sợ đối với những hoàn cảnh sanh tử chúng ta đang sống trong đó, theo một cách tổng quát và đặc biệt hơn ở trong thời kỳ suy đồi này. Phần thứ hai tiếp tục định ra phương thuốc cho tình thế này : cái thấy, thiền định và hành động theo thừa lớn của những giáo lý của Phật, Đại thừa. Những cái này được giải thích trong hai phần : thứ nhất là con đường bậc trung, Kinh thừa, và thứ hai con đường phi thường của những phương tiện thiện xảo, Mật thừa.

 

Con Đường của những Kinh Điển

QUY Y

Sanh tử, như chúng ta đã thấy, là không gì cả ngoài khổ đau, thế nên chúng ta cảm thấy quyết tâm giải thoát chúng ta khỏi nó. Tuy nhiên, để thực sự làm thế, chúng ta cần sự giúp đỡ. Rõ ràng, chúng ta chỉ hy vọng có sự giúp đỡ mình cần nơi một bậc hoàn toàn giác ngộ, người ấy hoàn toàn giải thoát khỏi sanh tử. Bởi thế giờ đây tại sao Patrul Rinpoche kêu gọi đến vị Phật của Đại Bi, đức Quán Thế Âm :

22. Ôi ! Nguồn của đại bi, bổn sư của con, đức Quán Thế Âm,
Ngài là vị bảo hộ độc nhất của con !
Thần chú sáu chữ, tính túy của lời ngài, là Pháp thiêng liêng;
Từ giờ này trở đi, con không có hy vọng nào ngoài ngài !

Quán Thế Âm là một vị Phật hoàn toàn giác ngộ, để làm lợi lạc chúng sanh ngài đã mang lấy hình thức của một Bồ tát. Tất cả chư Phật chỉ có một bản tánh, và lòng của các ngài được hiện thân trong Quán Thế Âm. Như là hiện thân của lòng bi của tất cả chư Phật, Quán Thế Âm đồng thời là nguồn gốc của tất cả chư Phật và chư Bồ tát, bởi vì lòng bi là cội gốc của giác ngộ. Quán Thế Âm là bản thân lòng bi trong hình thức một hóa thần. Quán Thế Âm là Phật, Quán Thế Âm là Pháp, Quán Thế Âm là Tăng; Quán Thế Âm là Guru, Quán Thế Âm là Yidam, Quán Thế Âm là Dakini; Quán Thế Âm là Pháp thân, Quán Thế Âm là Báo thân, Quán Thế Âm là Hóa thân ; Quán Thế Âm là A Di Đà, Quán Thế Âm là Guru Rinpoche, Quán Thế Âm là Arya Tara; và trên tất cả Quán Thế Âm là bổn sư của chúng ta. Như một trăm dòng chảy qua dưới chỉ một cái cầu, Quán Thế Âm là sự hợp nhất của tất cả chư Phật. Nhận những ban phước của ngài là nhận những ban phước của tất cả chư Phật, và chứng ngộ bản tánh của ngài là chứng ngộ bản tánh của tất cả chư Phật.

Quán Thế Âm đã xuất hiện trong thời đại đen tối này trong con người của Guru Rinpoche (Padmasambhava), mà trí huệ, đại bi và thần lực thì nhanh lẹ hơn của vị Phật nào khác, vì chính riêng biệt để làm lợi lạc cho chúng sanh của thời đại này mà ngài phát những lời cầu nguyện của mình. Quán Thế Âm biểu lộ thành vô số hình thức: những vua chúa, vị thầy tâm linh, đàn ông và đàn bà bình thường, thú rừng, ngay cả núi, cây, cầu – bất cứ cái gì cần thiết để đáp ứng những nhu cầu của chúng sanh. Ngay cả một ngọn gió mát lạnh trong khí hậu nóng cháy hay một phút giây êm dịu nhẹ nhỏm trong một cơn bệnh đau đớn cũng là những biểu lộ của lòng bi Quán Thế Âm.

Tương tự, thần chú sáu chữ của Quán Thế Âm, OMÏ MANÏI PADME HŪMÏ, là trí huệ bi mẫn của tất cả chư Phật biểu lộ thành âm thanh. Nó chứa đựng trong mình yếu nghĩa của tất cả tám mươi bốn ngàn phần của những giáo lý của Phật. Trong tất cả nhiều thần chú của nhiều loại khác nhau, như là những minh chú, dharani, và mật chú,(36) không có cái nào cao hơn sáu chữ của Quán Thế Âm. Những lợi lạc lớn lao của việc trì tụng thần chú này, thường được biết như là manÏi, được diễn tả trở đi trở lại trong tất cả những sutra (kinh) và tantra. Có nói rằng trì tụng chú manÏi chỉ một lần thì cũng đồng như trì tụng toàn bộ mười hai ngành giáo lý của Phật.(37) Trì tụng sáu chữ của manÏi hoàn thiện sáu ba la mật và đóng chặt mọi khả năng tái sanh trong sáu cõi của sanh tử luân hồi. Đây là một thực hành đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hành cho tất cả, và đồng thời nó chứa đựng tinh túy của Pháp. Nếu các bạn lấy manÏi như là chỗ quy y của các bạn cả trong hạnh phúc lẫn trong buồn đau, Quán Thế Âm sẽ luôn luôn ở với các bạn, các bạn sẽ cảm thấy càng lúc càng nhiều hơn lòng sùng mộ mà không phải có cố gắng nào, và tất cả sự chứng ngộ của con đường Đại thừa sẽ tự nó khởi lên trong trong con người các bạn.

Theo Kinh Karandavyuha, Kinh Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương,(38) nếu các bạn trì tụng một trăm triệu manÏi, tất cả vô số cơ thể sống ở trong thân thể của các bạn sẽ được ban phước bởi Quán Thế Âm, và khi các bạn chết, ngay cả khói từ sự thiêu xác các bạn sẽ có năng lực che chở cho bất cứ ai hít vào khỏi tái sanh trong những cõi thấp.

Ngay cả chỉ một chữ của bản thân thần chú – OMÏ, MA hay NÏI – mang năng lực không thể nghĩ bàn để ban phước và giải thoát cho chúng sanh. Có nói rằng một vị Phật có khả năng với những kỳ công phi thường vượt mọi chúng sanh khác, như xác định chính xác bao nhiêu giọt mưa rơi xuống trong một trận mưa kéo dài mười hai năm, nhưng ngay cả ngài cũng không thể diễn tả đầy đủ công đức sanh ra bởi chỉ một lần trì tụng manÏi. Để bắt đầu cho một diễn tả như thế, ngay nếu tất cả rừng cây trên trái đất được biến thành giấy, cũng không bao giờ đủ để viết ra một phần nhỏ nhất.

Không có cái gì trên toàn thể thế giới có thể làm cho Thần Chết sợ hãi tránh xa, vậy mà ánh sáng chói lọi ấm áp của lòng bi của Quán Thế Âm có thể hoàn toàn xua tan cảm giác khiếp sợ của người nào khi Thần Chết đến gần. Đây là điều có nghĩa là “chỗ nương dựa không lầm lẫn.” Hoàn toàn tự do với sanh tử, Quán Thế Âm luôn luôn sẵn sàng cứu giúp chúng sanh, và ngay cử động nhỏ nhất của ngài – một cử chỉ của bàn tay, một chớp mắt của ngài – có năng lực giải thoát chúng ta ra khỏi sanh tử. Khi chúng ta cầu khẩn ngài bằng cách trì tụng manÏi, chúng ta không bao giờ nên nghĩ rằng ngài quá xa để nghe chúng ta, trong một cõi Phật nào xa xôi ; Quán Thế Âm luôn luôn ở đó với bất cứ người nào tin vào ngài. Những che chướng của chúng ta ngăn cản chúng ta không thực sự đến được Núi Potala trong cõi Cực Lạc Thanh Tịnh Sukhavati để gặp ngài mặt đối mặt, nhưng thật ra lòng đại bi của ngài không bao giờ bỏ rơi một chúng sanh nào. Ngài tự biểu lộ thường trực trong bất cứ hình thức nào lợi lạc cho chúng sanh nhất, đặc biệt trong hình thức của những vị thầy tâm linh vĩ đại; thế nên chúng ta cần hiểu với sự tin tưởng hoàn toàn rằng Quán Thế Âm, bậc bảo hộ tối thượng chỉ cho tất cả chúng sanh con đường đến giải thoát, thật ra không ai khác hơn là bổn sư của chúng ta.

Cơn mưa của lòng bi Quán Thế Âm rơi khắp nơi trên những cánh đồng của chúng sanh một cách bình đẳng; nhưng vụ mùa của hạnh phúc không thể lớn lên nơi nào những hạt giống của niềm tin đã bị khô héo. Thiếu niềm tin là tự đóng kín với mặt trời rực rỡ của sự ban phước của ngài, như thể đóng cửa giam mình trong một phòng tối. Nhưng nếu các bạn có niềm tin, thì không có khoảng cách, không có chậm trễ, giữa các bạn và sự ban phước của Quán Thế Âm.

Những lời dạy của đức Phật thì rộng lớn và sâu xa không thể nghĩ bàn. Đạt được một thấu hiểu hoàn toàn trí thức về những lời dạy ấy quả thật là một thành tựu đáng kể và hiếm hoi. Nhưng ngay bản thân điều đó cũng chưa đủ. Trừ phi chúng ta cũng thành tựu nội chứng nhờ thực sự áp dụng những lời dạy và hòa lẫn chúng với tâm thức chúng ta, còn không thì bất cứ hiểu biết nào chúng ta có được đều vẫn là lý thuyết và sẽ chỉ dùng để tăng thêm sự tự say mê mình.

Chúng ta đã đọc một số sách và nghe một số lời dạy, nhưng nó không lợi lạc bao nhiêu trong việc thực sự chuyển hóa con người chúng ta. Để đơn thuốc của bác sĩ bên cạnh giường sẽ không chữa lành bệnh. Thế nên hãy xoay tâm thức các bạn vào trong và suy ngẫm sâu xa ý nghĩa của Pháp cho đến khi nó thấm nhuần toàn thể thân tâm bạn.

Đấy là điều Patrul Rinpoche nói :

23. Bất cứ cái gì con biết con đã để cho nó vẫn là lý thuyết; nó không dùng gì được cho con bây giờ.

Bất cứ cái gì con đã làm con đã tiêu pha cho cuộc đời này; nó không dùng gì được cho con bây giờ.

Bất cứ cái gì con đã nghĩ chỉ toàn là vọng tưởng; nó không dùng gì được cho con bây giờ.

Giờ đây là lúc để làm cái gì thực sự có ích – hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Như những ngọn sóng, mọi hoạt động của cuộc đời này trôi qua không ngừng nghỉ, cái này tiếp cái kia, tuy nhiên đã để lại cho chúng ta tay trắng. Vô số tư tưởng đã đi qua tâm thức chúng ta, mỗi cái sanh ra thêm nhiều cái khác, nhưng tất cả điều mà chúng ta đã làm chỉ là tăng thêm sự rối ren lầm lạc và bất toại nguyện của chúng ta. Thiền định về tinh túy của những lời dạy và trì tụng manÏi thì không tốt hơn sao?

Như chúng ta bây giờ, sa lầy trong một bãi lầy của những khuynh hướng thói quen và bị giam nhốt trong những trói buộc của xúc tình mạnh mẽ, chúng ta không tự do đủ cũng không mạnh mẽ đủ để có thể giải thoát cho chúng sanh khỏi sanh tử. Chúng ta phải trông chờ sự giúp đỡ – không phải bất kỳ loại giúp đỡ nào, mà là sự giúp đỡ chắc chắn của Quán Thế Âm.

24. Sự quy y độc nhất không bao giờ hư mất, thường trụ là Tam Bảo;
Tinh túy độc nhất của Tam Bảo là Quán Thế Âm.
Với đức tin toàn vẹn, không thể lay chuyển, vào trí huệ của ngài.
Vững tin và quả quyết, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tìm kiếm sự nương dựa vào các vị trời như Phạm Thiên hay Đế Thích, bởi vì chính họ cũng còn bị giam nhốt trong mạng lưới của sanh tử, không thể là sự giúp đỡ thật sự. Tìm kiếm sự nương dựa vào người có quyền lực và ảnh hưởng của thế giới này, hay vào bạn bè thân thuộc, sẽ chỉ đem lại sự che chở giới hạn hơn. Không có núi non, ngôi sao hay những hiện tượng thiên nhiên nào khác cung cấp cho sự an toàn chân thật. Không có cái nào trong chúng là nguồn gốc tối hậu của sự quy y. Nếu các bạn đang ở trong tù ngục và muốn thoát ra, các bạn phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ người nào có quyền năng giải cứu các bạn, chứ không từ một tù nhân khác.

Để có thể giải thoát chúng ta khỏi xoáy nước của sanh tử, nền tảng của sự quy y chúng ta tìm kiếm phải là cái gì tự nó đã hoàn toàn tự do. Chỉ có một nguồn gốc quy y thoát khỏi mọi giới hạn của sanh tử, đầy đủ mọi phẩm tính và thành tựu tối hậu, và có lòng bi vô hạn có thể đáp ứng phổ khắp cho những nhu cầu của chúng sanh và dẫn dắt họ suốt con đường đến giác ngộ : Tam Bảo.

Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Phật là vị thầy, bậc hiển bày bốn thân và năm trí.(39) Pháp là con đường, những lời dạy được trao truyền và được chứng ngộ. Tăng là những người đồng hành trên con đường, họ hiểu ý nghĩa của những lời dạy và kết quả là được giải thoát.

Qua niềm tin và sự sùng mộ Tam Bảo, chúng ta sẽ đến chỗ thấu hiểu rằng đấy không phải là ba thực thể riêng biệt, mà là thân, ngữ và tâm của Quán Thế Âm, đức Phật của Đại Bi. Tâm ngài là Phật, ngữ ngài là Pháp và thân ngài là Tăng. Dù bây giờ chúng ta chưa thể gặp Quán Thế Âm bằng con người thật của ngài, chúng ta cần thức giác về những phẩm tính vô biên của ngài như diễn tả trong kinh và tantra. Chúng ta cũng cần nhớ rằng Quán Thế Âm thì không tách lìa với thầy của chúng ta, người chỉ dạy cho chúng ta Pháp quý báu. Cảm nhận sâu xa lòng từ ái vĩ đại này, cầu nguyện đến ngài và trì tụng thần chú sáu chữ, không nghi ngờ gì mọi ngăn chướng nghiệp quả và phiền não tiêu cực của chúng ta sẽ được tẩy sạch. Thời gian sẽ có lúc chúng ta sẽ thực sự đến với sự hiện diện của Quán Thế Âm trong cõi Phật của ngài, ở đó ngài chuyển bánh xe Pháp Đại thừa cho đoàn tùy tùng Bồ tát của ngài.

Quy y là cửa vào Pháp. Nó là chung cho cả ba thừa và là nền tảng trên đó mọi thực hành nương dựa vào. Tuy nhiên, thái độ đối với sanh tử khiến cho người ta quy y thì không luôn luôn giống nhau. Sợ hãi khổ đau trong sanh tử và bởi thế quy y vì chính mình là một động cơ kém. Động cơ tốt nhất là ước muốn giải thoát tất cả chúng sanh hoàn toàn thoát khỏi khổ đau của sanh tử và an lập họ trong trạng thái của giác ngộ. Quy y với tư tưởng ấy là thái độ của Đại thừa.

Nếu sự quy y là đích thực và chân chánh, niềm tin không lay chuyển cần được khai triển. Niềm tin là một yếu tố sống còn trong con đường, mở cho chúng ta với những ban phước của Phật. Mong muốn đạt được chứng ngộ mà không có đức tin thì giống như ngồi trong một hang động hướng bắc mà chờ đợi ánh sáng mặt trời rọi vào.

Có bốn giai đoạn trong sự phát triển của niềm tin: niềm tin trong sáng, niềm tin mong mỏi, niềm tin xác tín, và niềm tin không thể đảo ngược. Khi các bạn ban đầu hiểu những phẩm tính kỳ diệu và phi thường làm sao của Phật, Quán Thế Âm và của thầy các bạn, tâm thức các bạn trở nên rất trong sáng và hoan hỷ. Đây là niềm tin trong sáng. Khi niềm tin trong sáng gợi cho các bạn muốn sở đắc những phẩm tính hoàn hảo của Quán Thế Âm cho chính các bạn, và các bạn nghĩ rằng vô số chúng sanh có thể được các bạn giúp đỡ nếu các bạn có những phẩm tính đó, nó trở thành niềm tin mong mỏi. Khi các bạn biết với sự chắc chắn hoàn toàn rằng những phẩm tính của Quán Thế Âm là thực như chúng được diễn tả bởi chính đức Phật, nó trở thành niềm tin xác tín. Cuối cùng, khi niềm tin đã trở thành một phần của bản thân các bạn, đến nỗi với cái giá của đời mình, không có cách nào cho bạn có thể từ chối nó, bấy giờ đó là niềm tin không thể đảo ngược. Khi niềm tin của các bạn đến điểm này, bất cứ hoàn cảnh nào gặp phải các bạn cũng sẽ hoàn toàn tin tưởng, nghĩ rằng, “Quán Âm, ngài biết mọi chuyện; dầu cái gì xảy ra, con hoàn toàn nương dựa vào trí huệ và lòng bi của ngài.” Từ lúc đó trở đi những ban ơn và sự hướng dẫn của Quán Thế Âm sẽ luôn luôn ở với các bạn, và sẽ không nghi ngờ gì ngay cả âm thanh của danh hiệu ngài sẽ có năng lực giải thoát các bạn khỏi những cõi thấp. Đây là niềm tin không thể đảo ngược cần thiết cho sự quy y thực sự đích thực.

Có câu nói : “Đức tin là bánh xe quý báu quay tròn ngày đêm suốt con đường giải thoát.” Niềm tin là cái tối cao của bảy phẩm tính cao cả. Những tia sáng mặt trời chiếu xuống khắp nơi một cách đồng nhất, nhưng chỉ ở nơi nào chúng được tập trung qua một cái gương tráng lệ chúng có thể làm cho cỏ khô bốc cháy. Cùng cách ấy, lòng bi của Quán Thế Âm soi chiếu bình đẳng cho tất cả chúng sanh, nhưng chỉ trong những người nào có cái gương tráng lệ của niềm tin mà ngọn lửa của sự ban phước của ngài được thắp cháy.

Sẽ thiển cận nếu chỉ quy y cho chỉ đời này, hay chỉ đến khi các bạn chữa khỏi mọi bất hạnh hiện giờ. Sự cam kết quy y của các bạn nên kéo dài đến khi tất cả chúng sanh đều đã đạt được giác ngộ. Khi các bạn có thể dâng hiến thân, ngữ và tâm thức mình cho Quán Thế Âm với niềm tin đích thực, nương dựa hoàn toàn vào ngài, trong bất cứ hoàn cảnh tốt hay xấu nào, bấy giờ các bạn đang quy y trong nghĩa đầy đủ nhất – sự quy y đích thật của Đại thừa.

Quy y vào Quán Thế Âm có thể theo những viễn cảnh bên ngoài, bên trong và bí mật. Về phương diện bên ngoài, Quán Thế Âm là Tam Bảo – Phật, Pháp và Tăng. Từ một viễn cảnh bên trong, ngài là Ba Gốc – Guru, Yidam và Dakini. Và từ quan điểm bí mật ngài là ba thân – Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Bởi thế, quy y hoàn toàn không chỉ có nghĩa là một sơ khởi hay một thực hành của người sơ học; thật vậy, nó gồm toàn bộ con đường trong tất cả sự sâu xa của nó, đến tới giác ngộ. Tuy nhiên, dầu nhiều mức độ quy y có thể được phân biệt, chúng ta có thể đáp ứng tất cả chúng chỉ bằng đơn giản trì tụng thần chú sáu chữ với lòng tin và xác tín rằng vị thầy của chúng ta, không tách biệt với Quán Thế Âm, là tinh túy độc nhất của Tam Bảo trong mọi phương diện của chúng.

Đức Atisha, mà trí huệ và chứng ngộ không ai sánh của ngài đã khiến cho ngài được tôn xưng khắp miền bắc và miền đông Ấn Độ như là vị “Phật Thứ Hai”, đã qua Tây Tạng, nơi đây ngài dạy sự lợi lạc của quy y rất nhiều lần đến nỗi mọi người bắt đầu gọi ngài là “Pandita Quy Y”. Khi nghe đây là danh hiệu các học trò gán cho mình, ngài kêu lên, “Được cho danh hiệu này là một vinh dự, thật vậy, bởi vì có gì tuyệt hảo hơn sự quy y Phật?”

 

TƯ TƯỞNG GIÁC NGỘ

Đã thấu hiểu sự quan trọng của niềm tin và của quy y, bây giờ chúng ta đi đến tinh túy của Đại thừa, tư tưởng giác ngộ.

25. Nền tảng của con đường Đại thừa là tư tưởng giác ngộ;

Tư tưởng cao cả này là con đường duy nhất tất cả chư Phật đều dẫm bước.

Không bao giờ bỏ con đường cao cả của tư tưởng giác ngộ,

Với lòng bi cho tất cả chúng sanh, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

“Tư tưởng giác ngộ”, Bồ đề tâm (bodhicitta), là mong muốn đạt đến giác ngộ vì lợi lạc của tất cả chúng sanh. Bồ đề tâm có hai phương diện, tương đối và tuyệt đối. Bồ đề tâm tuyệt đối là sự nhận biết Phật tánh hiện diện vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh và chỉ có thể thấu hiểu bởi những ai chứng ngộ tánh Không của tất cả hiện tượng; bởi vì không dễ dàng thấu hiểu nó một cách trọn vẹn, chúng ta thường bắt đầu với sự thực hành Bồ đề tâm tương đối, nó ít khó khăn hơn.

Bồ đề tâm tương đối cũng được chia làm hai: nguyện vọng và áp dụng. Cái thứ nhất là ước muốn đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh, và cái thứ hai đưa ước muốn này vào hành động qua sự thực hành sáu ba la mật. Nói cách khác, Bồ đề tâm nguyện vọng là cái nhận ra mục đích, và Bồ đề tâm áp dụng là phương tiện nhờ nó mà mục đích được đạt đến. Điểm then chốt của Đại thừa là cả hai nguyện vọng và áp dụng đều được hướng không phải đến chính mình mà đến tất cả chúng sanh, dù sanh tử còn có thể tồn tại bao nhiêu.

Làm thế nào người ta bắt đầu phát sanh Bồ đề tâm nguyện vọng, cảm giác của lòng bi cho tất cả chúng sanh khơi dậy trong chúng ta ước muốn đạt được giác ngộ vì họ? Trước tiên, hãy lấy Quán Thế Âm như là một người làm chứng cho quyết định của các bạn đạt đến chứng ngộ để làm lợi lạc cho những người khác. Tiếp theo, nỗ lực đánh bại thái độ chỉ muốn giúp đỡ những người thân thiết với các bạn trong khi từ chối những nhu cầu của những người mà các bạn không thích. Điều này trở nên có thể khi các bạn thấu hiểu rằng, trong tất cả vô số những đời trước của mình, mỗi chúng sanh không ngoại trừ ai, phải đã từng là mẹ hoặc cha của các bạn ít nhất một lần. Mỗi một chúng sanh này, xuống tới con côn trùng nhỏ nhất, đều chỉ muốn được hạnh phúc và không đau khổ; nhưng không có ai trong số họ biết rằng khổ là do các hành động xấu gây ra và hạnh phúc là do một tâm đức hạnh phát sanh. Khi các bạn nghĩ về tất cả những chúng sanh này họ đang chìm đắm một cách vô vọng trong khổ đau như những người mù lạc trong một sa mạc bao la, các bạn không thể cứu giúp nhưng cảm thấy một lòng đại bi cho tất cả họ.

Để triển khai lòng bi này hơn nữa, hãy tưởng tượng chính các bạn đang ở trong những cõi địa ngục; thình lình trước mắt các bạn, cha mẹ các bạn bị các tay sai của Thần Chết Yama(40) kéo lê trên đất, chúng đánh đập họ dã man, đâm chém họ với vũ khí sắc bén, bỏ họ vào vạc đồng cháy bỏng, và ép họ dưới những tấm sắt nóng đỏ. Trông thấy sự hấp hối khủng khiếp của họ, chẳng lẽ các bạn không cảm thấy thương xót ngập tràn và sự khẩn thiết không thể kiềm chế lao đến tức thời để cứu họ? Khi cảm giác mạnh mẽ này của lòng bi khởi lên rõ ràng, hãy suy nghĩ một chút. Cha mẹ còn sống của các bạn chỉ là hai người trong số vô cùng những chúng sanh. Tại sao con số vô cùng những chúng sanh khác cũng không đáng để bạn bi mẫn ư? Thấu hiểu điều này quả thật là không hợp lý, hãy dần dần cố gắng mở rộng lòng bi của các bạn, trước tiên với những bạn bè quyến thuộc thân thiết nhất, rồi đến những ai bạn biết, đến toàn thể một đất nước, toàn thể trái đất và cuối cùng đến vô cùng chúng sanh trong ba cõi của sanh tử luân hồi. Chỉ khi lòng bi của các bạn thực sự đạt đến tầm mức bao la này nó mới có thể được gọi là lòng bi chân thật.

Tất cả chúng sanh đều như nhau trong ước mong được hạnh phúc và không khổ đau. Sự khác biệt lớn lao giữa chính mình và những người khác là trong con số – tôi thì chỉ một, những người khác thì vô số. Thế nên, hạnh phúc và khổ đau của tôi hoàn toàn vô nghĩa khi so sánh với hạnh phúc và khổ đau của vô số chúng sanh khác. Điều thực sự quan trọng là những chúng sanh khác hạnh phúc hay khổ đau. Đây là nền tảng của Bồ đề tâm. Chúng ta cần phải mong muốn những người khác được hạnh phúc hơn chính chúng ta, và chúng ta đặc biệt cần phải mong muốn hạnh phúc cho những người mà chúng ta xem như những kẻ thù và những người đối xử xấu với chúng ta. Nếu không thế, lòng bi có ích gì?

Cảm thấy lòng bi với tất cả chúng sanh là điểm khởi đầu. Bấy giờ các bạn có thể chuyển dịch những mong muốn và nguyện vọng của các bạn thành hành động. Nhưng, như đức Atisha nói, “Chính ý định mới đáng kể.” Nếu tâm thức các bạn luôn luôn đầy ngập với ý định làm lợi lạc cho những người khác, bấy giờ, bất kể những hành động của các bạn ở bề ngoài có như thế nào, sự áp dụng Bồ đề tâm tự lo cho chính nó. Nếu các bạn có thể duy trì thái độ này của Bồ đề tâm, các bạn sẽ không chỉ không bao giờ lạc khỏi con đường, mà còn sẽ tiến bộ chắc chắn trên con đường đó. Khi thân, ngữ và tâm thức các bạn hoàn toàn thấm đẫm bởi mong muốn giúp đỡ tất cả chúng sanh, khi mục tiêu của các bạn là Phật tánh viên mãn cho những người khác và cho cả chính các bạn, bấy giờ ngay cả hành động nhỏ nhất, chỉ một trì tụng manÏi hay chỉ một lễ lạy, sẽ nhanh chóng và chắc chắn đem lại sự hoàn thành mục đích của các bạn.

Sáu chữ manÏi, tinh túy của bản thân Quán Thế Âm, là sáu ba la mật trong hình thức thần chú. Khi các bạn trì tụng thần chú, sáu ba la mật tự nhiên khởi hiện và Bồ đề tâm áp dụng được hoàn thành.

Có nói rằng khi những ai đau buồn trong ngục tù của sanh tử phát sanh tư tưởng giác ngộ, họ đều tức khắc được chư Phật nhận làm con trai và con gái của các ngài, và họ được tán thán bởi cả người và trời. Toàn thể cuộc đời họ có một ý nghĩa mới. Tất cả điều này đều nhờ năng lực vô lường của Bồ đề tâm như ngọc báu. Bồ đề tâm là tinh túy của tám vạn bốn ngàn phần của Phật pháp, nhưng đồng thời nó quá đơn giản, quá dễ hiểu và dễ thực hành, ngay với người sơ học.

Bồ đề tâm tối hậu là tính chất bất khả phân của tánh Không và đại bi không phải tạo tác. Đó là tính đơn giản của trạng thái bổn nhiên, vượt khỏi mọi ý niệm và mọi giới hạn của tư tưởng và tri thức, từ nó lòng bi tự nhiên, không có đối tượng hưng khởi, làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

Khi các bạn tiến bộ trong sự thực hành của các bạn, hai phương diện của Bồ đề tâm củng cố cho nhau. Bắt được dù chỉ một thoáng thấy bản tánh tuyệt đối của tâm sẽ cho các bạn viễn cảnh thích đáng để thực hành Bồ đề tâm tương đối, và ngược lại, sự thực hành Bồ đề tâm tương đối mở rộng sự chứng ngộ của bạn về Bồ đề tâm tuyệt đối.

TỊNH HÓA

Đã khai triển thái độ đúng của Bồ đề tâm, bây giờ chúng ta cần trừ sạch bất cứ thứ gì ngăn chận sự tiến bộ của chúng ta trên con đường đến giác ngộ.

26. Lạc lõng trong sanh tử từ thời vô thủy đến nay,
Bất cứ điều gì con đã làm đều sai lầm và sẽ dẫn đến thêm sự lạc lõng.
Từ lòng con, hãy thừa nhận mọi tà hạnh và sa đọa, và sám hối chúng,
Với bốn năng lực làm cho trọn vẹn, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Trong những đời quá khứ, và trong đời này cho tới bây giờ, chúng ta đã đem đến sự thiệt hại cho những người khác vô số lần bằng cách nói dối họ, lừa gạt họ, ăn trộm của họ, phá hoại họ, tấn công họ, giết họ và mọi thứ việc làm sai lầm khác. Cái xấu được tích tập này là cái đã giam giữ chúng ta trong sanh tử, và bây giờ nó chính là cản trở chính cho sự tiến bộ của chúng ta trên con đường. Nó nuôi dưỡng hai loại che chướng ngăn cách giữa chúng ta và kinh nghiệm về Phật tánh : sự che chướng bởi phiền não và sự che chướng của cái có thể được biết.

Tuy nhiên, tình thế của chúng ta không hoàn toàn tuyệt vọng. Như những đạo sư Kadampa thường nói, “Điều tốt độc nhất về tà hạnh là nó có thể được tịnh hóa.” Những hành động xấu là những hiện tượng duyên hợp, thế nên chúng phải vô thường; do đó, như đức Phật nói, không có lỗi lầm nào trầm trọng đến nỗi nó không thể được tịnh hóa bởi bốn năng lực.

Bốn năng lực này là những phương tiện qua chúng sự tịnh hóa mọi tà hạnh có thể được thực hiện. Năng lực thứ nhất là năng lực của nương tựa. Nương tựa ở đây ám chỉ con người hay là hóa thần bổn tôn mà chúng ta chấp nhận và sám hối những lỗi lầm của chúng ta, và như thế, là chỗ nương tựa cho sự tịnh hóa của chúng ta. Trong trường hợp này, chỗ nương tựa là Quán Thế Âm, sự biểu lộ của trí huệ của tất cả chư Phật và chư Bồ tát. Trong những thực hành khác, chỗ nương tựa có thể là Vajrasattva chẳng hạn, hay Ba Mươi Lăm Phật của sự Sám Hối, hay Phật Vairochana, mà chỉ âm thanh của danh hiệu cũng đủ giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi những cõi thấp; nhưng trong nhiều bổn tôn đầy đủ khả năng này, tất cả đều là những biểu lộ của Quán Thế Âm, chỗ nương tựa tinh túy cho sự tịnh hóa.

Năng lực thứ hai là sức mạnh của hối tiếc. Hối tiếc khởi lên tự nhiên khi chúng ta thấu hiểu rằng tất cả khổ đau chúng ta đã trải nghiệm cho đến giờ trong mọi tái sanh vô số của chúng ta trong sanh tử đều do tà hạnh của chúng ta gây ra – năm tội lỗi với hậu quả trực tiếp, mười hành động bất thiện, và những vi phạm trong những lời thệ nguyện của ba thừa.(41) Tất cả chúng ta đã có quá nhiều kiếp sống không thể tính đếm hết, và nếu các bạn gom chúng lại cùng một chỗ tất cả thân thể các bạn đã từng có, ngay chỉ những thân thể của tất cả kiếp tái sanh làm một côn trùng cũng tạo thành một đống cao hơn Núi Tu Di. Nếu các bạn tập họp tất cả những nước mắt đau buồn các bạn đã đổ ra trong những đời quá khứ, chúng có thể tạo thành một đại dương lớn hơn bất cứ đại dương nào trong vũ trụ. Nhiều ví dụ như thế có thể được tìm thấy trong Pháp Cao Cả của sự Nhớ Lại Rõ Ràng.(42) Tất cả khổ đau của những tái sanh không dứt này hoàn toàn là kết quả của những hành động tai hại của các bạn, như nói dối hay giết chóc. Chừng nào các bạn còn chưa biết về những hậu quả do các hành động của mình đem lại, các bạn chỉ tiếp tục cư xử như một người điên; nhưng khi các bạn thấy rõ ràng tất cả các tà hạnh trong quá khứ của các bạn là cái bắt các bạn phải lang thang trong khổ đau không dứt của vòng sanh tử như thế nào, các bạn bắt buộc phải xúc động bởi hối hận sâu xa về những hành động xấu đã phạm phải, hoàn toàn mất đi sự thôi thúc lập lại chúng. Với sự hối tiếc mạnh mẽ, thành thật, các bạn nên sám hối tất cả những lỗi lầm của các bạn, không chút do dự miễn cưỡng.

Nhưng hối hận tự nó chưa đủ; những hành động xấu của quá khứ còn phải được làm cho sạch. Điều này được làm với năng lực thứ ba, năng lực của cái đối trị. Tất cả những hành động xấu đã phạm với thân, ngữ và tâm thức phải được chống lại bằng những đối trị của chúng: những hành động tốt của thân, ngữ và tâm thức. Để đem điều này vào thực hành, với thân các bạn làm những lễ lạy, tôn vinh những nơi chốn thiêng liêng bằng cách đi nhiễu quanh, và phụng sự người khác và những giáo lý ; với ngữ các bạn trì tụng manÏi ; và với tâm thức các bạn, nghĩ nếu không có ánh sáng chói lọi của lòng bi của ngài các bạn sẽ chìm càng lúc càng sâu vào sanh tử như thế nào, hãy cầu nguyện chuyên chú với sự sùng mộ vĩ đại đến Quán Thế Âm để xua tan mọi che chướng và tiêu cực của các bạn. Để trả lời cho sự cầu nguyện nhiệt thành của các bạn, hãy quán tưởng nước cam lồ trí huệ đổ xuống từ thân thể Quán Thế Âm rót vào các bạn và tất cả chúng sanh qua đỉnh đầu. Nó tràn đầy thân thể bạn và thân thể của họ, và hoàn toàn tẩy sạch mọi che chướng, tà hạnh và xấu xa, đến cuối cùng không còn dấu vết nào sót lại; thân thể của các bạn đã trở thành thanh tịnh và trong suốt như pha lê. Quán Thế Âm mỉm cười rạng rỡ và nói, “Con cao quý, mọi lỗi lầm của con đã sạch.” Hòa trong ánh sáng, ngài tan vào trong các bạn. Cảm thấy rằng tâm của Quán Thế Âm và tâm các bạn đã trở thành một, an trụ một lúc trong một trạng thái của cái Không sáng rỡ, vượt ngoài mọi ý niệm.

Năng lực thứ tư là sức mạnh của quyết định, sự quyết tâm không bao giờ lập lại những hành động ác hại ấy nữa, dù bằng cái giá của đời bạn. Cho đến bây giờ có thể các bạn mù lòa với sự kiện tà hạnh là cái tạo nên khổ đau, nhưng từ giờ trở đi các bạn phải không có lý do gì mà không sửa đổi những cách thức sai lầm ấy. Cũng không đúng khi nghĩ rằng bởi vì những hành động xấu có thể được tịnh hóa một cách dễ dàng, chúng chẳng quan trọng lắm; các bạn phải làm một quyết định quả quyết, từ cốt lõi sâu xa của con người các bạn, rằng bất cứ cái gì có xảy ra bạn cũng sẽ không bao giờ làm hành động nào trái ngược với Pháp. Điều này sẽ đòi hỏi chánh niệm và tinh tấn thường trực. Năng lực thứ tư cũng bao gồm quyết định phải trong sạch trong thân, ngữ và tâm thức, như Quán Thế Âm. Khi trì tụng thần chú sáu chữ, cái xấu xa tiêu cực và những che chướng của các bạn sẽ tan biến, và mọi phẩm tính vốn có sẵn trong trạng thái giác ngộ sẽ bắt đầu chiếu rọi, như mặt trời ra khỏi những đám mây.

 

CÚNG DƯỜNG

27. Tâm thức, chấp vào một cái “Tôi”, bám níu vào mọi thứ – đây là nguyên nhân của sanh tử. Thế nên, như những cúng dường cho cái cao cả trong niết bàn và từ thiện cho cái thấp kém trong sanh tử, Hãy cho đi mọi thứ – thân thể, tài sản và đức hạnh – và hồi hướng công đức cho tất cả ; Buông bỏ mọi thứ bám níu, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Qua tịnh hóa, các bạn đã làm sạch những trở ngại trên con đường đến giác ngộ, nhưng để tu hành theo con đường này, bây giờ các bạn cũng cần gom góp những lương thực cần thiết để nuôi sống các bạn trên lộ trình. Sự gom góp lương thực này là sự tích tập công đức và trí huệ. Sự tích tập công đức, được hoàn thành qua những hành động đức hạnh và cúng dường, sẽ dẫn đến sự đạt được Sắc thân, thân của hình tướng; sự tích tập trí huệ, được hoàn thành bởi thực hiện những hành động đức hạnh này với một tâm thức thoát khỏi bám chấp, sẽ dẫn đến sự đạt được Pháp thân, thân tuyệt đối. Hai sự tích tập này cần được thành tựu với tư tưởng làm lợi lạc cho những người khác.

Cốt yếu quan trọng là hiểu được rằng chấp thủ vào ý niệm có một cái “tôi”, một bản ngã thực sự hiện hữu, là nguyên nhân căn bản của sự lang thang trong ba cõi sanh tử của chúng ta. Một khi niềm tin sai lầm vào một cái ta này đã mọc rễ, chúng ta bắt đầu bám vào thân tôi, tâm tôi, tên tôi, tài sản tôi, gia đình tôi…; chính những ý niệm này khiến chúng ta khát khao lạc thú và ghê sợ khổ sở. Kết quả là một sự liên tục không ngừng của hấp dẫn và ghét bỏ lần lượt nối nhau, và từ những thôi thúc bên dưới này mà khởi ra những phiền não xung đột làm rối loạn tâm thức không ngơi ngớt.

Trong vô số đời quá khứ, chúng ta đã có đầy đủ giàu có và tài sản, nhưng chúng ta đã sợ mất mát hay hư hao cái chúng ta có đến độ chúng ta không thể rộng lượng, trong hình thức cúng dường cho Tam Bảo hay từ thiện cho những người khác. Có một số người rất giàu có mặc áo rách và chỉ ăn những bữa ăn thiếu thốn, chỉ vì hà tiện; điều này chứng tỏ họ mù lòa biết bao nhiêu về vô thường, vì rồi thời gian sẽ phải đến – chắc chắn khi họ chết hay có thể trước đó – khi họ sẽ mất tất cả những cái gì đã sở hữu; và bấy giờ, họ không chỉ không thể đem bất kỳ thứ gì theo cùng họ, mà còn có thể sẽ sinh vào một cuộc đời nơi đó ngay cả những danh từ “thức ăn” và “đồ uống” không bao giờ được nghe cho tới lúc chết. Dù cho thật sự rằng những tài sản của các bạn không thực hơn kho tàng tìm thấy trong giấc mộng hay hơn một đô thị ảo ảnh chập chờn phía chân trời, bằng cách cúng dường chúng cho Quán Thế Âm và Tam Bảo, các bạn sẽ tích tập công đức như mộng nó sẽ dẫn các bạn đến hạnh phúc, sống thọ, và thịnh vượng như mộng, rồi cuối cùng đến giải thoát. Để tích tập công đức thật sự, hãy làm mọi sự cúng dường và tặng cho với lòng sùng mộ lớn lao và không có chút gì kiêu hãnh.

Trong mọi thứ sở hữu của mình, chính thân thể là cái chúng ta yêu quý nhất; chúng ta khó có thể chịu nổi một cái gai đâm hay một tàn lửa bỏng. Để lật ngược thói quen bám chấp vào sự tiện nghi và sở hữu của thân thể các bạn, hãy cúng dường thân thể các bạn cho Phật như là một người tôi tớ và cúng dường tất cả tài sản các bạn như một đám mây bao la những phẩm vật cúng dường cho tất cả chư Phật và chư Bồ tát – đây là cách thực sự có ý nghĩa để sử dụng chúng. Hơn nữa, với sự tưởng tượng của các bạn, hãy cúng dường tất cả những sự đẹp đẽ trong vũ trụ : hoa, vườn và rừng, âm nhạc thanh tao, mùi hương thanh nhã, thực phẩm hoàn hảo, ánh sáng mọi loại, ngọc báu... Cái tối cao trong những cúng dường này là sự cúng dường thiêng liêng mạn đà la của toàn thể vũ trụ : Núi Tu Di và bốn châu lục, núi ngọc, cây như ý, và v.v... – tóm lại, toàn thể thế giới tràn đầy sự phong phú không cùng của chư thiên và con người. Hãy dâng tặng sự cúng dường vô tận này cho cả hai, những vị an trú trong niết bàn, chư Phật và Bồ tát, và cho những người trong sanh tử, tất cả chúng sanh của sáu nẻo luân hồi.

Thêm vào tất cả những sự cúng dường này, có tả trong những kinh và tantra, như một đối trị hơn nữa với sự chấp ngã nằm trong gốc rễ của sanh tử, là thực hành rất sâu xa quán tưởng thân thể các bạn chuyển hóa thành cam lồ và rồi được dâng cúng cho bốn hạng khách. Trong bốn hạng này, cái thứ nhất là những vị đặc biệt đáng kính trọng và sùng mộ, Tam Bảo. Cái thứ hai là những vị mà những phẩm tính của họ khiến họ đáng để cúng dường, những Hộ Pháp. Cái thứ ba là những người cần bi mẫn, tất cả chúng sanh trong sáu nẻo ; đối với họ, hãy quán tưởng rằng sự cúng dường cam lồ của các bạn hóa thành bất cứ thứ gì có thể xoa dịu nỗi khổ của họ – thức ăn cho người đói, thuốc thang cho người bệnh, áo quần cho người lạnh, và chỗ ở cho người không nhà. Loại khách thứ tư là những người mà các bạn mắc những món nợ nghiệp trong đời này và những đời quá khứ, và bởi thế khiến họ được cảm thấy như là những lực lượng xấu, tạo ra những chướng ngại và rối ren, và ngăn cản bạn thực hành ; bằng cách cúng dường cho họ trong hình thức bất cứ thứ gì họ muốn nhất, những món nợ của các bạn với họ sẽ được xóa sạch.

Thần chú sáu chữ cũng có thể được trì tụng như một cúng dường đến Tam Bảo và đến tất cả chúng sanh ; nó có năng lực đem lại lợi lạc vô cùng. Ngay cả những chúng sanh tàn ác và kiêu căng không thương xót nhất, hoàn toàn mất đi khuynh hướng nhỏ nhất về Pháp, cũng có thể được thuần hóa và giúp đỡ với thần chú này, bởi vì nó là nguồn của Bồ đề tâm, mà năng lực vô biên của lòng bi của Bồ đề tâm luôn luôn thành công nơi nào sức mạnh và bạo động thất bại.

Qua những thực hành này, mà tinh túy là lòng rộng lượng và quan tâm đến những người khác, các bạn có thể giải thoát khỏi tâm bám chấp quy ngã, căn cứ đích thực của sanh tử. Làm những cúng dường và khai triển lòng bi cho tất cả chúng sanh, cuối cùng các bạn sẽ có thể buông bỏ mọi bám níu vào bản ngã bất luận thế nào. Đây là sự cúng dường tối thượng, ba la mật chân thực của rộng lượng bố thí, rộng lượng bố thí “vượt khỏi”; là sự rộng lượng bố thí được thăng hoa trong trí huệ và đại bi.

Rộng lượng tối hậu được minh họa bằng câu chuyện sau đây.

Thời nọ có một đại đế, nổi tiếng vì lòng bi bao la của ông. Ngày qua ngày, trong căn phòng cao nhất trong cung điện, ông thường thiền định về lòng từ bi. Năng lực lòng bi của ông đến nỗi không có ai, dầu cố gắng đến đâu, có thể giết bất kỳ sinh vật gì trong vương quốc của ông. Một buổi sáng, một con chim bồ câu bay qua cửa sổ mở và rơi xuống lòng nhà vua, ngừng thở và khủng khiếp, sau chỉ vài giây là một con diều hâu sà xuống trong phòng, đậu lại gần vua, nói với ông, “Con bồ câu này là của tôi. Tôi cần thịt cho chính tôi và đám chim non của tôi.”

Nhà vua thầm nghĩ, “Không cách gì ta có thể cho diều hâu mẹ con bồ câu này ; và cũng không có thịt nào khác ta có để cho nó. Nhưng nếu ta không làm gì, diều hâu và đám con, tất cả sẽ chết.” Cuối cùng tìm ra một trả lời cho vấn đề nan giải của mình, nhà vua quyết định cho con diều hâu ít thịt của chính ông.

“Mày cần bao nhiêu thịt ?” ông hỏi nó.

Diều hâu đáp, “Bằng sức nặng của thân tôi.”

Nhà vua lấy ra một bàn cân và đặt con diều hâu vào một dĩa cân. Với một con dao bén, ông bắt đầu cắt thịt từ đùi phải, đặt lên dĩa cân kia. Nhưng cái cân không nhúc nhích chút nào. Ông cắt thịt đùi trái và đặt lên dĩa cân, nó cũng còn bất động. Bấy giờ ông cắt thịt từ toàn bộ thân thể và chất lên dĩa cân – nhưng bấy giờ cái cân vẫn đứng yên như ban đầu. Cuối cùng ông ngồi hẳn lên dĩa cân, cho toàn bộ thân thể mình.

Vào ngay lúc ấy, con bồ câu và con diều hâu, hai vị trời đến để thử thách lòng bi của nhà vua, hoàn lại hình thể bình thường của họ. “Ngài quả thật là một người bi mẫn nhất !”, họ nói. Lúc ấy, nhà vua tức thì được lành lặn những vết thương của mình một cách kỳ diệu. Trong một đời tương lai, nhà vua đã trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni.

Vào lúc này chúng ta không có khả năng đem cho đầu, tay chân và thịt, như đại Bồ tát đã làm, và thật ra ở mức độ của chúng ta, sẽ là sai lầm để làm những cúng dường như vậy ; thế nên chúng ta bắt đầu bằng cách cho thân thể chúng ta trong tâm tưởng. Qua việc này và tất cả những thực hành cúng dường khác, vì các bạn ngày càng giảm mất những bám chấp của các bạn, tâm thức các bạn sẽ trở nên càng ngày càng cao cả và rộng rãi. Cuối cùng, các bạn sẽ chứng ngộ bản tánh trống không của cái ngã ; bấy giờ các bạn sẽ có thể hoàn thiện sự tích tập của trí huệ, bằng cách làm sự cúng dường hoàn thiện nhất của tất cả – sự chứng ngộ tánh Không của tất cả các hiện tượng.

 

GURU YOGA

Bây giờ chúng ta đến cái tinh túy tột độ của con đường, sự thực hành Guru Yoga, qua nó trí huệ sẽ khởi lên một cách tự nhiên và không cố gắng trong hiện thể của chúng ta.

28. Vị thầy cao cả có bản tánh của tất cả chư Phật,
Và trong tất cả chư Phật, chính ngài là vị tốt lòng nhất.
Thấy vị thầy không tách lìa với Quán Thế Âm,
Với sùng mộ nhiệt thành, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Những phẩm tính và khả năng của vị thầy gốc (bổn sư) của các bạn thì bằng với những cái của tất cả chư Phật trong quá khứ trong mọi phương diện, nhưng chỉ một điều : lòng tốt của ngài biểu lộ thì còn lớn lao hơn. Sao điều đó có thể? Bởi vì chính ngài là người được sửa soạn để thực sự chỉ ra cho bạn con đường đến giải thoát. Thông hiểu sâu xa lòng tốt độc nhất này, các bạn cần luôn luôn thờ phụng vị thầy tâm linh của các bạn như chính đức Phật.

Tất cả chư Phật của quá khứ, hiện tại và tương lai đã thành tựu và sẽ thành tựu giác ngộ đều bằng cách nương dựa vào một vị thầy tâm linh. Cái sâu xa nhất của mọi giáo lý, Mahamudra (Đại Ấn) và Đại Toàn Thiện, được chứng ngộ qua sùng mộ hơn là qua những tạo tác của tri thức. Với một lòng sùng mộ không lay chuyển và nhất tâm, hãy thấy thầy như là Phật và mọi thứ ngài làm đều toàn hảo ; bấy giờ những ban phước của ngài, trí huệ của tâm của tất cả chư Phật, sẽ tuôn vào hiện thể của các bạn một cách không cố gắng. Thực hành phù hợp với những giáo huấn của ngài, và bởi vì mọi đám mây nghi ngờ và do dự đã được xóa sạch, mặt trời của lòng bi của ngài sẽ chiếu soi suốt, sưởi ấm các bạn với hạnh phúc.

Chakravartin, chuyển luân vương truyền thuyết, rút quyền lực trên bốn châu lục của mình từ bánh xe thần đi theo ngài bất cứ chỗ nào ngài đến. Cũng cách ấy, nếu các bạn giữ lòng sùng mộ luôn luôn ở với mình, nó sẽ đem lại cho các bạn năng lực để tiến bộ không cố gắng hướng về giải thoát. Như đức Phật nói, “Ta luôn luôn ở đó đối với bất kỳ ai có lòng sùng mộ.” Như một cái hồ phản chiếu mặt trăng càng tròn sáng hơn khi mặt nước của nó trong sáng và tĩnh lặng, cũng thế những ban phước của vị thầy tuôn trào mạnh mẽ khi niềm tin của các bạn vững chắc và trong sáng.

Chính là qua những ban phước của vị thầy mà giác ngộ có thể đạt được nhanh chóng nhất. Như các tantra nói :

Vị thầy là Phật, vị thầy là Pháp, vị thầy là Tăng ;
Vị thầy hiện thân trí huệ của tất cả chư Phật.

Với điều này trong tâm, hãy cầu nguyện đến thầy của các bạn như là chính Quán Thế Âm. Cũng có nói :

Tâm thầy là Pháp thân bất biến,
Ngữ thầy là Báo thân miên viễn.
Thân thầy là lòng bi bao trùm tất cả của Hóa thân;
Hãy cầu nguyện đến thầy, sự hiện diện tự nhiên của bốn thân.

Cầu nguyện đến thầy như không lìa tách với Quán Thế Âm là tinh túy tột độ của Guru Yoga. Nghĩa đen của Guru Yoga là “hợp nhất với bản tánh của thầy”. Hòa lẫn tâm thức của các bạn với tâm của thầy là cái sâu xa nhất của mọi sự thực hành và là con đường ngắn nhất để chứng ngộ. Nó là sức sống của con đường và sự thực hành duy nhất bao gồm tất cả những thực hành khác. Chính là qua nương dựa vào một vị thầy tâm linh mà tất cả chư Bồ tát của quá khứ phát sanh Bồ đề tâm và đạt đến hoàn thiện. Chẳng hạn Bồ tát Taktu-ngu, “Vị Khóc Mãi”,(43) đã sẵn sàng cho mọi thứ, kể cả thịt và máu của chính ngài, để được thầy mình chấp nhận ; và Bồ tát Shošnnu Norsang, “Dồi Dào Tuyệt Hảo Trẻ Trung”, đã theo không dưới 143 đạo sư.

Bởi thế, quan trọng là cầu nguyện đến vị thầy của các bạn mọi lúc và mọi hoàn cảnh, từ những chiều sâu thẳm của lòng các bạn và từ tận xương tủy của thân thể các bạn. Khi ngồi xuống, hãy quán tưởng ngài ở trên đầu các bạn và cầu nguyện ngài ; khi đi, hãy quán tưởng ngài trên vai phải như các bạn đang đi nhiễu quanh ngài ; khi ăn, hãy quán tưởng ngài trong cổ họng các bạn, và tưởng tượng rằng thức ăn của bạn được biến thành cam lồ trong sạch nhất, dâng cúng nó cho ngài. Khi đi ngủ, quán tưởng ngài trong trái tim các bạn, ngài ngồi trên một hoa sen đỏ bốn cánh, phóng chiếu ánh sáng rực rỡ đầy khắp toàn bộ vũ trụ. Mọi lạc thú các bạn trải nghiệm, mọi sắc và thanh đẹp đẽ, mọi miềm vui trong đời bạn, hãy nhân chúng lên vô tận trong tâm thức các bạn và cúng dường cho ngài. Khi những hoàn cảnh của các bạn được hạnh phúc và mọi sự đều tốt đẹp, hãy nghĩ tất cả đều nhờ lòng tốt của ngài như thế nào, và thọ hưởng cái các bạn có mà không bám níu hơn là đối với một giấc mộng hay một huyễn cảnh. Khi các bạn bị đè nặng bởi bệnh tật, buồn rầu hay bởi đối xử xấu, hãy suy nghĩ đây thật ra cũng là lòng tốt của thầy các bạn, bởi vì chính qua những khó khăn như vậy mà các bạn có dịp may tịnh hóa tà hạnh và nợ nần nghiệp báo của quá khứ ; và ước mong rằng mọi khổ đau của tất cả chúng sanh được góp thêm vào cho cái khổ đau riêng của các bạn, để họ không phải chịu khổ nữa.

Nếu các bạn có thể thấy ngay cả một con quỷ như là Quán Thế Âm, sự bám chấp vào cái thực của những sức mạnh xấu sẽ tan biến, và những sức mạnh như vậy sẽ không thể tạo ra những chướng ngại cho đời các bạn hay cho sự thực hành của các bạn nữa. Khi sét đánh, núi sập, hay thú rừng đe dọa, nếu tâm các bạn tràn đầy tư tưởng về Quán Thế Âm và các bạn hoàn toàn an trụ nơi ngài, các bạn sẽ hoàn toàn thoát khỏi sợ hãi. Đến lúc chết, nếu các bạn chỉ nghĩ đến Quán Thế Âm các bạn sẽ không có gì để sợ hãi với những xuất hiện đáng sợ của trung ấm. Nhưng nếu các bạn bị chìm ngập bởi nỗi sợ hãi, do dự giữa chạy đi hay trốn vào một nơi nào, các bạn sẽ ở trong khổ não thường trực suốt cuộc đời, và vào lúc chết các bạn sẽ không thể vượt qua nổi những sợ hãi huyễn hóa của trung ấm.

Tất cả những thực hành cao cả của Kinh và Tantra có thể được cô đọng vào lòng sùng mộ đối với thầy, và tất cả chúng đều được bao gồm trong sự thực hành trì tụng manÏÏi. Nhớ rằng sùng mộ đối với thầy là nguồn của mọi chứng ngộ, và rằng tinh túy của Guru Yoga – hòa tâm mình với bản tánh của Quán Thế Âm – là cái sâu xa nhất của mọi thực hành, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

 

Con Đường của những Tantra

Đã diễn tả những điểm chính của con đường của những kinh điển, bây giờ Patrul Rinpoche đi đến con đường của những tantra, nó cũng thường được gọi là con đường của Mật chú, hay Kim Cương thừa, Vajrayana. Điều quan trọng là cần nhớ rằng sự thực hành của Kim Cương thừa đặt nền trên Kinh thừa, không bao giờ xung đột với Kinh thừa.

QUÁN ĐẢNH

Trước khi bắt đầu thực hành con đường Kim Cương thừa, các bạn cần nhận một nhập môn, hay trao quyền, truyền pháp, nó cho các bạn được phép nhận những giáo lý Kim Cương thừa và thực hành chúng, và nó bảo đảm cho sự thấu hiểu về thực hành của các bạn chín dần một cách thích đáng cho đến lúc các bạn có thể thu hoạch quả. Thực hành Kim Cương thừa mà không đã nhận một quán đảnh truyền pháp thì cũng giống như cố gắng ép đá để thành dầu.

29. Tịnh hóa những che chướng, khởi sự sự thực hành của con đường và hiện thực hóa bốn thân,

Tinh túy của bốn quán đảnh là Vị Thầy Quán Thế Âm;

Nếu con nhận ra tự tâm con là vị thầy, tất cả bốn quán đảnh đã trọn vẹn;

Nhận sự quán đảnh bẩm sinh vốn sẵn đủ bởi tự chính con, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Trước khi đổ vào một đồ chứa thứ chất lỏng gì rất quý báu, trước hết các bạn phải chắc chắn rằng đồ chứa đã được rửa sạch hoàn toàn. Cùng cách ấy, để bảo đảm rằng các bạn là một đồ nhận thích hợp cho những lời dạy quý báu, điều quan trọng là trước khi nhận được chúng, các bạn phải được tẩy sạch bằng cách nhận một quán đảnh nhập môn.

Quán đảnh (Tây Tạng là wang và Sanskrit là abhisheka) trao quyền cho các bạn được nghe, nghiên cứu và thực hành những giáo lý Kim Cương thừa. Đặc biệt, nó cho phép thực hành những giai đoạn khác nhau của con đường: giai đoạn phát triển, trong đó các bạn quán tưởng những hóa thần và trì tụng những thần chú; giai đoạn thành tựu, trong đó các bạn thực hành những yoga nội; và Đại Ấn và Đại Toàn Thiện, trong đó các bạn gặp gỡ bản tánh tuyệt đối của tánh giác.

Dù có nhiều cấp độ của quán đảnh, nền tảng của tất cả chúng là bốn quán đảnh căn bản liên quan với bốn che chướng cần được tịnh hóa, bốn tiến trình qua đó sự tịnh hóa xảy ra, và bốn phương diện của thành tựu với kết quả.

Quán đảnh cái bình tịnh hóa thân; quán đảnh bí mật tịnh hóa ngữ; quán đảnh trí huệ tịnh hóa tâm thức; và quán đảnh biểu tượng tịnh hóa những nhiễm ô vi tế của cả thân, ngữ và tâm thức đồng thời. Bốn sự quán đảnh được nhận lần lượt từ thân, ngữ, tâm và trí huệ kim cương bất hoại của vị thầy, ở đây trong hình thức của Quán Thế Âm. Quả của bốn quán đảnh này là sự hiện thực hóa của bốn thân.

Qua quán đảnh các bạn sẽ chứng ngộ thực tánh của tất cả hiện tượng là tánh thanh tịnh bổn nguyên. Bây giờ, tại sao chúng ta và tất cả chúng sanh đã bị hành hạ cho tới nay bởi tất cả mọi hình thức của khổ đau trong sáu cõi sanh tử? Đơn giản bởi vì chúng ta đã không thấy biết được mọi sự vật vốn là bổn lai thanh tịnh. Bổn lai thanh tịnh chính là trạng thái thực của tất cả các pháp, và những thấy biết bất tịnh thông thường của chúng ta là hoàn toàn sai lầm, những vọng tưởng không có một hạt nhỏ chân lý nào – giống như lầm lẫn một đoạn dây thành một con rắn hay nghĩ một ảo ảnh chập chờn của nước ở xa là thật có một cái gì đó.

Thế nên chức năng của bốn quán đảnh là làm cho các bạn biết sự thanh tịnh vốn có của mọi sự vật. Qua sự ban phước của thân Quán Thế Âm, các bạn sẽ thấy biết toàn bộ vũ trụ như là cõi Phật của Quán Thế Âm, Núi Potala. Qua sự ban phước của ngữ Quán Thế Âm, các bạn sẽ thấy biết tất cả âm thanh trong vũ trụ – tiếng của nước, lửa, gió, tiếng kêu của thú vật, giọng nói con người – như là tiếng dội của manÏi. Qua sự ban phước của tâm Quán Thế Âm, các bạn sẽ kinh nghiệm tất cả tư tưởng như là trò chơi của tánh giác. Qua sự ban phước của thân, khẩu và ngữ đồng thời của Quán Thế Âm, các bạn sẽ chứng ngộ rằng trong thật tế thân, ngữ, tâm không phải là ba thực thể riêng biệt mà là một bản tánh của Quán Thế Âm, tánh Không và đại bi không thể tách lìa.

Trước tiên đã nhận được một quán đảnh truyền pháp từ một vị thầy đạo hạnh, bấy giờ các bạn phải tự mình làm sống động trở lại sự quán đảnh truyền pháp lần nữa và lần nữa, mỗi lần làm sâu xa thêm sự thấu hiểu của các bạn, thắp sáng lại những ban phước của thầy, và sửa lại những lỗi vi phạm samaya nào có xảy ra. Để làm sống động trở lại sự quán đảnh cái bình, hãy quán tưởng rõ ràng Quán Thế Âm như là đấng bao trùm tỏa khắp của vô cùng những mạn đà la và hãy cầu nguyện ngài với lòng tin khao khát. Để làm sống động trở lại sự quán đảnh bí mật, hãy trì tụng manÏi với lòng sùng mộ nhiệt thành. Để làm sống động trở lại sự quán đảnh trí huệ, hãy cầu khẩn với lòng sùng mộ những ban phước của đại bi toàn hảo, không ý niệm của Quán Thế Âm trong hình thức những tia sáng phát ra từ trái tim ngài và tan biến vào trái tim các bạn. Để làm sống động trở lại sự quán đảnh biểu tượng, hãy cầu nguyện Quán Thế Âm với sự tôn kính sâu xa và cảm thông sâu sắc, cầu khẩn trí huệ kim cương của ngài trong hình thức những tia sáng năm màu sáng chói từ toàn thân ngài, chúng tan vào khắp thân thể các bạn. Theo cách này, khi các bạn nhận bốn quán đảnh, bốn sự che chướng(44) được xóa tan và bốn thân được thành hiện thực.

Quán đảnh cũng có thể được nhìn theo nền tảng, con đường và quả. Như Lai Tạng, Phật tánh đã luôn luôn hiện diện trong các bạn : bản thân cái ấy là sự quán đảnh nền tảng. Trong thời gian nhập môn, Phật tánh vốn sẵn đủ được chỉ thẳng một cách trực tiếp bởi vị thầy và sau đó được chứng ngộ dần dần bởi đệ tử, đây là sự quán đảnh con đường. Những phương pháp, phương tiện cho tiến trình tiệm tiến này bao gồm sự quán tưởng những mạn đà la(45) và những hóa thần, sự trì tụng những thần chú, và v.v... ; trong sự thực hành đặc biệt này các bạn quán tưởng Quán Thế Âm ở trên đầu các bạn, trì tụng thần chú sáu chữ, và nhận trở đi trở lại từ ngài bốn quán đảnh. Sự quán đảnh con đường đưa đến sự quán đảnh quả, nó chỉ là sự chứng ngộ hoàn toàn Phật tánh vốn sẵn có của các bạn.

Những ban phước của bốn quán đảnh và năng lực của chúng để tịnh hóa những che chướng cần được giữ gìn và được tăng trưởng bởi những thực hành của bốn con đường tương ứng. Những cái ấy là chủ đề của những câu kệ còn lại của phần này.

TRI GIÁC THANH TỊNH

30. Sanh tử không là gì khác hơn như thế nào sự vật xuất hiện với con;

Nếu con nhận ra mọi sự như là hóa thần bổn tôn, sự tốt đẹp của những người khác đã trọn vẹn.

Thấy sự thanh tịnh của mọi sự là ban bốn quán đảnh cho tất cả chúng sanh tức thì;

Nạo vét sạch những chiều sâu của sanh tử, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Đối với người có những khả năng trung bình, con đường là sự từ bỏ toàn hảo. Đối với những người lớn lao, con đường là lòng bi toàn hảo. Đối với những người có những khả năng tối cao, con đường là sự thấy biết tánh thanh tịnh bổn nhiên và toàn hảo. Chính cái thấy biết thanh tịnh này của Kim Cương thừa mà chúng ta quan tâm ở đây.

Vậy thì cái gì nghĩa là tri giác thanh tịnh? Cách thức chúng ta thường kinh nghiệm thế giới bên ngoài, thân thể chúng ta, và cảm giác chúng ta là bất tịnh, theo nghĩa chúng ta thấy biết chúng như là bình thường, những thực thể hiện hữu một cách có bản chất. Từ cái thấy biết sai lầm này có ra những phiền não chúng kéo dài khổ đau. Tuy nhiên, hãy nhìn kỹ tất cả những hình tướng ấy; các bạn sẽ thấy ra rằng chúng không có hiện hữu thật sự. Từ một quan điểm tương đối, chúng xuất hiện như là một kết quả của nhiều nhân và duyên khác nhau, như một ảo ảnh hay một giấc mộng, nhưng trong thật tế không có cái gì khởi từ những nhân và duyên lại có một hiện hữu thực sự nào. Thật vậy, không có một vật nào để xuất hiện. Như có nói, “Ai thấu hiểu tánh Không là bậc hiền trí thực sự.”

Nếu các bạn tiếp tục thẩm xét, các bạn sẽ thấy ra rằng không có vật gì ở bất cứ nơi đâu, không ngay cả một nguyên tử đơn nhất, lại có một hiện hữu đích thật. Bây giờ, rõ ràng rằng nhìn thấy những sự vật theo cách khác đi, chúng như hiện hữu thực sự, chính là cái thấy biết hư vọng tạo nền cho sanh tử ¬– nhưng ngay cả cái thấy biết hư vọng này cũng không bao giờ lìa ngoài lãnh vực của tánh Không. Bởi thế, vô minh không là gì khác hơn một tấm màn che phù du không có hiện hữu nội tại. Khi các bạn nhận ra điều này, không có gì là thấy biết bất tịnh nữa ; chỉ có trò phô diễn của thân, ngữ, tâm và trí huệ của Phật. Bấy giờ không cần đến cố gắng nào để thoát khỏi ba cõi sanh tử hay để tận diệt khổ đau, bởi vì cả sanh tử lẫn khổ đau đều chưa từng hiện diện. Một khi các bạn chứng ngộ rằng sanh tử là trống không như một ảo ảnh, tất cả khuôn khổ nghiệp quả và thức tình phiền não nằm tại gốc rễ của sanh tử đều bị cắt sạch.

Tánh Không, tuy nhiên không phải là cái chẳng có gì hay hư không trống rỗng, bởi vì như Bát Nhã ba la mật nói, “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc ; Không chẳng khác Sắc, và Sắc chẳng khác Không.” Thế đấy, tánh Không không lìa khỏi sự phô diễn của những thân và những trí huệ. Trong ý nghĩa đó, mọi hình tướng xuất hiện đều là thân của Quán Thế Âm, mọi âm thanh đều là thần chú của ngài, và mọi tư tưởng đều là sự hợp nhất không và lạc của tánh Không và đại bi. Khi các bạn chứng ngộ cái Chân Không này của những hiện tượng, các bạn sẽ tự nhiên cảm thấy một lòng bi không có ý niệm, bao trùm khắp với tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong đại dương sanh tử của khổ đau bởi vì họ bám chấp vào ý niệm một bản ngã.

Cái tôi gây rối rắm muộn phiền này chỉ biết quan tâm đến chính nó trong thực tế đã không bao giờ bắt đầu hiện hữu, ngay đây cũng không đang hiện hữu ở bất cứ nơi đâu, thế nên nó cũng sẽ không có chỗ tắt mất. Không có một dấu vết nhỏ nhất nào của nó có thể được tìm thấy. Bởi thế khi các bạn nhận biết tánh Không, mọi ý niệm “có một bản ngã cần phải phá tan” cũng tan biến, và đồng thời năng lực đem lại sự tốt đẹp cho những người khác mọc lên như mặt trời, một cách không tạo tác và cố gắng. Ở đây các bạn sẽ thấy khuôn mặt thật của Quán Thế Âm, tánh Không và Đại Bi hợp nhất. Và ở đây bắt đầu mười cấp độ liên tiếp nhau của các Bồ tát, những người có khả năng kéo dài một khoảnh khắc thành một thời đại và cô đọng một thời đại thành một khoảnh khắc. Họ tràn đầy lòng bi tự nhiên, vô niệm, và bất cứ cái gì họ làm, dù chỉ một cử chỉ đơn giản của đôi tay, cũng đem lại lợi lạc cho chúng sanh. Họ không bao giờ bị ngu muội bởi những hình tướng xuất hiện, như một nhà huyễn thuật không bao giờ bị mê muội bởi trò lừa dối của ông ta, bởi vì họ biết rằng những hình tướng không có thực tánh, và họ biết rằng không nhận biết sự kiện ấy tức là vọng tưởng. Họ ban cho mọi thành tựu thông thường và tối thượng. Làm việc không mệt mỏi cho lợi lạc của tất cả hữu tình, họ nạo vét sạch những chiều sâu tận đáy của sanh tử.

Cầu nguyện nhiệt thành Quán Thế Âm, hãy quán tưởng vô số tia sáng phóng chiếu từ thân ngài, xua tan khổ đau và những che chướng của tất cả chúng sanh và ban cho họ bốn quán đảnh. Tất cả chúng sanh nam trở thành Quán Thế Âm, tất cả nữ trở thành Jetsun Drošlma, và toàn thể vũ trụ trở thành cõi Phật của họ. Thực hành theo cách này đem đến lợi lạc cho tất cả chúng sanh.

Mọi hiện tượng của sanh tử và niết bàn là những phóng chiếu của tâm các bạn. Thế nên, đó cũng là Quán Thế Âm. Trộn lẫn tất cả thực hành vào một cái, an trụ trong trạng thái nơi đó tánh Không và những hình tướng là một tánh duy nhất, và hãy trì tụng mani.

 

GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

Con đường mật chú được chia thành giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu. Giai đoạn phát triển gồm những yoga của những phương diện trí huệ của thân, ngữ và tâm thức – thân kim cương, ngữ kim cương, và tâm kim cương ; mục đích của nó là chứng ngộ tánh thanh tịnh bổn nguyên của tất cả hiện tượng. Giai đoạn thành tựu dẫn đến sự chứng ngộ không có ý niệm về bản tánh của tâm thức.

Thân Kim Cương

31. Tâm thức không thể đảm đương tất cả những thực hành quán tưởng ;
Thiền định về một vị Phật là thiền định về tất cả chư Phật. Bất cứ cái gì xuất hiện, những hình tướng là hình sắc của bậc Đại Bi ; Trong cảnh giới của thân thể hóa thần, xuất hiện nhưng trống không, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Sự thực hành cốt lõi của giai đoạn phát triển là quán tưởng bản thân các bạn và tất cả chúng sanh khác như là những hóa thần và vũ trụ như là mạn đà la hay một cõi Phật. Con người ngày nay, với trí năng giới hạn, cuộc đời ngắn ngủi, và tinh tấn yếu ớt, họ thấy khó khăn để làm chủ mọi quán tưởng tạo tác trong những tantra. Cố gắng thử làm tất cả những thực hành phức tạp này là vô ích, tuy nhiên, bằng cách thông thạo triệt để một thực hành nhắm vào chỉ một vị Phật, các bạn có thể khám phá ra trí huệ và lòng bi của tất cả chư vị.

Với thực hành hiện giờ, các bạn có thể hoặc quán tưởng chính các bạn là Quán Thế Âm hay quán tưởng Quán Thế Âm ở trên đầu các bạn, nghĩ đến ngài như không khác với bổn sư của các bạn, vị thầy mà các bạn cảm thấy sùng mộ lớn lao nhất. Ngài màu trắng – màu trắng chói sáng của một đỉnh tuyết phản chiếu một trăm ngàn mặt trời, xua tan bóng tối của toàn thể vũ trụ. Ngài có một đầu, tượng trưng cho cái một của bản tánh tuyệt đối ; bốn tay tượng trưng cho từ, bi, hỷ, xả; hai chân xếp bằng trong tư thế kim cương, tượng trưng tính nhất như của sanh tử và niết bàn; ngài ngồi trên một hoa sen ngàn cánh, tượng trưng lòng bi, và một dĩa mặt trăng tượng trưng cho tánh Không.

Một đôi tay chắp ở trái tim và cầm một viên ngọc, tượng trưng Bồ đề tâm, hòn ngọc như ý ban cho những thành tựu tối cao và thông thường. Hai tay kia, một tay bên phải cầm lên một xâu chuỗi pha lê và tay kia một hoa sen trắng bên trái; xâu chuỗi tượng trưng lòng bi không ngừng của ngài trải dài như một dòng không dứt qua trái tim của mỗi một chúng sanh, và hoa sen là sự thanh tịnh không biến đổi của trí huệ ngài nở trọn vẹn trên bùn lầy của sanh tử. Viên ngọc cũng tượng trưng trí huệ – đại lạc như phương tiện, trong khi hoa sen tượng trưng trí huệ – tánh Không như sự chứng ngộ. Thân thể đẹp đẽ của ngài, mang tất cả tướng chánh và tướng phụ của một vị Phật, được bao trùm trong ngọc và lụa của Báo thân.

Mục đích của những thực hành quán tưởng của giai đoạn phát triển, như cái này, là để phát triển cái thấy biết thanh tịnh – đó là, để thấy bản thân các bạn và tất cả chúng sanh như những hóa thần trí huệ và môi trường của các bạn như là một cõi Phật, để nghe tất cả âm thanh như là những thần chú, và để hiểu mọi tư tưởng như là trò chơi của tánh Giác. Cái tri giác thanh tịnh này không phải là một ý tưởng nhân tạo nào đó về sự thanh tịnh mà các bạn cố gắng gán ghép lên những hiện tượng; hơn thế nữa, nó là sự nhận ra rằng tất cả mọi hiện tượng thật sự và vốn xưa nay thanh tịnh. Nó được hoàn thành qua nhiều kỹ thuật thiền định, chúng dần dần được hoàn thiện. Ban đầu, các bạn có thể không quán tưởng được Quán Thế Âm như một toàn thể một cách rất rõ ràng, thế nên hãy bắt đầu bằng cách quán tưởng khuôn mặt của ngài: Vượt tất cả chúng sanh, lông mày cong hoàn hảo của ngài, đường nét của cái mũi, và nụ cười rạng rỡ của ngài. Rồi từ từ mở rộng sự quán tưởng đến toàn cái đầu của ngài – hình dáng tuyệt hảo và những trang sức của nó, vương miện và bông tai bằng vàng. Dần dần, quán tưởng phần dưới còn lại của thân thể ngài và những trang sức khác, ba vòng cổ, tấm da sơn dương trên vai trái và bao phủ phần ngực trái, những vòng đeo tay và cổ chân nạm ngọc, những khăn quàng lụa màu sắc, khăn quàng trắng thêu chỉ vàng, và y phục phần dưới năm màu. Quán tưởng mỗi chi tiết chầm chậm theo cách này, từ từng cái một, các bạn sẽ dần dần có thể duy trì sự quán tưởng bao trùm toàn bộ.

Bấy giờ, trong mỗi lỗ chân lông của thân thể Quán Thế Âm, hãy quán tưởng một cõi Phật, và trong mỗi cõi của hàng tỷ cõi Phật này, có một vị Phật chuyển bánh xe Pháp cho chúng hội Thanh Văn, Bích Chi và Bồ tát của ngài. Giáo lý của những vị Phật này về tri kiến, thiền định và hành động của Đại thừa là căn cứ trên Pháp cao siêu thần chú sáu chữ, và khả năng chỉ dạy của các ngài đến nỗi trong nhiều kiếp, các ngài có thể xiển dương ý nghĩa của chỉ một chữ, chẳng hạn chữ OM, mà không hề cạn kiệt đề tài. Không có cái gì trong những cõi Phật này là bất tịnh. Không có sự thù ghét kẻ thù hay luyến ái bạn bè. Mọi giống nam là Quán Thế Âm và mọi giống nữ là Jetsun Drošlma. Tất cả những cõi Phật này là những lưu xuất huyễn hóa của trò chơi phô diễn của Quán Thế Âm, sự biểu lộ của tánh Không và đại bi không tách lìa.

Khi quán tưởng thân thể các bạn là thân kim cương của Quán Thế Âm, các bạn phải thấy toàn thể môi trường bên ngoài được chuyển hóa thành Tịnh Độ của Quán Thế Âm, Núi Potala trong cõi Cực Lạc Sukhavati, với những điều kỳ diệu như những đồi ngọc, sông cam lồ và cây như ý; những đám mây của những sự cúng dường đầy trời, thần chú OMÏ MANÏI PADME HŪMÏ vang lên khắp nơi, và “khổ” là một danh từ không bao giờ được nghe đến.

Khi các bạn quán tưởng thân kim cương, các bạn không nên nghĩ nó là một cái gì cứng đặc làm bằng thịt, xương và máu, mà như một cầu vồng, chói lọi, màu sắc và trong sáng, nhưng không có bản chất nào. Đấy là phương diện Không của bản tánh Quán Thế Âm, nó không có những hợp uẩn thô đặc hay bất tịnh ; Quán Thế Âm hoàn toàn vô nhiễm với năm uẩn,(46) chúng hợp với nhau làm nảy sinh ý niệm về một bản ngã.

Ban đầu, dầu cố gắng siêng năng, các bạn cảm thấy khó mà làm chủ mọi chi tiết của sự quán tưởng. Trong trường hợp ấy, đơn giản hãy khai triển một sự xác tín rõ ràng các bạn chính là Quán Thế Âm – không phải như là kết quả của tạo tác thuộc về tâm thức mà vốn là như vậy. Nếu các bạn quán tưởng Quán Thế Âm trên đầu các bạn, đơn giản hãy tin chắc rằng ngài ở đó và rõ ràng biết sự hiện diện của ngài. Theo thời gian, bằng cách tập trung vào mỗi chi tiết lập đi lập lại, các bạn sẽ dần dần trở nên quen với sự quán tưởng cho đến khi nó trở thành hoàn toàn tự nhiên, như mọi chi tiết của một nơi chốn bạn đã sống lâu năm sẵn sàng hiện hình trong trí các bạn.

Khi sự quán tưởng Quán Thế Âm trở nên rõ ràng và vững chắc, hãy quán tưởng những tia sáng phóng ra từ thân thể ngài soi khắp mười phương,(47) cúng dường tất cả chư Phật và Bồ tát trong vô số cõi Phật. Những tia sáng này trở lại, mang theo những ban phước của tất cả các bậc giác ngộ, và tan trở vào Quán Thế Âm, ngài càng trở nên sáng chói và rực rỡ hơn. Một lần nữa, ngài phóng ra những tia sáng, lần này đến với tất cả chúng sanh, xua tan khổ đau của họ, đặt để họ trong trí huệ của đại lạc, và chuyển hóa họ thành những Bồ tát nam và nữ và toàn thể vũ trụ thành một cõi Phật hoàn hảo.

Trong khi các bạn đang thiền định về Quán Thế Âm, những tư tưởng bình thường sẽ dừng lại và tâm thức sẽ an định. Nếu bấy giờ các bạn nhìn vào bản tánh của tâm thức, sẽ bắt đầu trở nên rõ ràng rằng hóa thần bổn tôn tự bản chất là một với tánh Không. Cái hiểu này bấy giờ sẽ mở rộng đến sự chứng ngộ rằng tất cả hình tướng xuất hiện là trống không trong bản tánh và bởi thế hoàn toàn thanh tịnh. Hộ trì sự chứng ngộ này trong tất cả mọi lúc là giai đoạn phát triển của tánh thanh tịnh vô biên.

Ngữ Kim Cương

32. Những trì tụng, sadhana, và thần chú chỉ là những rắc rối ;
Thần chú sáu chữ bao gồm tất cả là âm thanh thực sự của Pháp.
Tất cả âm thanh không gì khác hơn là ngữ của Quán Thế Âm Cao siêu ;
Nhận biết chúng như là thần chú, âm vang nhưng trống không, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Một trong những yếu tố chính của thực hành Kim Cương thừa là thần chú (mantra). Thần chú là những công thức bằng tiếng Sanskrit trong lãnh vực âm thanh, có một tầm quan trọng tương đương với sự quan trọng của những hóa thần được quán tưởng trong lãnh vực hình sắc. Thần chú có nhiều loại khác nhau, gồm những thần chú của cái biết, thần chú bí mật và dharani ; cũng có những thần chú của sự tiếp cận, những thần chú của sự hoàn thành và những thần chú để thành tựu bốn sự hoạt động.

Tuy nhiên, không có thần chú nào có thể được xem như cao hơn mani, nó bao gồm không chỉ tất cả chức năng mà còn tất cả năng lực và ban phước của mọi thần chú khác. Những bậc thánh trí quá khứ, chẳng hạn như Karma Chagme vĩ đại,(48) đã không thể tìm khắp trong kinh điển một thần chú lợi lạc, tinh túy hơn hay dễ dàng thực hành hơn mani; bởi thế các ngài đã lấy thần chú này là sự thực hành chính của các ngài. Ngay chỉ nghe được manÏi là đã đủ để chúng sanh thoát khỏi sanh tử. Ví dụ, chuyện kể rằng có lần năm trăm con trùng giành giựt nhau để sống trong một cái hố bẩn thỉu ghê gớm. Quán Thế Âm thương xót cho sự khổ đau của chúng, biến thành một con ong vàng và bay trên cái hố, vo ve thần chú manÏi. Những con trùng nghe được âm thanh của sáu chữ, đã hoàn toàn thoát khỏi những đau khổ của chúng và sanh lại ở một cõi trời.

ManÏi không chỉ là một chuỗi lời bình thường. Nó chứa đựng tất cả những ban phước và lòng bi của Quán Thế Âm ; thật vậy, nó chính là Quán Thế Âm trong hình thức âm thanh. Như chúng ta hiện giờ, những che chướng nghiệp báo của chúng ta ngăn cản chúng ta có thể thực sự gặp gỡ Quán Thế Âm trong cõi Phật của ngài ; nhưng điều chúng ta có thể làm là nghe thần chú của ngài, trì tụng nó, đọc nó, và viết nó ra cho đẹp bằng chữ vàng. Bởi vì không có sự khác nhau nào giữa bản thân hóa thần bổn tôn và thần chú là tinh túy của ngài, những việc làm này đem lại lợi lạc lớn lao. Sáu chữ là sự biểu lộ sáu ba la mật của Quán Thế Âm, và như chính ngài đã nói, người nào trì tụng thần chú sáu chữ sẽ hoàn thiện sáu ba la mật và tịnh hóa mọi che chướng và nghiệp báo.

Để thực hành trì tụng thần chú này, trước tiên quán tưởng Quán Thế Âm như đã tả ở trước, càng rõ ràng sống động càng tốt. Trong trái tim Quán Thế Âm, hãy quán tưởng một hoa sen sáu cánh, trên đó là một dĩa mặt trăng tròn. Trong trung tâm dĩa mặt trăng là chữ HRĪHÏ, bao quanh bởi sáu chữ OM MA NI PAD ME HŪM xếp theo chiều kim đồng hồ trong một vòng tròn như một chuỗi ngọc trai, tỏa chiếu những dòng ánh sáng chúng mang những cúng dường đến cõi Cực Lạc Sukhavati, đến cõi Cực Mỹ Ưa Nhìn, và đến tất cả cõi Phật mười phương. Mỗi một tia sáng mang theo vô số đồ cúng dường, như tám biểu tượng tốt lành, tám chất quý báu, bảy biểu hiện vương giả, những cây như ý, những pháp khí quý giá, và tạo thành những đám mây khổng lồ của những cúng dường đến chư Phật và chư Bồ tát của mỗi cõi Phật, đầy khắp bầu trời. Nhận những món cúng dường của các bạn, chư Phật giúp các bạn tích tập công đức và trí huệ.

Rồi tất cả tia sáng này trở lại, mang theo trong hình thức cam lồ quý báu những ban phước của thân, ngữ, tâm của tất cả chư Phật, cùng với trí huệ, năng lực và tình thương của các ngài và tan vào thần chú trong trái tim Quán Thế Âm. Quán Thế Âm trở nên sáng chói và rực rỡ hơn nữa, như vàng tắm trong nước màu vàng nghệ.

Rồi những tia sáng vô biên lại phóng ra từ vòng tròn thần chú, lần này xóa tan khổ đau của tất cả chúng sanh trong sáu cõi: cái nóng làm bỏng và cái lạnh nhức nhối của những địa ngục; cái đói khát không gì giải tỏa được của ngạ quỷ ; cái ngu si hung dữ, cảnh nô lệ và bị đối xử tồi tệ của súc sanh ; những khổ đau của sanh già bệnh chết của con người; sự ghen ghét và cừu hận của bán-thiên; và mối khổ não của chư thiên khi cuối cùng, từ những thế giới tinh tế của lạc thú và định tĩnh, họ đâm đầu xuống những chiều sâu của các cõi thấp. Tất cả sự thống khổ này bị xua tan bởi ánh sáng rực rỡ tuôn ra từ thần chú, như mặt trời buổi sáng làm chảy tan sương mù trên cánh đồng mùa đông. Tất cả chúng sanh được chuyển hóa thành Quán Thế Âm; trước hết là môi trường trực tiếp quanh các bạn, và rồi toàn thể vũ trụ, trở thành cõi tịnh độ của Núi Potala.

Khi phúc lợi của tất cả chúng sanh đã được hoàn thành theo cách này, hãy gom thu lại những tia sáng trở vào trong chính các bạn, tức là Quán Thế Âm. Mỗi một lỗ chân lông của thân thể các bạn chứa đựng vô số cõi Phật, mỗi cõi âm vang thần chú sáu chữ. Sự rung động của nó tràn đầy toàn thể không gian, như tiếng vo ve của một triệu con ong bay ra khỏi tổ khi bị mở banh. Âm thanh của thần chú xóa sạch vô minh và hàng phục mọi năng lực tiêu cực. Nó thức tỉnh những Thanh Văn khỏi định của các ngài và đem các ngài vào con đường Đại thừa; nó làm những cúng dường cho các Bồ tát, khuyến tán các ngài tiếp tục làm việc cho lợi lạc của chúng sanh; và nó ra lệnh cho các hộ pháp giữ gìn những giáo lý và làm tăng trưởng hạnh phúc và thịnh vượng cho tất cả.

Những âm thanh của gió và những con sông chảy, tiếng lách tách của lửa, tiếng kêu của thú vật, những bài hát của chim chóc, tiếng nói của con người – tất cả âm thanh của vũ trụ – là âm vang của thần chú sáu chữ, âm thanh tự khởi của Pháp, vang lên nhưng trống không, tiếng vang dội của Pháp thân vô sanh. Qua trì tụng, thực hành yoga của ngữ kim cương, các bạn sẽ không khó khăn đạt được những thành tựu bình thường và tối cao.(49)

Tâm Kim Cương

33. Vì những tư tưởng và hai che chướng được bình lặng, kinh nghiệm và chứng ngộ tăng trưởng;

Vì những tri giác của bạn được điều ngự, những kẻ thù và những ảnh hưởng ngăn ngại bị khuất khục.

Chính Quán Thế Âm ngài ban cho những thành tựu bình thường và tối cao trong chỉ đời này;

Vì bốn hoạt động được thành tựu bởi tự chúng ; hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Không có một thực thể nào, của bất cứ loại nào, hiện hữu thực sự và thường tồn. Tất cả hiện tượng của sanh tử và niết bàn – ngay dù những hình tướng được thấy như hóa thần và những âm thanh được nghe như thần chú – đều là những phóng chiếu của tâm thức. Nếu các bạn tìm kiến bản chất của tâm, các bạn sẽ thấy như đã được nói trong Bát Nhã ba la mật :

Tâm,
Tâm không hiện hữu,
Sự biểu lộ của nó là tánh sáng tỏ.(50)

Cái chúng ta bình thường gọi là tâm là tâm mê vọng, một xoáy lốc ồn ào của những tư tưởng bị khuấy động bởi tham, sân và si. Tâm này, khác với tánh Giác giác ngộ, luôn luôn bị mang đi xa bởi một vọng tưởng này tiếp sau một vọng tưởng khác. Những tư tưởng ghét giận hay tham bám thình lình khởi lên không báo trước, bùng nổ bởi những hoàn cảnh như một cuộc gặp gỡ bất ngờ với một kẻ thù hay một người bạn, và trừ phi chúng tức thời bị hóa giải bằng một đối trị thích hợp, còn không chúng nhanh chóng bắt rễ và sinh sôi, làm mạnh thêm ưu thế thói quen của thương ghét trong tâm thức và càng gia thêm những khuôn khổ nghiệp báo.

Nhưng dù những tư tưởng ấy có vẻ mạnh mẽ thế nào, chúng cũng chỉ là những tư tưởng và cuối cùng tan biến trong tánh Không. Một khi các bạn nhận ra bản chất nội tại của tâm, những tư tưởng hình như khởi, diệt mọi lúc này không thể làm các bạn ngu muội nữa. Như những đám mây thành hình, tồn tại một lúc, và rồi tan biến vào bầu trời trống không, những vọng tưởng cũng thế, khởi lên, có mặt một lát và rồi tan mất trong tánh Không của tâm ; trong thực tế không có cái gì đã xảy ra cả.

Khi ánh sáng mặt trời chiếu vào một hòn pha lê, những ánh sáng của mọi màu sắc cầu vồng xuất hiện; tuy nhiên chúng không có bản chất gì cho các bạn có thể bám nắm. Cũng thế, tất cả tư tưởng trong sự đa tạp vô cùng của chúng – sùng mộ, bi mẫn, làm hại, tham muốn – rốt ráo đều không có bản chất, vô tự tánh. Đây là tâm của Quán Thế Âm. Không có tư tưởng nào khác tánh Không ; nếu các bạn nhận ra bản chất trống không của những tư tưởng ngay lúc chúng khởi lên, thì chúng sẽ tan biến. Tham luyến và căm ghét sẽ không bao giờ có thể quấy rối tâm thức. Những cảm thức hư vọng sẽ tự sụp đổ. Không có hành động xấu nào được tích tập nữa, thế nên không có khổ đau theo đó. Đây là đỉnh điểm của sự làm cho bình lặng, cái thứ nhất trong bốn hoạt động.

Nếu các bạn thực hành những yoga về thân, ngữ và tâm mà không làm mồi cho những tư tưởng, ở điểm này lòng bi của Quán Thế Âm và Phật tánh vốn sẵn của các bạn sẽ bắt đầu gặp gỡ và hòa làm một. Những kinh nghiệm thiền định sẽ tăng thêm, cùng với lòng sùng mộ và lòng bi, như những tia sáng mặt trời tăng thêm sức mạnh khi tập trung qua một cái gương tráng lệ. Đây là đỉnh điểm của sự tăng trưởng, hay tăng ích, hoạt động thứ hai.

Một khi các bạn thấy rằng tất cả hiện tượng của cả sanh tử lẫn niết bàn chỉ là những tạo tác của tâm thức và rằng bản tánh của tâm thức là trống không, bấy giờ chuyển hóa tri giác bất tịnh thành tri giác thanh tịnh không còn là một vấn đề – tất cả hiện tượng được phát hiện một cách đơn giản như là thanh tịnh bổn nhiên. Sự chứng ngộ này đem tới cho các bạn, một cách tổng quát, sự kiểm soát không giới hạn trên mọi hiện tượng và, một cách riêng biệt, mười năng lực của những bậc tối cao – năng lực trên vật chất, năng lực trên đời sống, năng lực trên nghiệp quả v.v...(51) Có nói rằng, “Bằng cách làm chủ tri giác của mình, người ta có thể làm chủ tất cả mọi hiện tượng.” Khi các bạn thoát khỏi năng lực của những vọng tưởng, các bạn sẽ có thể chuyển hóa các đại theo ý muốn và làm chủ kho tàng vô tận của bầu trời.(52) Trong một nạn đói kinh khủng ở Ấn Độ, đại sư Nagarjuna biến sắt thành vàng, với vàng này ngài không chỉ có thể nuôi sống toàn bộ tăng già qua khỏi nạn đói mà còn xây dựng được nhiều chùa mới.(53) Tất cả những phép lạ mà tám mươi bốn đại thành tựu giả biểu lộ quyền năng của các ngài trên những hình tướng có thể làm được là do sự chứng ngộ tánh Không và sự tự do khỏi mê vọng của các ngài. Cuối cùng đến sự làm chủ của chính giác ngộ – đỉnh điểm của năng lực, hoạt động thứ ba.

Một khi tâm mê vọng đã bị hàng phục, bấy giờ không có chỗ nào làm bến trú ẩn cho những quỷ thần tác hại hay những năng lực xấu ; và khi thân tâm các bạn thấm nhuần Bồ đề tâm, cái mà trước kia các bạn có thể tri giác như là những lực lượng tà ma và gây ngăn ngại bấy giờ các bạn sẽ thấy chúng như những biểu hiện của thầy các bạn, qua chúng các bạn có thể làm mạnh thêm từ và bi. Theo cách này, khổ đau biến mất, và các bạn sử dụng những lực lượng tiêu cực, xấu ác, những chướng ngại và những khó khăn để tiến bộ trong sự thực hành của các bạn. Đây là đỉnh điểm của hàng phục, hoạt động thứ tư.

Qua sự thực hành giai đoạn phát triển – quán tưởng Quán Thế Âm và trì tụng thần chú của ngài – các bạn nhận biết trí huệ của ngài. Từ tia lửa của sự nhận biết này, trí huệ lớn lên như một ngọn lửa lan qua một rừng cây khô. Đây là tinh túy của giai đoạn thành tựu. Qua sự thực hành này, tâm thức được thuần hóa và bốn hoạt động được thành tựu tự chúng một cách tự nhiên. Những che chướng và tà hạnh, bệnh tật và khổ đau được bình lặng; thọ mạng, công đức, thịnh vượng và trí huệ tăng trưởng; người ta, những tư tưởng và những năng lực bên trong được thuộc về dưới quyền năng của các bạn mà không có tranh đấu; và mọi lực lượng tiêu cực, những thù địch, những chướng ngại, và những ma quỷ bên trong – những thức tình – được hàng phục.

Sau thiền định

Để kinh nghiệm đầy đủ ý nghĩa sâu xa của Kim Cương thừa, điều quan trọng là duy trì sự thực hành trong mọi lúc, không chỉ trong những thời thiền định cụ thể. Thực hành cho những thời thiền định và thực hành cho những thời kỳ giữa những thời thiền định phải được xem là không tách biệt nhau. Mục đích của bản thân thực hành thiền định, như chúng ta đã thấy, là có được sự vững chắc trong cái tri giác tất cả hình tướng như là hình thể của hóa thần bổn tôn, tất cả âm thanh là thần chú của ngài, và tất cả tư tưởng tức là Pháp thân, như thế nhận biết bản tánh tuyệt đối của tâm thức, trống không và sáng rỡ. Bây giờ, trong những thời kỳ giữa các thời thiền định, bất cứ các bạn làm điều gì các bạn phải hộ trì, giữ gìn cái nhận biết này mà không rơi trở lại vào những thói quen bình thường cũ, đến mức các bạn có thể khai triển sự thấu hiểu đã có được trong khi thiền định. Trong cách này, tất cả mọi hoạt động của các bạn sẽ nối kết, tương ưng với cái thấy, thiền định và hành động của Kim Cương thừa.

34. Hãy cúng torma của bất cứ cái gì khởi lên cho những vị khách của sự vốn-tự-giải-thoát;

Hãy nặn đất sét của bất cứ cái gì xuất hiện thành tsa-tsa của hình tướng chân không;

Hãy cúng sự lễ lạy của bất nhị đến Bậc của Bản Tánh Tâm.

Hoàn thành những Pháp sự này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Giữa những thời thiền định, hãy bảo đảm rằng bất cứ việc gì bạn làm cũng đều hài hòa với Pháp. Điều này sẽ giúp làm sâu thêm cái hiểu của bạn về cái thấy. Nếu, khi các bạn vừa chấm dứt thiền định và bắt đầu một việc khác, các bạn lại để cho những tư tưởng của mình sinh sôi cho đến khi các bạn hoàn toàn bị tách lìa xa do vọng tưởng, sự thiền định của các bạn sẽ không tiến bộ và các bạn sẽ thấy mình thường xuyên chiến đấu với đủ mọi loại chướng ngại – hôn trầm nặng nề hay phóng dật điên cuồng, chẳng hạn. Thế nên bất cứ khi nào rỗi rãnh, hãy lễ lạy, đi nhiễu quanh các chốn thiêng liêng, cúng dường torma, hay nặn tsa-tsa ; tóm tắt, chỉ làm cái gì thực sự có ý nghĩa.

Những nghi lễ cúng dường torma(54) được dâng cúng đến bốn loại người nhận, thường được biết như những “vị khách”: những người đáng tôn kính, Tam Bảo và những hộ pháp; và những người cần đến lòng bi của các bạn, tất cả chúng sanh và những ma quỷ mà các bạn mắc nợ nghiệp với họ. Dâng cúng những torma một cách thích đáng, ban phước cho chúng với dharani và thần chú, sẽ đem lại lợi lạc không cùng. Cũng có những giáo huấn về dâng cúng những torma bằng nước. Một torma dâng cúng cho Tam Bảo sẽ hoàn thành hai sự tích tập; dâng cúng cho các hộ pháp làm họ hài lòng và khiến họ hành động ; dâng cúng cho tất cả chúng sanh sẽ làm nhẹ những khổ đau đủ loại của họ và làm giảm đói khát của những ma quỷ; và dâng cúng cho những chủ nợ nghiệp của chúng ta sẽ trả những món nợ chúng ta đã mắc trong tất cả những đời quá khứ, giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật, ảnh hưởng xấu ác, và những ngăn chướng đủ loại.

Một tsa-tsa là một tháp (stupa)(55) nhỏ thường được nặn từ đất sét, nó tượng trưng cho phương diện tuyệt đối của tâm một đức Phật, Pháp thân. Pandita Atisha vĩ đại thường làm ba tsa-tsa mỗi ngày bằng chính đôi tay mình, và ngài xem đó là một hoạt động rất lợi lạc. Nếu các bạn không có thì giờ để làm những tsa-tsa bằng đất sét, có những giáo huấn về cách làm chúng bằng cách dùng bốn đại đất, nước, lửa và không khí. Cúng dường những tsa-tsa là một cách khác để hoàn thành hai sự tích tập.

Nếu các bạn không thể làm những cúng dường bằng vật chất, các bạn luôn luôn có thể dâng cúng bằng tâm tưởng mọi vẻ đẹp của vũ trụ, mặt trời mặt trăng, hoa, hương, tiếng chim hót ; và thay vì dâng cúng một torma vật chất, khi thấu hiểu tâm tức là Quán Thế Âm, hãy quán tưởng thân các bạn như là cam lồ trí huệ thanh tịnh và dâng cúng nó cho bốn loại khách đã nói ở trên.

Hoặc nếu Quán Thế Âm là hóa thần bổn tôn mà các bạn dâng cúng, chủ đề của sự thiền định của các bạn, hay tiêu điểm cho những sự lễ lạy và sùng mộ của các bạn, lợi lạc vô cùng sẽ sanh ra từ đó. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, tất cả hiện tượng là những phóng chiếu của tâm; người dâng cúng, hóa thần bổn tôn được dâng cúng và bản thân những dâng cúng không cách nào hiện hữu như những thực thể cụ thể. Thế nên khi một đại Bồ tát thực hành rộng lượng và những ba la mật khác, ngài biết rằng tất cả những hoạt động này không thực hơn một ảo ảnh huyễn thuật hay một giấc mộng. Ngài làm những dâng cúng bao la và tích tập vô biên công đức, nhưng trong tất cả thời gian ngài hoàn toàn thoát khỏi luyến chấp, kiêu căng và kẻ cả.

35. Hãy đánh bại kẻ thù của con, sự thù ghét, với vũ khí của từ;

Hãy bảo vệ gia đình của con, chúng sanh trong sáu cõi, với phương tiện thiện xảo của bi;

Hãy gặt hái từ cánh đồng sùng mộ vụ mùa của kinh nghiệm và chứng ngộ.

Hoàn thành công việc của đời con, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Theo những giá trị bình thường, đánh bại những kẻ thù của các bạn, bảo vệ gia đình các bạn và thêm giàu có, thịnh vượng là cái tạo thành một cuộc đời thỏa mãn và suông sẻ. Nhưng là những Phật tử, chúng ta cần cố gắng đánh bại sự hiếu chiến của chính chúng ta hơn là những kẻ thù của chúng ta, chăm sóc sự nhẫn nhục của chính chúng ta hơn là gia đình của chúng ta, và đầu tư nhiều cho lòng bi và lòng từ hơn là sự thịnh vượng vật chất.

Có nói rằng không có xấu ác nào hơn thù ghét và không có đức hạnh nào hơn nhẫn nhục. Trong khi chỉ một khoảnh khắc sân giận sẽ hủy hoại vô số kiếp của công đức và dẫn đến khổ đau đăng đẳng trong những địa ngục, thì nhẫn nhục đối với những người làm hại các bạn và mong muốn thật lòng đưa lại cho họ hạnh phúc sẽ đưa các bạn đi nhanh chóng trên con đường của tất cả chư Phật.

Không có đường lối tốt đẹp nào để đối xử với những kẻ thù hơn là cảm thấy tình thương bao la cho họ, nhận chân rằng trong những đời trước họ đã từng là cha mẹ các bạn. Không có cách thức tốt đẹp nào để nuôi dưỡng gia đình các bạn và chăm sóc cho những người khác hơn là thực hành Pháp và hồi hướng cho tất cả chúng sanh công đức các bạn có được từ đó. Không có mùa gặt tốt đẹp hay dồi dào nào hơn vụ mùa các bạn gieo trong đất của niềm tin và tinh tấn để nó chín thành sự giàu có của công đức và trí huệ.

“Cái xấu ác chỉ bị hàng phục bởi lòng bi,” có câu nói như thế. Thế nên, đối mặt với mọi khó khăn của thế giới này, hãy trì tụng mani, cầu nguyện rằng tất cả những chúng sanh người và chẳng-phải-người bị chìm ngập bởi thù ghét, chỉ muốn làm hại, giết chóc và hủy diệt, đều được lòng bi chạm đến và làm nảy sinh tư tưởng cao cả giác ngộ.

Năng lực của tình thường chinh phục sự hiếu chiến được đức Phật biểu lộ trong lần gặp gỡ với Ma vương. Trong đêm trước khi giác ngộ, đức Phật ngồi trên tòa Kim Cương dưới một cội cây bồ đề ở Ấn Độ, những đoàn binh ma quỷ của Ma vương bao quanh ngài như một đám mây đen khổng lồ. Điên cưồng bởi ác tâm và ghen ghét, chúng gào lên những mắng chửi và phóng ra những vũ khí, nhưng đức Phật vẫn thanh thản và tràn đầy với lòng từ đến độ những chửi rủa của chúng biến thành những âm điệu du dương và những vũ khí độc hại phóng đến biến thành một cơn mưa hoa. Với vũ khí của lòng từ, các bạn sẽ luôn luôn có thể chiến thắng ác tâm, và việc đối diện với sự thù ghét và gây hấn chỉ làm tăng thêm Bồ đề tâm của các bạn.

Tốt lòng có nghĩa là thường trực nghĩ đến việc kỳ diệu biết bao nếu người ta được thoát khỏi khổ đau và hưởng thụ được hạnh phúc. Nó cũng có nghĩa là hiến dâng cả lời nói và hành động để nỗ lực làm cho đều ấy thực sự xảy ra. Một lần, khi đức Atisha vinh quang đang đau đớn vì một bàn tay của ngài, ngài đặt nó vào lòng Dromtošnpa và nói, “Hãy ban phước cho bàn tay tôi – ông rất tốt lòng, và điều đó tự thân nó đã đủ để làm hết cơn đau.”

Có vô số chúng sanh đang lang thang trong sanh tử, hoàn toàn lạc lõng và hết sức cần đến sự giúp đỡ của các bạn. Bởi vì tất cả họ đã từng là cha mẹ từ ái của các bạn một thời này hay thời khác trong quá khứ, các bạn phải giúp đỡ họ. Nhưng làm thế nào ? Dù nếu các bạn có thể cung cấp cho tất cả họ tiền bạc và tiện nghi, điều ấy chỉ đem đến cho họ một sự trì hỗn bất toàn và ngắn ngủi đối với khổ đau của họ. Hãy suy nghĩ sâu xa; trong tất cả những cách thức có thể được để giúp đỡ họ, không có sự trao cho nào lợi lạc hơn sự trao cho Pháp, bởi vì đó là một cái gì không chỉ giúp đỡ họ trong đời này mà còn giải cứu họ khỏi những tái sanh tương lai trong những cõi thấp và cuối cùng đưa họ đến giác ngộ.

Con số chúng sanh các bạn bao gồm trong những ý định tốt của các bạn càng nhiều, công đức càng lớn. Nếu, trong bất cứ chuyện gì các bạn làm, các bạn mong mỏi hoàn thành sự lợi lạc trong hiện tại và an vui tối hậu của tất cả chúng sanh, theo gương Quán Thế Âm, bấy giờ điều này có thể thực sự được gọi là “hoàn thành công việc của đời các bạn.”

36. Hãy thiêu cái xác cũ kỹ này của sự bám chấp cho là thật vào những sự vật trong ngọn lửa của không bám vướng;

Hãy cử hành những lễ thất của cuộc đời bình thường bằng cách thực hành tinh túy của Pháp;

Như khói hương cúng cho người đã khuất, hãy hồi hướng công đức tích tập được của con cho tất cả đời kiếp tương lai của họ.

Hoàn thành mọi hoạt động tốt cho người quá cố, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Ở Tây Tạng, khi có người nào chết, lệ thường là hỏa thiêu thân xác và cử hành những buổi lễ mỗi tuần trong bảy tuần, cúng cho người mới chết. Tuy nhiên, là một hành giả, điều lợi lạc nhất các bạn có thể làm khi có ai đó chết là thiền định về nghĩa tinh yếu của Pháp và hồi hướng công đức cho người quá cố.

Ý nghĩa tinh yếu này, tâm yếu của Pháp, là sự vô tự tánh trong mọi sự. Cây sanh tử bắt rễ trong niềm tin rằng có một cái ngã, trong sự bám níu vào những sự vật như chúng là thật, trong chấp ngã ; một khi sự bám chấp này bị thiêu hủy bởi ngọn lửa trí huệ, toàn thể cây và tất cả nhánh mê lầm của nó, um tùm với tán lá của thương và ghét, phải cháy tiêu.

Không có cái hiểu này, thực hiện những nghi lễ chỉ vì tiền bạc hay phô trương sẽ chỉ làm trì hỗn sự thực hành của các bạn và cuối cùng có thể trở thành một chướng ngại trầm trọng. Thấu hiểu rằng thịnh vượng và quyền thế rốt ráo là những mục tiêu trống rỗng, hãy giữ một đường lối sống không khuyết điểm, hoàn toàn hiến mình cho sự thực hành. Hãy không bám chấp cuộc đời này hơn là bám níu một xác chết. Cuộc đời thì mong manh, một bong bóng nước có thể bể tan bất cứ lúc nào – không làm sao để biết chắc điều gì sẽ đến trước tiên, buổi sáng ngày mai hay cái chết. Thật vậy, mỗi lần các bạn thở ra, không bảo đảm tí nào các bạn sẽ thở vào trở lại.

Cũng như những buỗi lễ cho người chết được tuân thủ đều đặn mỗi tuần trong suốt thời kỳ tang, có hai thực hành cần tuân thủ đều đặn mỗi sáng và mỗi chiều của cuộc đời các bạn. Mỗi sáng, hãy phát sanh Bồ đề tâm và cầu nguyện rằng suốt ngày các bạn sẽ không bao giờ quên nghĩ đến sự lợi lạc của những người khác. Mỗi chiều tối, hãy nhớ lại tất cả những gì các bạn đã nghĩ và đã làm trong ngày và xác định chúng được điều động bao nhiêu bởi lòng bi và bao nhiêu bởi tính chấp ngã; quan trọng là phải nhìn vào thái độ và ý định vi tế nhất trước khi quyết định điều bạn nên hay không nên làm. Chớ bao giờ nghĩ rằng chuyện nhỏ nào đó là vô nghĩa bởi vì nó quá nhỏ nhặt, vì một hành động xấu nhỏ nhất có thể bắt đầu cho một chuỗi hậu quả tai hại, cũng như một tia lửa cỏn con có thể thiêu rụi cả một rừng cây. Ngược lại, cũng như nước nhỏ giọt làm đầy nhanh chóng một cái lu lớn, khi một hành động tốt dù nhỏ được thêm vào cho nhiều cái khác thì hậu quả tích tập được sớm trở thành đáng kể. Rõ biết những sơ sót của các bạn theo cách này, và hối tiếc chúng một cách chân thành, từ nay trở đi hãy quyết định trừ khử những tư tưởng và hành động quy ngã; và đồng thời hồi hướng công đức của những hành động tốt của các bạn cho tất cả chúng sanh, quyết tâm phát triển càng lúc càng nhiều lòng bi. Qua tiến trình này của sự tỉnh giác thường trực và đánh giá phê phán những hành động của các bạn, chúng sẽ dần dần trở nên càng ngày càng tốt, càng tích cực.

Một hiền triết vĩ đại thời trước, ngài Drakhen thông tuệ, cảm thấy quyết tâm giải thoát mình khỏi khuyết điểm, đã tập cho mình thói quen đặt một hạt đậu đen một bên cho mỗi tư tưởng xấu đã có trong ngày và một hạt trắng cho mỗi tư tưởng tốt một bên. Cuối ngày, ngài đếm lại có bao nhiêu hạt đen và bao nhiêu hạt trắng đã gom được. Ban đầu, những hạt đậu đều đen ; nhưng sau một thời gian, qua sự cẩn trọng thường trực, ngài bắt đầu chấm dứt mỗi ngày với hai đống hạt trắng và đen ngang nhau. Cuối cùng, khi ngài đã tu hành triệt để tâm thức, chỉ còn có hạt trắng. Giống như ngài, các bạn cần kiên trì cho đến lúc không có một hành động nào là trái ngược với những giáo lý. Chớ bao giờ quên rằng tịnh hóa chính các bạn theo lối này là quan trọng để giữ gìn ý định giúp đỡ tất cả chúng sanh.

Nếu chúng ta kiên trì đủ lâu, chúng ta có thể học làm bất cứ điều gì. Một lần một người giàu có đến yết kiến đức Phật, khổ sở vì tính keo kiệt không thể cho đi cả một vật gì nhỏ nhất. Để làm ông ta quen với sự rộng lượng, Phật dạy ông ta xem bàn tay phải như chính mình còn bàn tay trái như người nào khác, và nghĩ rằng ông ta đang cho những tặng vật khi chuyển những vật nhỏ từ tay phải sang tay trái. Khi người keo kiệt ấy đã dần dần quen với ý nghĩ bố thí theo cách này, đức Phật nói với ông cho những món quà nhỏ, như trái cây, hạt… với vợ và con mình. Rồi Phật nói với ông làm việc từ thiện, bắt đầu cho những người nghèo nhất ở lân cận và rồi đến những người khác xa hơn. Cuối cùng, ông ta trở nên có thể cho đi tất cả của cải, áo quần, lương thực cho những người nghèo của toàn vùng, và đến lúc này Phật nói với ông rằng ông đã thành tựu sự rộng lượng chân thật.

Cách huấn luyện như vậy có thể được áp dụng để phát triển hay tiêu trừ mọi loại ý nghĩ tốt hay xấu. Chẳng hạn sùng mộ có thể được trau dồi theo cách ấy cho đến khi, tâm thức các bạn chỉ tràn đầy ý nghĩ về thầy các bạn, các bạn tự nhiên cảm thấy rằng bất kỳ điều gì xảy ra đều hoàn toàn do tay ngài. Ngay cả chỉ nhớ đến sự hiện diện của ngài – giọng nói, những cử chỉ – các bạn cũng đã chảy nước mắt. Khi sự sùng mộ chân thật này khởi lên, hãy nhìn vào nó và nhận ra bản tánh bổn nhiên của tâm thức, không có hình thể và tính chất nào.

37. Hãy đặt đứa con của con, sự sùng mộ, ở cánh cổng của sự thực hành của con;

Hãy đưa con trai của con, sự buông bỏ, lên làm chủ gia đình của cuộc sống bình thường;

Hãy gả con gái của con, lòng bi, cho chú rể của ba cõi.

Hoàn thành bổn phận của con với đời sống, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Người bình thường cố gắng nuôi nấng con cái của họ ở mức tốt nhất họ có thể. Họ tìm những cuộc cưới gả tốt đẹp cho chúng, chuyển giao sự thịnh vượng và tài sản gia đình họ cho chúng, và chỉ bày cho chúng làm sao chăm nom thân thuộc bạn bè của chúng và đánh bại những đối thủ của chúng, như tổ tiên chúng đã làm qua những thế hệ. Nhưng sự thành công mà cha mẹ luôn luôn muốn cho con cái chỉ là tạm thời và cuối cùng tỏ ra tai hại. Là một người thực hành Pháp, điều các bạn tốt hơn nên mong muốn là đứa con của lòng sùng mộ không gì lay chuyển được sanh ra trong lòng các bạn và quản lý thành công gia đình của sự thực hành của các bạn.

Nỗi sợ quê hương của họ bị cằn cỗi và dòng dõi gia đình của họ bị dừng tắt khiến nhiều người có con và gả cưới chúng càng sớm càng tốt. Là một người thực hành Pháp, chính vì sợ rằng sự thực hành của các bạn sẽ chết mất và cuộc đời các bạn sẽ hoang phí khiến các bạn sanh ra đứa con của sự buông bỏ trong tâm thức, đến độ nó có thể đảm đương quyền hành ông chủ gia đình của đời sống bình thường. Buông bỏ được sanh ra khi các bạn biết rằng rốt ráo không có sự thỏa mãn nào trong đời sống sanh tử. Bởi vì những niềm vui bình thường chỉ là những giấc mộng ngắn ngủi, không có lý do gì để mong mỏi thành công hay lo sợ thất bại. Nếu các bạn có thành giàu có, không có lý do gì để cảm thấy tham đắm hay kiêu căng; đơn giản hãy sử dụng sự thịnh vượng của các bạn một cách tích cực và có ý nghĩa. Bất cứ quyền hành nào các bạn có, hãy dùng nó để phụng sự Tam Bảo và những vị thầy vĩ đại, và bất cứ đất đai nào các bạn sở hữu, hãy biến nó thành ích dụng cho Tăng ; tóm tắt, bất cứ cái gì bạn thu hoạch được, hãy dùng nó để bảo tồn Pháp và làm lợi lạc cho những người khác. Được sử dụng theo cách này, sự thịnh vượng và thế lực như mộng của các bạn sẽ đem lại cho các bạn càng ngày càng nhiều công đức như mộng hơn, cái này đến lượt nó sẽ đem các bạn càng ngày càng gần với ngưỡng cửa của giác ngộ như mộng.

Các bậc cha mẹ thường muốn những con gái của họ được lấy người nào gia đình tốt đẹp, giàu có và địa vị. Tương tự, từ lòng từ ái bao la cho chúng sanh, các bạn nên gả đứa con của những công đức tích tập được cho chú rể phúc lợi của những người khác một cách không ngần ngại. Nếu các bạn có thái độ quý báu của Bồ đề tâm, các bạn không thể làm gì khác ngoài việc sống một cuộc đời thực sự có ý nghĩa; thế nên hãy làm mạnh mẽ mọi hoạt động của các bạn bằng lòng bi, tịnh hóa những nhiễm ô, hồi hướng công đức của các bạn cho tất cả chúng sanh và trì tụng thần chú sáu chữ.

 

GIAI ĐOẠN THÀNH TỰU

Bản tánh của Tâm thức

38. Bất cứ cái gì xuất hiện đều là vọng tưởng và không có hiện hữu thật sự;

Sanh tử và niết bàn chỉ là những tư tưởng và không gì khác hơn.
Nếu con có thể giải thoát những tư tưởng ngay khi chúng vừa khởi lên, điều ấy bao gồm mọi giai đoạn của con đường;

Áp dụng yếu chỉ cho việc giải thoát những tư tưởng, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Bây giờ chúng ta đi đến những lời dạy về một trong những thực hành thuộc về Đại Toàn Thiện: sự thực hành của giai đoạn thành tựu, siêu việt khỏi mọi thứ ý niệm hóa bất kỳ nào.

Kinh Samadhiraja nói, “Chúng ta cần hiểu rằng, trong thật địa vô sanh, không có cái gì trong mọi thứ chúng ta tri giác – thân thể chúng ta, nhà cửa, xe cộ v.v... – có một hiện hữu thật sự nào.” Nếu các bạn khảo sát kỹ càng bất kỳ sự vật gì, các bạn sẽ không thể tìm ra một điểm nào nơi ấy nó được sanh ra, có một điểm nào nơi ấy nó tiếp tục hiện hữu, hay có một điểm nào nơi ấy nó ngừng hiện hữu. Đấy chỉ vì sự kiện liên kết thoáng chốc của một chuỗi những nhân và những duyên mà một hiện tượng riêng biệt khởi ra, giống như sự kết hợp của những tia sáng mặt trời và một cơn mưa rào mùa hè tạo thành một mống cầu vồng. Nếu các bạn có thể khai triển sự xác tín toàn triệt rằng toàn bộ trò phô diễn không ngừng của những hình tướng huyễn hóa là trống không trong bản chất, điều này tự nó là giai đoạn thành tựu tối hậu.

Chúng ta, những chúng sanh bình thường, đã bị thuyết phục rằng tất cả hiện tượng của cả sanh tử lẫn niết bàn trước tiên có sanh ra, rồi hiện hữu theo cách nào đó một thời gian, và cuối cùng thôi hiện hữu. Nhưng nếu chúng ta theo đuổi một nghiệm xét triệt để những sự vật, dùng lý luận của Trung Đạo, chúng ta không tìm thấy một phần tử nhỏ nhất nào của hiện hữu trong những hiện tượng ấy. Một khi chúng ta hiểu ra điều đó, thật dễ dàng buông bỏ sanh tử và thoát khỏi sự hấp dẫn của niết bàn, vì cả hai không gì khác hơn là những phóng tưởng của tâm thức nhị nguyên. Thấy bằng con mắt của một vị Phật, thì ngay cả sự tích tập công đức và thực hành sáu ba la mật đều không có bất kỳ thực thể nội tại nào, chúng vô tự tánh.

Dầu chúng ta có thích tin bao nhiêu rằng những sự vật là thường hằng, chúng cũng không là như vậy. Niềm vui hôm qua chuyển thành nỗi buồn hôm nay, nước mắt hôm nay trở thành nụ cười ngày mai. Vì những nhân và duyên khác nhau của chúng tác động, những thức tình, hành động tốt và xấu, sướng và khổ, tất cả có vẻ như thành hình. Tuy nhiên một người giác ngộ khi nhìn vào thế giới của ảo tưởng, nó có vẻ rất thật với chúng ta, người ấy thấy nó không có bản chất nào hơn một ảo ảnh hay một vương quốc chinh phục được trong giấc mộng đêm qua. Chính vì chúng ta tin quá mạnh mẽ vào sự hiện hữu có thực và hiển nhiên của thế giới vật chất mà chúng ta cảm thấy sự hấp dẫn và ghét bỏ với những sự vật. Không có sự mê tín này, tâm thức chúng ta sẽ không lệ thuộc vào mọi thứ vọng tưởng ấy và cũng không có cái gì là sanh tử nào cả.

Tâm thức bình thường thì thất thường như một con khỉ không chịu yên, phút chốc vui vẻ khi chúng ta vừa cho nó một miếng đồ ăn và thình lình nổi điên ngay khi chúng ta dơ cây gậy về phía nó. Mỗi khoảnh khắc, tâm thức chuyển vào một cái gì mới. Một giây phút chúng ta có thể nghĩ về guru với sự sùng mộ lớn lao, giây phút sau chúng ta khát khao một đối tượng gì ham thích. Những liên tục của tư tưởng và trạng thái tâm thức này thường hằng thay đổi, như những hình thể của những đám mây trong gió, nhưng chúng ta lại gán cho chúng một sự quan trọng lớn lao. Một người già xem những đứa trẻ đang chơi biết rất rõ rằng cái gì đang diễn tiến thì không quan trọng chút nào và không cảm thấy phấn chấn hay đảo lộn với những gì xảy ra trong trò chơi của chúng. Tuy nhiên, những đứa trẻ thì cho đó là rất nghiêm trọng. Giống như chúng, khi nào chúng ta trải nghiệm khổ đau, thay vì thấy nó như là kết quả như mộng của những hành động xấu trong quá khứ của chúng ta và biến nó thành một dịp may để đảm nhận sự khổ đau của những người khác trên chính chúng ta, chúng ta lại cảm thấy đảo lộn và chán chường. Chúng ta tự nhủ rằng, là một người đã từng thực hành nhiều như thế, chúng ta thực sự không đáng bị những khốn khổ như vậy, và chúng ta bắt đầu cảm thấy hoài nghi về những ân sủng của thầy chúng ta và Tam Bảo. Một thái độ như vậy chỉ làm tăng thêm những khó khăn cho chúng ta.

Tâm thức là cái tạo ra cả sanh tử lẫn niết bàn. Tuy nhiên không có gì cả trong ấy – nó chỉ là những tư tưởng. Một khi các bạn nhận ra những tư tưởng là trống không, tâm thức sẽ không có quyền lực làm huyễn hoặc các bạn được nữa. Nhưng chừng nào các bạn còn cho những tư tưởng hư vọng ấy là thật, chúng còn tiếp tục hành hạ các bạn một cách không thương xót, như chúng đã từng làm suốt vô số đời quá khứ. Để chiếm hữu được sự kiểm soát trên tâm thức, các bạn cần biết điều cần làm và điều cần tránh, và các bạn cũng cần rất cảnh giác và thận trọng, thường trực xem xét những tư tưởng, lời nói và hành động của các bạn.

Tâm thức ở trọ trong thân thể như một người du khách trong một căn nhà. Bất cứ điều gì thân thể gặp gỡ, chính là tâm thức thấy, nghe, ngửi, nếm, hay cảm giác nó. Một khi tâm thức ra đi, thân thể chỉ là một cái xác. Nó chẳng để ý cái trước mặt là đẹp hay xấu. Nó chẳng để ý nó được tán dương hay sỉ nhục. Nó không cảm thấy thích thú nào khi được bọc trong quần áo thêu thùa, không đớn đau nào khi bị đốt cháy. Tự nó, thân thể là một vật không khác gì với một cục đất hay đá. Và khi thân thể và tâm thức lìa nhau, lời nói, là một thứ gì giữa hai cái đó, cũng biến mất, như một tiếng vang tan biến. Đối với thân, ngữ và tâm thức, tâm thức mới là cái đáng kể, và chính cho tâm thức mà Pháp phải được áp dụng.

Khi các bạn nhận biết bản chất trống không của tâm thức, bám chấp rơi rụng và các bạn không còn bị những tư tưởng hư vọng của các bạn cho vào tròng. Khi một Bồ tát giúp đỡ những người khác, ngài không có ý niệm nào nhận trở lại một cái gì, hay được ca ngợi vì sự rộng lượng của ngài ; ngài không có một bám chấp nào vào đức hạnh của ngài. Đây là Quán Thế Âm tuyệt đối, tự thân lòng bi và tánh Không.

39. Tự tâm của con, tỏ biết và trống không không tách lìa,là Pháp thân.
Hãy để mọi sự như nó là trong tánh giản dị nền tảng, và sáng tỏ sẽ tự khởi hiện.

Chỉ có không làm gì cả con sẽ làm tất cả những việc cần làm;

Để cho mọi sự trong tánh Giác trống không trần trụi, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Sẽ không hay khi tìm kiếm đâu đó bên ngoài các bạn bản tánh tối hậu của tâm – nó ở bên trong. Khi chúng ta nói đến “tâm”, điều quan trọng là biết chúng ta đang nói về cái tâm bình thường, nghĩa là vô số chuỗi tư tưởng tạo ra và duy trì trạng thái mê lầm của chúng ta, hay như ở đây, về bản tánh của tâm ở tận nguồn của mọi tư tưởng ấy – trạng thái trong sáng, trống không của tánh giác hoàn toàn thoát khỏi mọi mê lầm.

Để minh họa sự phân biệt này, đức Phật dạy rằng có hai cách để thiền định – giống như con chó và giống như con sư tử. Nếu các bạn liệng một cây gậy vào một con chó, nó sẽ đuổi theo cây gậy; nhưng nếu các bạn liệng một cây gậy vào một con sư tử, con sư tử sẽ đuổi theo các bạn. Các bạn có thể liệng nhiều cây gậy như mình muốn vào một con chó, nhưng chỉ một cây gậy vào con sư tử. Khi các bạn hoàn toàn bị quấy rối bởi những tư tưởng, lần lượt chạy theo mỗi tư tưởng với cái đối trị của nó là một công việc không cùng. Đấy cũng giống như con chó. Tốt hơn là giống như con sư tử, nhìn vào nguồn gốc của những tư tưởng này, tánh giác trống không, trên bề mặt của nó những tư tưởng chuyển động như những đợt sóng lăn tăn trên mặt hồ, nhưng chiều sâu của nó là trạng thái bất biến của sự đơn giản tối hậu. Ở yên trong sự tương tục không lay chuyển của trạng thái này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Bốn Yoga

Con đường Phật giáo có thể được diễn tả bao quát theo hai hệ thống: nhân thừa và quả thừa. Nhân thừa bao gồm cả Tiểu thừa và Đại thừa tổng quát, nói đến năm con đường ; còn quả thừa tức là Mật thừa, nói đến bốn yoga: nhất niệm, đơn giản, một vị và không thiền định.(56) Giáo lý bốn yoga nhắm vào sự hợp nhất của giai đoạn phát triển và giai đoạn thành tựu.

Nhất niệm

40. Hãy để tĩnh lặng cắt đứt đà của những tư tưởng chuyển động ;
Trong chuyển động thấy thật tánh của tĩnh lặng.
Nơi tĩnh lặng và chuyển động là một, hãy hộ trì tâm tự nhiên ;
Trong kinh nghiệm của nhất niệm, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tâm thức nói chung có hai phương diện, tĩnh lặng và chuyển động. Đôi khi tâm thức thì yên tĩnh và thoát khỏi những tư tưởng, giống như một cái ao yên bình ; đây là tĩnh lặng. Thỉnh thoảng, những tư tưởng phải khởi lên trong đó; đây là chuyển động. Thật ra, dù trong một ý nghĩa, có một chuyển động của những tư tưởng ở trong sự tĩnh lặng, nhưng thật sự không có sự khác biệt giữa hai trạng thái này – bản tánh của tĩnh lặng nguyên là tánh Không, bản tánh của chuyển động cũng nguyên là tánh Không. Tĩnh lặng và chuyển động chỉ là hai tên gọi của chỉ một tâm.

Phần lớn thời gian chúng ta không tỉnh giác về trạng thái của tâm thức của mình và không chú ý tâm thức là tĩnh lặng hay chuyển động. Trong khi các bạn đang thiền định, một tư tưởng có thể khởi lên trong tâm các bạn – chẳng hạn ý nghĩ đi siêu thị mua đồ. Nếu các bạn tỉnh giác với tư tưởng và ngay đó để nó tự tan biến, bấy giờ đó chính là sự chấm dứt của nó. Nhưng nếu các bạn vẫn không tỉnh giác với cái đang xảy ra và để tư tưởng ấy lớn lên và phát triển, nó sẽ dẫn đến một tư tưởng thứ hai, làm bạn lìa khỏi sự thực hành của các bạn, và rất nhanh các bạn sẽ thấy mình thật sự đứng dậy và đi ra đến chợ. Rồi nhiều tư tưởng và ý niệm nữa sẽ khởi lên – làm sao mua cái này, bán cái nọ... – Đến điểm này các bạn đã rất xa khỏi sự trì tụng mani.

Thật hoàn toàn tự nhiên khi những tư tưởng cứ khởi. Vấn đề không phải là cố gắng dừng chúng lại, không thể nào làm thế, mà là giải thoát chúng. Điều này được làm bằng cách an trụ trong một trạng thái của sự đơn giản, nó để cho những tư tưởng khởi lên và lại biến mất mà không xâu thêm vào chuỗi những tư tưởng nào khác. Khi các bạn không kéo dài nữa chuyển động của những tư tưởng, chúng tự tan mất không để lại dấu vết. Khi các bạn không làm hư hỏng trạng thái của tĩnh lặng bằng những tạo tác của trí óc, các bạn có thể duy trì sự thanh tĩnh tự nhiên của tâm thức không phải có cố gắng nào. Đôi khi, hãy để cho những tư tưởng của các bạn trôi chảy, và trông chừng bản tánh bất biến ở dưới chúng. Đôi khi, thình lình cắt đứt dòng tư tưởng, hãy nhìn vào tánh giác trần truồng.

Vô số tư tưởng và ký ức, bị kích thích bởi những khuynh hướng chúng ta đã quen thuộc, khởi lên trong tâm thức. Cái này nối tiếp sau cái kia, mỗi tư tưởng có vẻ biến mất vào quá khứ, chỉ để được thay thế bằng cái tiếp theo, đến lượt cái này trở thành hiện tại thoáng qua cho tâm thức trước khi chính nó nhường chỗ cho những tư tưởng tương lai. Mỗi tư tưởng có khuynh hướng bị lây nhiễm bởi cái đà chuyển động của một tư tưởng trước nó, đến độ ảnh hưởng của một chuỗi tư tưởng lớn lên theo thời gian; điều này được gọi là “sợi dây xích của mê lầm.” Như cái chúng ta gọi là một tràng hạt thật ra là một chuỗi của những hạt đơn lẻ, cũng thế cái chúng ta thường gọi là tâm chỉ là một tiếp nối của những tư tưởng nhất thời; một chuỗi tư tưởng tạo thành dòng của tâm thức, và dòng tâm thức dẫn đến đại dương của hiện hữu. Sự tin tưởng của chúng ta rằng tâm thức là một thực thể là một kết luận được đặt nền trên một thẩm xét không đầy đủ. Chúng ta tin một dòng sông chúng ta thấy hôm nay cũng vẫn là một dòng sông chúng ta thấy hôm qua, nhưng trong thật tế một dòng sông không bao giờ ở nguyên dạng dù chỉ một giây – nước làm nên con sông hôm qua chắc hẳn đã là một phần của đại dương bây giờ. Điều tương tự cũng đúng với vô số tư tưởng chạy qua “tâm” chúng ta từ sáng đến chiều. Dòng tâm thức của chúng ta chỉ là một tiếp nối những tư tưởng trong khoảnh khắc; không có cái thực thể riêng biệt nào mà các bạn có thể chỉ ra như là một cái tâm.

Bây giờ, nếu chúng ta nghiệm xét thẩm tra tiến trình tư tưởng theo luận lý của Trung Đạo, sẽ trở nên rõ ràng rằng những tư tưởng quá khứ thì đã chết, như một cái xác. Những tư tưởng tương lai thì chưa sanh. Ngay những tư tưởng hiện tại, chúng không thể nói được là có những đặc tính nào như nơi chốn, màu sắc, hay hình dạng; chúng không để lại dấu vết ; và thực vậy chúng không được tìm thấy ở đâu cả. Thật ra, không thể có điểm tiếp xúc giữa những tư tưởng quá khứ, hiện tại và tương lai ; nếu như có một tương tục thật sự giữa chúng, chẳng hạn như giữa một tư tưởng quá khứ và một tư tưởng hiện tại, điều này tất yếu có nghĩa là hoặc tư tưởng quá khứ là hiện tại hay tư tưởng hiện tại là quá khứ. Nếu quá khứ có thể thực sự trải dài đến hiện tại theo cách này, thì theo như vậy tương lai cũng phải đã có mặt trong hiện tại. Thế nhưng không biết về bản chất thật sự của những tư tưởng, chúng ta duy trì thói quen nhìn chúng như là nối kết tương tục với nhau, cái này sau cái kia; đây là gốc rễ của mê lầm, vọng tưởng và là cái khiến chúng ta càng ngày càng bị thống trị bởi những tư tưởng và xúc cảm của chúng ta, cho đến khi sự lầm lạc điên đảo hoàn toàn ngự trị.

Điều quan trọng cốt tử là tỉnh giác với sự sanh khởi của những tư tưởng và làm lặng những con sóng tư tưởng tấn công các bạn. Giận dữ chẳng hạn là một khuynh hướng tàn phá cực kỳ làm hư hỏng tất cả những phẩm tính tốt đẹp các bạn có thể có. Không có ai vui thích sống cùng với một người sân hận. Không có cái gì rất đáng sợ một cách nội tại nơi sự xuất hiện của những con rắn, nhưng bởi vì thường thường chúng rất dễ tấn công, nên chỉ thấy chúng là đã gây ra sợ hãi hết hồn. Trong một người hay một con rắn, một ưu thế của giận dữ như vậy thì không gì khác hơn là kết quả của một sự tích tập không hề kiểm soát của những tư tưởng tiêu cực. Nếu ngay khoảnh khắc một tư tưởng giận dữ khởi lên, các bạn nhận biết nó là thế nào và hiểu nó tiêu cực ra sao, sự giận dữ của các bạn sẽ tự lặng xuống và các bạn sẽ luôn luôn có thể khả ái với bất kỳ ai. Ngược lại, nếu các bạn để cho tư tưởng giận dữ đầu tiên làm sanh khởi tư tưởng thứ hai, rất nhanh chóng cơn giận của các bạn sẽ hoàn toàn vượt ngoài kiểm soát, và các bạn sẽ sẵn sàng liều cả đời mình để hủy diệt đối thủ của các bạn.

Bởi thế, hãy luôn luôn nhớ rằng một tư tưởng chỉ là kinh nghiệm của nhiều yếu tố và hoàn cảnh thoáng qua cùng phối hợp. Dù tư tưởng là tốt hay xấu, nó không có hiện hữu đích thực nào. Khi một tư tưởng vừa khởi lên, nếu các bạn nhận biết ngay bản chất trống không của nó, nó sẽ bất lực không thể nảy sanh thêm tư tưởng thứ hai, và chuỗi xích của mê lầm sẽ dừng lại ngay đó. Như chúng ta đã nói, điều này không có nghĩa chúng ta phải cố gắng đè nén sự sáng tạo tự nhiên của tâm thức các bạn, hay các bạn phải nỗ lực dừng dứt mỗi tư tưởng với một đối trị riêng biệt. Đơn giản chỉ nhận biết tánh Không của những tư tưởng và để cho chúng nghỉ ngơi trong tâm thức buông xả. Tánh bổn nhiên của tâm thức, tinh khôi và bất biến, bấy giờ sẽ thường tại sống động và an vững.

Trong hai phương diện của thực hành thiền định, chỉ và quán,(57) sự tĩnh chỉ cung cấp nền tảng trên đó quán chiếu, hay viễn tượng rộng rãi, có thể bộc lộ bản tánh của tâm thức và như thế cho phép các bạn giải thoát những thức tình tiêu cực của các bạn. Nếu nền tảng, sự tĩnh chỉ, là không an trụ, quán chiếu sẽ cũng không vững vàng, và những vọng tưởng của các bạn sẽ khó kiểm soát. Bởi thế cần yếu phải khai triển yoga nhất niệm, an trụ trong tánh giác không chao động.

Đơn giản

41. Bằng cách khảo sát chân lý tương đối, hãy an lập chân lý tuyệt đối;

Ở trong chân lý tuyệt đối, hãy thấy chân lý tương đối khởi lên như thế nào.

Nơi cả hai chân lý không tách lìa, vượt khỏi trí thức, là trạng thái của đơn giản;

Trong cái thấy thoát khỏi mọi tạo tác, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Trong chân lý quy ước, tương đối, chúng ta có thể chấp nhận rằng thế giới hiện tượng có thể bị phá vỡ thành những phần tử không còn có thể phân chia; nhưng luận lý của Trung Đạo chứng tỏ rằng những phần tử đó không bao giờ có một hiện hữu độc lập và thường hằng nào. Như thế, làm sao chúng ta có thể nói rằng những đối tượng vật chất là thực sự hiện hữu ? Tương tự, dù chúng ta cố gắng chia chẻ tâm thức thành những khoảnh khắc của thức không còn có thể phân chia, chúng ta thấy rằng những cái này rốt ráo cũng không có một hiện hữu cụ thể có thể sờ nắm nào cả.

Nhận biết sự tương tục và toàn khắp của bản tánh trống không này, sự vô tự tánh này, là nhận biết chân lý tuyệt đối. Đây là trạng thái tự nhiên vốn như thế của tâm thức, không bị chạm nhiễm bởi bất kỳ che chướng nào, trong đó tất cả hiện tượng được thấy như Phật thấy chúng, như mộng hay như ảo ảnh huyễn thuật. Ở đây, những tư tưởng không làm sanh ra những cảm xúc tiêu cực hay tích tập nghiệp, những hoàn cảnh thuận lợi không tạo ra kiêu hãnh hay luyến chấp, và những hoàn cảnh trái nghịch nhanh chóng được chuyển hóa thành con đường của giác ngộ – ví dụ, một sự gặp gỡ với người nào chọc giận các bạn, thay vì khởi nóng giận, nó lại giúp các bạn phát sanh lòng bi và trở thành một dịp may để nhận biết chân lý tuyệt đối không tách lìa với Bồ đề tâm. Nếu các bạn không thể bỏ đi sự luyến chấp vào những sự vật, đấy chỉ vì các bạn không nhận biết bản tánh Không của chúng. Một khi các bạn đã chứng ngộ bản tánh Không này, các bạn không còn cảm thấy kiêu hãnh vì thành công như mộng hay thất vọng bởi thất bại như mộng nữa.

Một số người thấy mình được bao bọc bởi sắc đẹp, tiện nghi, dư dả tự nhiên và an toàn, trong khi những người khác có thể phải sống trong khó nhọc, cằn cỗi, nghèo túng và những môi trường nguy hiểm. Bây giờ, đấy không phải là kết quả của may mắn hay của sắp xếp ngẫu hứng nào. Được sanh ra trong một nơi dễ chịu là kết quả của sự rộng lượng, hay giúp đỡ và đức hạnh trong những đời trước ; trong khi những hoàn cảnh sống thù nghịch là hậu quả của sự làm hại những người khác trong những đời trước bằng cách tấn công họ, bỏ tù họ v.v... Những hiện tượng không phải là công việc của một đấng sáng tạo ; chúng chỉ là cái biểu lộ ra như kết quả phối hợp của nhiều nhân và duyên. Như là kết quả của ánh sáng mặt trời chiếu qua một màn mưa, một cầu vồng xuất hiện trên bầu trời, cũng thế, như là kết quả của một số lớn những hành động trong những đời quá khứ của các bạn, trong đời này các bạn hoặc là hạnh phúc, khỏe mạnh, giàu có và được mọi người yêu mến hay bất hạnh, nghèo khó, bệnh tật bao vây và bị khinh thường. Thật vậy, mỗi chi tiết của vũ trụ và chúng sanh chứa đựng không gì khác hơn kết quả của nhiều yếu tố liên lập hội họp nhau trong chốc lát; đấy là tại sao tất cả hiện tượng quá đỗi vô thường và chịu sự biến dịch thường hằng đến thế.

Thế nên khi các bạn khảo sát sự vật gì một cách sâu xa, các bạn luôn luôn đi đến tánh Không và chỉ có tánh Không; tánh Không là bản chất tuyệt đối của mọi sự. Là những người sơ học, chúng ta có thể đang ở trên con đường tích tập hay con đường kết hợp,(58) những chúng sanh bình thường chúng ta chưa có sự chứng ngộ thật sự tánh Không. Chúng ta biết rằng khói chỉ ra sự hiện diện của lửa nhưng nó không chính là lửa; tuy nhiên, bằng cách theo khói chúng ta có thể tìm thấy lửa. Tương tự, quan trọng là hiểu rằng cái thấy về tánh Không là không cùng một thứ với kinh nghiệm thực sự về tánh Không; nhưng bằng cách theo cái thấy và trở nên quen thuộc với nó, chúng ta sẽ đến chỗ chứng ngộ thực sự bản thân tánh Không, thoát khỏi mọi ý niệm hay lý thuyết. Đây là cái hiểu tối hậu của Trung Đạo, sự không tách lìa hai thứ chân lý, sự hợp nhất của những hình tướng và tánh Không.

Bản tánh Không của tất cả hiện tượng là chân lý tuyệt đối, và cách thức chúng xuất hiện là chân lý tương đối. Bằng cách khảo sát chân lý tương đối các bạn sẽ đến chỗ chứng ngộ chân lý tuyệt đối, bởi vì chân lý tuyệt đối là bản tánh tối hậu của mọi sự. Nếu toàn thể thế giới – tất cả châu lục, núi rừng của nó – bị tiêu hoại và hoàn toàn biến mất, chỉ có hư không toàn khắp còn lại. Một cái gì rất tương tự xảy ra khi các bạn thực sự chứng ngộ những hiện tượng tương đối là gì, rằng chúng không hiện hữu như những thực thể cứng đặc : không có gì còn lại ngoài tánh Không toàn khắp. Nhưng chừng nào các bạn còn tin vào sự hiện hữu cứng đặc, hữu hình của chân lý tương đối, các bạn sẽ không bao giờ có thể chứng ngộ chân lý tuyệt đối. Một khi các bạn chứng ngộ chân lý tuyệt đối, các bạn sẽ thấy cái gì xuất hiện trong nó – trò chơi vô tận, toàn thể của những hiện tượng tương đối – như không gì khác hơn một ảo tưởng hay một giấc mộng, mà các bạn sẽ chẳng cảm thấy chút gì luyến bám. Chứng ngộ rằng hình tướng và tánh Không là một chính là điều gọi là đơn giản, hay sự giải thoát khỏi mọi giới hạn ý niệm, giải thoát khỏi mọi tạo tác.

Hai chân lý không phải là hai thực thể phân biệt, như những cái sừng của một con bò; chúng chỉ là những phương diện “xuất hiện’ và “trống không” của trạng thái bổn nhiên. Trước tiên đã hiểu cái thấy một cách trí thức, hãy khai triển kinh nghiệm đầu tay và tin vào tính nhất như của hình tướng và tánh Không. Sự chứng ngộ về tính bất khả phân của hai chân lý là một kinh nghiệm sâu xa, hoàn toàn vượt khỏi mọi ý niệm trí thức. Đây là yoga của tính đơn giản. Duy trì cái thấy này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Một vị

42. Nơi những hình tướng, hãy cắt lìa sự bám chấp của tâm thức;

Nơi tâm thức, hãy phá hủy hang ổ của những hình tướng tưởng tượng;

Nơi mà tâm thức và những hình tướng là một chính là tánh Không trống trải vô biên;

Trong sự chứng ngộ một vị, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Cách thức những hiện tượng khách quan xuất hiện cho chúng ta thật ra là một tác động của tâm một cách chủ quan. Những sự vật đối với chúng ta có vẻ hoặc sạch hay dơ, xấu hay tốt, hấp dẫn hay ghê tởm, chỉ tùy thuộc vào cách thức tâm thức riêng của chúng ta tri giác chúng. Như Shantideva nói về những cõi địa ngục.

Ai làm ra mặt đất bằng sắt nóng đỏ này?
Từ đâu có ra những bờ sông lửa?
Mọi sự ấy
Khởi sanh từ tâm thức tiêu cực xấu xa.

Thật vậy, khi các giác quan của các bạn gặp gỡ một đối tượng, cái phần mà bản thân đối tượng tác động chỉ là khởi xướng tiến trình của tri giác trong ý thức các bạn. Từ lúc đó trở đi, vì tâm thức các bạn phản ứng với đối tượng, bị ảnh hưỏng bởi tất cả thói quen được tích tập và những kinh nghiệm quá khứ, toàn bộ tiến trình là hoàn toàn chủ quan. Thế nên, khi tâm thức các bạn đầy giận dữ, toàn bộ thế giới có vẻ như là một cõi địa ngục. Khi tâm thức các bạn an bình, thoát khỏi mọi bám níu hay trụ trước, và bất cứ điều gì các bạn làm đều phù hợp với những giáo lý, các bạn kinh nghiệm mọi sự là thanh tịnh một cách nguyên sơ. Trong khi một vị Phật thấy những địa ngục là một thiên đường, thì những chúng sanh mê lầm thấy một thiên đường là những địa ngục.

Những tri giác của chúng ta được nhuộm màu bởi những vọng tưởng theo cùng cách như cái thấy của một người bị bệnh vàng da được nhuộm màu bởi mật trong đôi mắt, khiến nó thấy cái tù và màu trắng ra màu vàng. Chính sự bám chấp làm cho tâm thức phóng chiếu những vọng tưởng của nó lên những hình tướng. Khi tâm thức vừa tri giác vật gì, nó bám chấp vào tri giác ấy ; bấy giờ nó đánh giá đối tượng như là đáng ưa, kinh tởm hay trung tính ; cuối cùng, bước vào hành động trên cơ sở của tri giác méo mó này với thích muốn, ghét bỏ hay thản nhiên, nó tích tập nghiệp.

Để cắt đứt sự bám chấp của tâm thức, quan trọng là hiểu rằng mọi hình tướng hiện ra là trống không, như nước được các bạn thấy trong một ảo ảnh. Những hình thể đẹp không làm lợi gì cho tâm thức, những hình thể xấu cũng chẳng làm hại gì cho nó. Hãy cắt lìa những trói buộc của hy vọng và sợ hãi, thích muốn và ghét bỏ, và an trụ trong tánh bình đẳng với sự thấu hiểu rằng mọi hiện tượng là không gì hơn những phóng chiếu của tâm thức của tự các bạn.

Một khi các bạn nhận biết thật tánh của tâm thức, toàn bộ sự tưởng tượng bịa đặt này về những hình tướng tương đối và sự bám luyến vào chúng sẽ hoàn toàn sụp đổ. Tốt và xấu, sạch và dơ, mất đi hương vị thúc ép của chúng và tan thành một vị. Các bạn sẽ đạt đến sự chứng ngộ của Jetsun Milarepa, không phân biệt giữa sắt và vàng. Khi Gampopa dâng cúng ngài vàng và trà, Milarepa nói : “Ta là một lão già không cần vàng và cũng không có bếp để nấu trà.” Ở trong cái thấy này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Không-thiền-định

43. Trong bản tánh của tâm, sự đơn giản của tánh giác trống không, mọi sự vật đều vốn giải thoát;

Những tư tưởng, sự sáng tạo tự do của tánh giác, đều thanh tịnh trong cảnh giới của chúng.

Tâm và tánh giác là một trong tinh túy đơn nhất.

Trong sự không-thiền-định của Pháp thân, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Bản chất tối hậu của tâm thức là tánh giác bổn nhiên, từ đó những tư tưởng lưu xuất như tia sáng chiếu ra từ mặt trời. Một khi bản tánh này của tâm thức được nhận biết, vọng tưởng tan biến như mây tan trong bầu trời. Bản tánh của tâm thức thoát ngoài vọng tưởng thì không có sanh, trụ hay diệt. Trong thuật ngữ của Mật chú thừa, nó được gọi là tâm bổn nguyên tương tục,(59) hay tính đơn giản thường hằng hiện diện. Nó cũng được diễn tả trong các kinh, chẳng hạn Bát Nhã ba la mật nói :

Tâm,
Tâm không hiện hữu
Sự biểu lộ của nó là tánh sáng tỏ.(60)

Khi các bạn khảo sát cái tâm tĩnh, cái tâm động và cái tâm có thể nhận biết sự tĩnh và động, dù cho các bạn có tìm kiếm bao lâu cái tâm, các bạn cũng sẽ không tìm thấy gì ngoài tánh Không: tâm không hình dạng, không màu sắc và không bản chất. Đây là phương diện trống không của tâm. Tuy nhiên tâm có thể biết những sự vật và tri giác vô số hiện tượng. Đây là phương diện sáng tỏ của tâm. Sự không tách lìa hai phương diện này, tánh Không và Sáng Tỏ, là tâm bổn nguyên tương tục.

Vào lúc này, sự sáng tỏ tự nhiên của tâm các bạn bị che ám bởi những vọng tưởng. Nhưng khi sự che ám này tan đi, các bạn sẽ bắt đầu khám phá sự chói sáng của tánh giác, cho đến khi các bạn đến một điểm mà, cũng như một hình vẽ trên mặt nước biến mất ngay khoảnh khắc nó được vẽ ra, những tư tưởng của các bạn được giải thoát ngay khoảnh khắc chúng khởi ra. Thể nghiệm tâm theo cách này là gặp gỡ nguồn gốc tối sơ của Phật tánh, sự thực hành của sự quán đảnh truyền pháp thứ tư. Khi bản tánh của tâm được nhận biết, đó gọi là niết bàn ; khi nó bị che ám bởi vọng tưởng, đó gọi là sanh tử. Tuy nhiên cả sanh tử lẫn niết bàn không bao giờ lìa khỏi dòng tương tục của cái tuyệt đối. Khi sự chứng ngộ tánh giác đạt đến mức độ đầy đủ của nó, những thành lũy của vọng tưởng sẽ bị phá vỡ và đô thành của Pháp thân vượt khỏi thiền định có thể được nắm lấy một lần cho mãi mãi. Ở đây không còn sự phân biệt nào giữa thiền định và sau thiền định, và kinh nghiệm được an trụ một cách không cố gắng ; đây là không-thiền-định. Trong cảnh giới vô biên của Pháp thân, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tóm tắt, yoga nhất niệm nhấn mạnh sự thuần hóa tâm thức, và yoga của sự đơn giản kiến lập cái quán thấy. Hai cái này hợp nhất trong kinh nghiệm của một vị, và khi kinh nghiệm này trở thành không thể lay động, đó là yoga của không thiền định.

Bốn yoga của Mật chú thừa tương đương với năm con đường của hệ thống Kinh thừa. Bởi thế quan trọng là giữ gìn cái thấy, thiền định và hành động của cả kinh điển và tantra cùng với nhau. Mọi cấp độ khác biệt của giáo lý chỉ có một mục đích, là cắt đứt những phiền não che ám ; bởi thế chúng hoàn toàn đồng ý với nhau. Nhiều dòng suối khác biệt nhau của những giáo lý, phản ánh những nhu cầu của những học trò khác biệt và trí huệ của những vị thầy khác biệt, thực chất chỉ là một dòng sông độc nhất.

Vị y sĩ không ai sánh nổi của Takpo là Gampopa linh thánh, ban đầu phụng thờ một đạo sự Kadampa và thực hành con đường Đại thừa. Về sau, dưới chân Jetsun Milarepa, ngài thực hành những hệ thống mật thừa Mahamudra và nội nhiệt và những cái còn lại của sáu Yoga của Naropa, trở thành một trong những vị tổ của dòng Kagyu. Những vị thầy Kadampa vĩ đại, nổi tiếng vì sự thực hành hệ thống kinh điển, cũng đã dạy những đệ tử của các ngài giai đoạn thành tựu của Maha-mudra và sáu yoga, đã hòa trộn khéo léo tất cả những thực hành này. Chớ bao giờ quên rằng cái chính không phải là sự thực hành của chúng ta thuộc về kinh hay tantra, hoặc nó là cấp độ này hoặc cấp độ kia, mà là nó dùng như một đối trị hiệu quả đối với bám chấp và những phiền não che ám.

Sự chuyển hóa những Giác quan, Thức tình phiền não và các Uẩn

Trong tất cả vô số giáo lý về nhiều cấp độ tạo thành con đường Mật thừa, tinh túy là thấy tất cả mọi hình tướng là thân thể của hóa thần, nghe tất cả âm thanh là thần chú và nhận biết tất cả những tư tưởng là Pháp thân. Theo cách này, sáu tri giác giác quan, năm phiền não độc hại và năm uẩn được chuyển hóa thành những tương ứng thuộc về trí huệ của chúng, và thân, ngữ và tâm thức được chứng ngộ là mạn đà la kim cương, mạn đà la tự hữu của tánh thanh tịnh bổn nhiên.

 

Sáu đối tượng của giác quan

Sắc

44. Nhận biết bất cứ sắc gì xuất hiện như là hóa thần bổn tôn là điểm cốt yếu của giai đoạn phát triển.

Sự bám chấp vào hình tướng đẹp, xấu được giải thoát trong bản tánh của chính nó.

Thoát khỏi bám nắm, tâm như nó biến hiện là thân của Quán Thế Âm Tối Thượng.

Trong sự vốn tự giải thoát của những kinh nghiệm thấy, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tâm tự chính nó là không thể sờ nắm, như không gian trống không, và chỉ có thể đi vào hoạt động nào, dù dẫn đến sanh tử hay niết bàn, qua trung gian của thân. Ngay ở trung ấm, chúng ta có một thân như mộng nó cho phép chúng ta kinh nghiệm nhiều giai đoạn chuyển tiếp từ một đời này sang đời kế tiếp. Trong khi tâm thức và thân thể kết hợp, thế giới hiện tượng có thể được tri giác nhờ những giác quan và những thức tương ứng của chúng. Chức năng của các thức giác quan này chỉ là tri giác những đối tượng tương ứng của chúng – sắc, thanh, hương... – mà không thêm vào cái gì cả. Nhưng bấy giờ, khi tâm thức tạo tác trên những tri giác này, nghĩ rằng, “Cái này đẹp”, “Cái kia xấu”, “Cái này làm hại tôi”, “Cái kia đem lại cho tôi thích thú”. Không phải hình sắc của đối tượng bên ngoài, cũng không phải con mắt, cũng không phải nhãn thức sản xuất ra những tạo tác chủ quan này, mà cuối cùng chúng sẽ dẫn đến sự tích tập nghiệp; nhưng chính là tâm thức. Một vật đẹp đẽ không có phẩm tính nội tại tốt đẹp đối với tâm thức, và một vật xấu xí không có sức mạnh nội tại nào để làm nó khó chịu. Đẹp và xấu chỉ là những phóng chiếu của tâm thức. Khả năng gây ra hạnh phúc hay khổ đau không phải là một đặc tính của bản thân sự vật bên ngoài. Chẳng hạn, việc thấy một người đặc biệt có thể gây ra hạnh phúc cho người này và khổ đau cho người khác. Chính tâm thức góp thêm những tính chất ấy vào đối tượng được tri giác.

Theo cách ấy, khi một sự vật gặp một trong những giác quan được tri giác bởi giác quan thứ sáu là tâm thức, thì hoặc ưa thích hoặc khó chịu, tri giác bị méo mó này có ra là do bám chấp. Đây chính là nền tảng của sanh tử. Nhưng nếu không có bám chấp, tri giác được giải thoát thành trí huệ. Đây là kinh nghiệm sự thanh tịnh của niết bàn, nơi đó không còn cần thiết phải khước từ những cảm giác thích thú. Chính là để giải thoát khỏi bám chấp mà các bạn cần tu hành trong việc nhận biết mọi hình tướng là những cảnh giới Phật và mọi chúng sanh là những bổn tôn. Thấy những sự vật theo lối này chuyển hóa tri giác của các bạn về thế giới thành tánh thanh tịnh bổn nhiên và cho phép các bạn chứng ngộ mọi phẩm tính của những cảnh giới Phật.

Khi các bạn khảo sát cẩn thận bản chất của mọi hiện tượng vô cùng và khác nhau trong vũ trụ và tất cả chúng sanh trong đó, các bạn thấy rằng không có cái gì ngoài sự tương tục của tánh Không. Có câu nói, “Sự thật của tánh Không là sự thật của mọi sự.” Thật vậy, tánh Không là cái khiến những hiện tượng vô cùng có thể xuất hiện. Thế giới hiện tượng chúng ta tri giác, là trò phô diễn tự do và giải thoát của tánh Không, chính là cảnh giới Phật và mọi chúng sanh nam nữ là Quán Thế Âm và Tara. Đây là nền tảng đích thực của Mật thừa.

Như chúng ta bây giờ, chúng ta cảm thấy bị hấp dẫn bởi cái gì đẹp và ghê sợ cái gì xấu ; chúng ta cảm thấy sung sướng khi gặp một người bạn và bị đảo lộn khi thấy người chúng ta không ưa. Những phản ứng này đều được sản xuất ra bởi cái tâm thức bám chấp vào những đối tượng. Khi chúng ta có thể nhìn ngay cả những sức mạnh xấu như là sự phô diễn của trí huệ Quán Thế Âm, sự bám chấp này được tịnh hóa và không có sức mạnh xấu nào có thể phá rối cuộc đời hay sự thực hành của chúng ta. Khi chúng ta tri giác mọi hiện tượng như là thanh tịnh một cách nguyên sơ, như trò chơi của những hóa thần, thần chú và trí huệ, tất cả tri giác giác quan có thể được dùng như con đường. Khi chúng ta thấy rằng mọi sự khởi lên từ tánh Không như sự biểu lộ của Quán Thế Âm, và như thế nhận biết cảnh giới của thanh tịnh vô cùng, bấy giờ chúng ta không phân biệt nữa giữa tốt và xấu, sạch và dơ ; tất cả là trò chơi phô diễn của Quán Thế Âm. Những bạn thân là Quán Thế Âm, những kẻ thù là Quán Thế Âm, tất cả là một như Quán Thế Âm.

Khi kinh nghiệm này khởi ra, hãy thận trọng chớ bám chấp nó hay cảm thấy kiêu hãnh về nó. Cái thanh tịnh bao la này không phải là sản phẩm của sự thiền định của chúng ta ; nó là thật tánh của sự vật. Vàng trong căn bản không bao giờ bị thoái hóa hư hỏng vì trộn lẫn với những chất khác trong quặng vàng, và qua những tiến trình trích chiết và tinh lọc nó chỉ trở thành chính nó. Cùng cách đó, mọi sự, toàn thể vũ trụ và tất cả chúng sanh là bổn lai Không. Những hiện tượng không bị hư hỏng ô nhiễm bởi ý niệm về dơ cũng như không được cải thiện bởi ý niệm về sạch. Thật tánh đơn giản luôn luôn chỉ là chính nó.

Như bản văn gốc nói, tu hành bằng cách kinh nghiệm mọi hình tướng là thanh tịnh là điểm cốt yếu của giai đoạn phát triển. Thông thường cái này bao gồm sự quán tưởng một hóa thần bổn tôn, nhưng nếu các bạn không thể giữ gìn mọi chi tiết của sự quán tưởng trong tâm thức, thì thấy thế giới như là một cõi Phật và những chúng sanh đều có bản tánh của hóa thần bổn tôn đã đủ. Hộ trì kinh nghiệm này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Thanh

45. Nhận biết những âm thanh như là thần chú là điểm cốt yếu của thực hành trì tụng;

Sự bám chấp vào âm thanh như là thích thú hay khó chịu được giải thoát trong bản tánh của chính nó.

Thoát khỏi bám nắm, âm thanh tự nhiên của sanh tử và niết bàn là tiếng nói của sáu âm.

Trong sự vốn tự giải thoát của cái nghe, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Thường thường, khi nghe những lời khen, những tin tức tốt, hay âm nhạc đẹp đẽ làm cho chúng ta thích thú ; trong khi ngược lại, nghe chỉ trích, những tố cáo sai lầm về chúng ta, những tin tức xấu về những người chúng ta yêu mến, hay những tiếng động nặng nề, chát chúa tức khắc làm chúng ta cảm thấy khốn khổ hay tức giận. Khả năng tạo ra những tâm trạng như vậy là một đặc tính không phải của bản thân những âm thanh khác nhau ấy, mà là của tâm thức bám chấp. Bồ tát, người biết rằng bản tánh của tâm là vô sanh, tri giác mọi âm thanh thích thú hay khó chịu như là thần chú. Khen ngợi không làm người ấy cảm thấy hãnh diện, và lời nói thô bạo, thay vì kích thích sự giận dữ, chỉ làm tăng thêm nhẫn nhục và lòng bi của người đó. Nếu các bạn tri giác mọi âm thanh như là thần chú, những tin tức xấu tốt sẽ không quấy rầy các bạn gì hơn là một ngọn gió quấy rầy một trái núi. Thật vậy, bị đảo lộn khi các bạn nghe những tin tức xấu chỉ tạo ra sự khổ đau cho các bạn; nó chẳng làm cho người chết sống lại cũng chẳng lập lại những tài sản đã bị lấy mất.

Như mọi hiện tượng, những âm thanh là kết quả của một phối hợp những nhân và duyên khác nhau và không hiện hữu như là những thực thể độc lập. Âm thanh đẹp đẽ của một cây đàn tùy thuộc vào sự phù hợp thích đáng của mọi sợi đàn, và nếu một sợi bị đứt hay lạc khỏi hợp âm thì âm thanh nó tạo ra sẽ bất hòa và khó chịu. Hãy khảo sát cẩn thận và sâu xa mọi âm thanh ; những âm thanh tự nhiên của thời tiết, gió, sấm, xào xạc của lá cũng như tiếng thú vật kêu, lời nói con người và bài hát, đều được tạo dựng bởi những yếu tố căn bản của âm thanh, và bản tánh của những yếu tố đó là tánh Không.

Chủng tự A, tượng trưng cho bản tánh vô sanh, được xem là nguồn gốc của tất cả âm thanh và chứa đựng tinh túy của chư Phật trí huệ. Nói riêng, từ nó mà thần chú sáu âm sanh khởi. Khi các bạn trì tụng thần chú, hãy nhận biết mọi âm thanh đều khởi từ tánh Không, như là một trò phô diễn vô cùng những thần chú – ngữ của chư Phật. Bấy giờ, ngay một số ít những trì tụng cũng sẽ kết trái. Đây là sự thực hành đem tất cả âm thanh vào con đường.

Sự nói chuyện bình thường, nó vốn là sự biểu lộ của thương hay ghét, sẽ chỉ làm cho bánh xe mê lầm càng quay nhanh hơn. Nhưng sự trì tụng thần chú sẽ bảo vệ tâm thức các bạn và dẫn dắt các bạn chứng ngộ bản tánh trí huệ của lời nói. Bởi thế, hãy trì tụng manÏi mọi lúc, cho đến khi nó trở thành một với hơi thở của các bạn.

Hương

46. Nhận biết những hương như là vô sanh là điểm cốt yếu của giai đoạn thành tựu;

Sự bám chấp vào mùi hương như thơm hay thúi được giải thoát trong bản tánh của chính nó.

Thoát khỏi bám nắm, mọi mùi là giới luật thơm tho của Quán Thế Âm Tối Thượng;

Trong sự vốn tự giải thoát của cái ngửi, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Chúng ta thích thưởng thức những mùi thơm, và chúng ta bịt mũi trước những mùi thối. Tuy nhiên mọi mùi, dù là hương thơm tinh tế của trầm hay mùi hôi thối của cứt đái, là trống không trong bản chất ; hãy nhận biết chúng là thanh tịnh và vô tự tánh, và dâng cúng chúng cho chư Phật như là hương thơm của giới luật hoàn hảo. Một sự cúng dường như thế làm hoàn thiện cả hai sự tích tập công đức và trí huệ. Bởi vì chư Phật không bị nhiễm ô bởi những tri giác nhị nguyên, chúng ta cũng phải buông bỏ mọi tư tưởng thích và không thích. Khi chúng ta làm thế, tri giác những mùi sẽ được giải thoát vào bản tánh của chính nó.

Vị

47. Nhận biết những vị như một bữa tiệc thánh lễ là điểm cốt yếu của cúng dường.

Sự bám chấp vào cái nếm như ngon ngọt hay ghê tởm được giải thoát trong bản tánh của chính nó;

Thoát khỏi bám nắm, đồ ăn và thức uống là những bản chất làm đẹp lòng Quán Thế Âm Tối Thượng.

Trong sự vốn tự giải thoát của cái nếm, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Chúng ta thường thưởng thức những vị ngon ngọt, thơm tho và chán ghét thứ gì đắng, chua, cay, nồng. Thật ra chính chỉ tâm thức bám chấp vào những vị ngon hay dở. Một khi tâm thức chứng ngộ rằng những thuộc tính ấy là vô sanh và vô tự tánh, bản tánh thanh tịnh của mọi thứ vị có thể được nhận biết. Đồ ăn và thức uống bấy giờ trở thành sự dâng cúng trí huệ của ganachakra, sự thực hành dâng cúng thánh lễ.(61)

Qua sự thực hành này, các bạn sẽ tích tập công đức, đánh bại sự khát khao quen thuộc của mình với đồ ăn và thức uống, và không rơi vào những cách thức không thích hợp của sự tự nuôi sống mình. Khi mọi bám chấp được giải thoát trong tánh bổn nhiên, đó là sự cúng dường tối thượng.

Xúc

48. Nhận biết những cảm giác là tánh nhất như căn bản là điểm cốt yếu của vị bình đẳng;

Những cảm giác no và đói, nóng và lạnh, được giải thoát trong bản tánh của chính chúng.

Thoát khỏi bám nắm, mọi cảm giác là hoạt động của hóa thần;

Trong sự vốn tự giải thoát của cảm giác, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Chúng ta phân biệt giữa cảm giác mềm mại của lụa và thô nhám của sợi đay, sự bằng phẳng của một cái tách và nhọn bén của một cái gai. Nhưng giống như những tri giác giác quan khác, những cảm giác này không hơn gì những giấc mộng ban ngày.

Khi các bạn thôi phân biệt giữa những cảm giác thích và không thích, để cho chúng như chúng là, trong nhất như căn bản của bản tánh trống không của chúng, tâm thức sẽ không luôn luôn phấn chấn hay buồn bã nữa. Đây là kinh nghiệm của vị bình đẳng, sự thực hành tối thượng đưa cả hai sướng và khổ vào con đường. Khát khao cảm giác sự vật mềm mại và thấy cái gì thô ráp khó chịu chỉ là bám chấp. Hãy để mọi luyến bám và ghét bỏ lắng xuống trong bản tánh trống không, và hoạt động Phật sẽ tự hiển lộ một cách tự nhiên.

Tóm tắt, bám chấp vào những tri giác giác quan là cái giữ các bạn lưu lạc trong sanh tử, và đấy là tại sao vẫn thường dạy rằng các bạn cần bỏ mọi lạc thú của các giác quan. Nhưng nếu các bạn đã chứng ngộ tánh Không của những hiện tượng ảo huyễn và bởi thế thực sự thoát khỏi bám chấp, tất cả những tri giác giác quan của các bạn có thể đem vào con đường để tăng trưởng sự tích tập công đức và trí huệ của các bạn, và đem lại tiến bộ cho những kinh nghiệm thiền định và sự chứng ngộ của các bạn. Bất cứ cái gì các bạn thấy, nếm, ngửi, nghe hay cảm giác, hãy nghĩ chúng giống như sự phản chiếu của mặt trăng trong nước hay như một cầu vồng sống động trong bầu trời – hấp dẫn đối với mắt nhưng thoáng qua và không lưu lại, không thể nắm bắt và không có một hiện hữu chắc thật nào. Thấy biết trong đường lối này, những tri giác của các bạn sẽ không bao giờ bao giờ bị đông cứng bởi dừng trụ hay vướng mắc bởi bám chấp.

Tâm thức

49. Nhận biết mọi hiện tượng đều Không là điểm cốt yếu của cái thấy;

Niềm tin vào đúng và sai được giải thoát trong bản tánh của chính nó.

Thoát khỏi bám nắm, mọi thứ hiện hữu của sanh tử và niết bàn, là dòng tương tục của Pháp thân.

Trong sự vốn tự giải thoát của những tư tưởng, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tâm thức, phân chia kinh nghiệm thành chủ thể và đối tượng, trước tiên đồng hóa mình với chủ thể, “tôi”; rồi với ý niệm “của tôi” và bắt đầu bám chấp vào thân tôi, tâm tôi, tên tôi. Sự luyến bám vào ba ý niệm này càng lớn lên mạnh mẽ, chúng ta càng trở nên quan tâm đặc biệt đến phúc lợi riêng của chúng ta. Mọi cố gắng của chúng ta cho tiện nghi, sự không khoan thứ cho những hoàn cảnh làm bực mình của đời sống, và sự bận tâm với sướng và khổ, giàu và nghèo, danh tiếng và mờ tối, khen và chê, đều do ý niệm “tôi” này.

Chúng ta thường quá bị ám ảnh bởi chính chúng ta đến độ chúng ta khó bao giờ nghĩ đến phúc lợi của những người khác – thật vậy, chúng ta lưu tâm tới những người khác không hơn một con cọp lưu tâm tới việc ăn cỏ. Điều này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Bồ tát. Cái ngã thực sự là một tạo dựng của tư tưởng, và khi các bạn chứng ngộ rằng cả hai đối vật được bám nắm và tâm thức bám nắm đều trống không, bấy giờ dễ dàng thấy rằng những người khác không hề khác biệt với chính các bạn.

Mọi năng lượng chúng ta thường đặt vào sự chăm sóc chính chúng ta thì những Bồ tát đặt vào sự chăm sóc những người khác. Nếu một Bồ tát thấy rằng lao mình vào lửa của địa ngục thì vị ấy có thể giúp đỡ cho chỉ một chúng sanh, bấy giờ vị ấy sẽ làm không một khoảnh khắc ngần ngại. Những Bồ tát đã đạt đến địa thứ tám(62) chứng ngộ rằng sanh tử và và niết bàn hoàn toàn nhất như. Đây là cái thấy tối hậu. Vị thầy Sakyapa vĩ đại Jetsun Trakpa Gyaltsen(63) đã nhận được từ đức Văn Thù trong một linh kiến những giáo huấn nổi tiếng về “giải thoát khỏi bốn luyến bám.” Trong câu kệ chót Văn Thù Sư Lợi nói, “Nếu có bám chấp thì không có cái thấy.” Shantideva cũng nói, “Mọi sự giống như hư không – đây là điều tôi cần phải chứng ngộ.” Đó là cái thấy tối hậu của cả kinh và tantra.

Cái thấy tánh Không trước tiên cần được hiểu, rồi kinh nghiệm và cuối cùng chứng ngộ. Chính từ tánh Không mà sanh tử và niết bàn khởi lên, và chính vào tánh Không mà chúng tan biến. Ngay dù chúng có vẻ đang hiện hữu, chúng thực sự chẳng bao giờ rời khỏi tánh Không. Bởi thế, nếu các bạn nhận biết tất cả mọi hiện tượng là Không trong bản chất, các bạn sẽ có thể đương đầu với bất kỳ thứ gì xảy ra, dù các bạn kinh nghiệm sướng hay khổ, mà không chút bám chấp nào.

Được thấy qua đôi mắt của tánh Không, đúng và sai là những quan niệm nhị nguyên chúng chỉ có thể hiện hữu trong tương quan lẫn nhau. Sai chỉ có thể có nếu cũng có cái đúng ; nhưng nếu cái sai là trống không thì cái đúng cũng phải trống không. Trong cái thấy tánh Không, bởi thế, không thể có những khẳng định đúng nào cả, không có những điều kiện, và không có bám chấp. Khi một Bồ tát an trụ vững chắc trong cái thấy này, vị ấy không luyến bám vào sự thanh bình của niết bàn, và để hoàn thành lợi lạc cho chúng sanh, vị ấy có thể khoác lấy bất kỳ hình thức nào. Vị ấy có niềm tin miên viễn nó cho phép ngài làm việc với chúng sanh trong những kiếp bất tận, bất kể họ đã lầm lạc bao xa. Không hề nghĩ đến giác ngộ cho riêng bản thân mình, sự quan tâm duy nhất của ngài là giúp đỡ những người khác tiến về mục đích đó.

 

Năm thức tình phiền não

Chứng ngộ cái thấy hoàn hảo là hoàn toàn thoát khỏi năm độc, những thức tình phiền não giữ chúng ta làm nô lệ trong sanh tử. Khi năm độc biến mất, năm trí huệ tương ứng được hiển lộ.

Sân hận

50. Chớ theo đuổi đối tượng của sân hận; hãy nhìn vào tâm thức giận dữ.
Sân giận, vốn tự giải thoát ngay khi nó sanh, là cái Không sáng tỏ;
Cái Không sáng tỏ không gì khác hơn là Trí Huệ Như Tấm Gương.
Trong sự vốn tự giải thoát của sân hận, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Sanh tử xảy đến như thế nào? Khi chúng ta tri giác mọi sự xung quanh với năm giác quan của mình, tất cả các loại cảm giác hấp dẫn và ghê sợ khởi lên trong tâm thức chúng ta, và chính từ những cảm giác này mà sanh tử sanh khởi. Tri giác thuần túy về sự vật, tự bản thân nó, không phải là cái gây cho chúng ta lưu lạc trong sanh tử ; mà chính sự phản ứng của chúng ta với những tri giác này và những giải thích diễn dịch chúng ta gán cho chúng làm cho bánh xe sanh tử quay mãi. Bây giờ, đặc trưng kỳ diệu của Mật thừa là, thay vì kéo dài sanh tử theo cách ấy, chúng ta có thể trau dồi tri giác về mọi hiện tượng như là trò chơi thanh tịnh của trí huệ.

Khi các bạn cảm thấy giận ghét ai đó, sự thù ghét và sân giận của các bạn không phải là cái gì nội tại nơi người ấy như một toàn thể cũng như một phương diện nào của nó. Sự giận ghét của các bạn chỉ hiện hữu trong tâm thức các bạn. Vừa trông thấy nó, những tư tưởng của các bạn luôn luôn day đi day lại nó đã làm hại các bạn trong quá khứ, nó sẽ làm hại các bạn trong tương lai như thế nào, hay nó đang làm hại các bạn bây giờ ; chỉ nghe tên của nó là đã làm các bạn đảo lộn. Khi các bạn trở nên trụ tâm vào những tư tưởng ấy, sự giận ghét đầy đủ phát triển, và tới lúc này các bạn cảm thấy một thôi thúc không thể cưỡng được cầm một cục đá và liệng vào nó, hay chụp lấy cái gì đó để đánh nó, nghĩ rằng, “Tôi thực sự muốn giết nó!”

Giận dữ có vẻ cực kỳ mạnh mẽ, nhưng nó lấy sức mạnh từ đâu để tràn ngập các bạn một cách dễ dàng như thế ? Nó là sức mạnh nào đó ở bên ngoài, một cái gì có tay có chân, vũ khí và áo giáp ? Nếu không, thế thì nó ở đâu trong các bạn? Nếu thế, nó ở đâu? Các bạn có thể tìm thấy nó trong óc não, trong trái tim, trong xương cốt, hay trong phần nào khác của các bạn ? Dầu không thể xác định ở chỗ nào, giận dữ hình như hiện diện theo một cách rất cụ thể, một bám chấp mạnh mẽ nó làm đóng băng tâm thức các bạn thành một trạng thái cứng đặc và đem lại một số lớn khổ đau cho cả các bạn và những người khác. Như những đám mây, quá không chất thể để mang nổi trọng lượng của các bạn hay để khoác lấy như áo quần, tuy nhiên có thể làm tối đen toàn bộ bầu trời và che phủ mặt trời, cũng thế, những tư tưởng có thể che ám sự sáng chói nguyên thủy của tánh giác. Bằng cách nhận biết bản tánh thông suốt, trống không của tâm, hãy để cho nó trở lại trạng thái giải thoát, tự do tự nhiên của nó. Nếu các bạn nhận biết bản tánh của sân giận là Không, nó bèn mất tất cả sức mạnh làm hại của nó và hoàn lại thành Trí Huệ Như Tấm Gương (Đại Viên Cảnh Trí); nhưng nếu các bạn không nhận ra bản tánh của nó và thả lỏng cương cho nó, nó sẽ không kém là nguồn gốc đích thực của những hành hạ cháy bỏng và lạnh cóng của địa ngục.

Người ta thường nghĩ về sự hàng phục và hủy hoại một đối thủ như là một thành công tích cực, nhưng đấy chắc chắn không phải là quan điểm của giáo lý Phật giáo. Khi giận dữ phun như núi lửa, chớ có theo nó, mà thay vào đó hãy nhìn thẳng vào bản tánh của chính giận dữ; nó chỉ là một chế tạo trống không ở trong cái trống không bao la của tâm thức. Trải qua vô số đời, bị nô lệ bởi sự gây gổ của riêng các bạn, các bạn đã tích tập vô lượng nghiệp xấu. Từ giờ trở đi hãy thận trọng hơn, nhớ rằng giận dữ là hạt giống từ đó mọi hành hạ của những địa ngục có thể sinh trưởng. Nhổ sạch giận dữ, và không còn đâu nữa những cõi địa ngục. Bởi thế thay vì ghét hận những kẻ thù giả danh, mục tiêu tấn công đích thực của sự giận ghét của các bạn phải là chính bản thân sự giận dữ.

Nếu các bạn không theo đuổi những cảm giác giận dữ, nếu các bạn không tự làm mình xa lánh những người khác bởi sự sân giận, nếu sự sân giận của các bạn được giải thoát vào trong thật tánh của chính nó, bấy giờ đó là trí-huệ-như-tấm-gương, một gương soi trong đó những người khác được phản chiếu như là chính các bạn. Bao giờ một tư tưởng “sân giận” có khởi lên trong tâm của Quán Thế Âm, nó chỉ làm cho trí huệ càng sáng chói thêm nữa. Hơn nữa, khi các bạn hiểu rõ rằng sân giận không thể nội tại nơi một đối tượng bên ngoài và rằng tâm thức giận dữ bên trong là không có một hiện hữu có thể sờ nắm nào, các bạn sẽ cảm thấy lòng bi tự nhiên tỏa chiếu cho tất cả chúng sanh, đặc biệt là cho những người bị hành hạ bởi những ngọn lửa của sân giận.

Ngày xưa, trong một đời trước của đức Phật, khi ngài là một Bồ tát trong hình dạng một con rắn, một số đứa bé tàn ác bắt ngài và hành hạ ngài đến chết. Nếu muốn, Bồ tát có thể hủy diệt chúng với chỉ một cái nhìn; nhưng vì lòng ngài đã thoát khỏi tư tưởng nhỏ nhất về giận dữ, đó không phải là điều ngài làm. Thay vào đó, ngài cầu nguyện rằng qua sự tiếp xúc chúng đã có với ngài bằng cách giết ngài, trong tương lai chúng sẽ trở thành đệ tử của ngài và được ngài dẫn dắt đến giác ngộ. Sự can đảm và nhẫn nhục gương mẫu này là kết quả của sự chứng ngộ đầy đủ của ngài về tánh Không và đại bi.

Sân giận là một kẻ tử thù của giải thoát, bởi vì một khoảnh khắc của sân giận phá hủy công đức được tích tập trong nhiều kiếp. Bởi thế, trừ diệt sân giận là một trong những mục tiêu chính yếu của một Bồ tát. Thế nên, hăm hở giữ giới nhẫn nhục, hãy trì tụng thần chú sáu âm. Như có nói, “Không có lỗi lầm nào lớn hơn sân giận, không có giới luật nào lớn hơn nhẫn nhục.”

Kiêu mạn

51. Chớ chạy theo đối tượng của kiêu mạn; hãy nhìn vào tâm thức bám nắm.

Tự phụ, vốn tự giải thoát ngay khi nó sanh, là tánh Không bổn nhiên;

Tánh Không bổn nhiên không gì khác hơn là trí huệ của sự đồng nhất căn bản.

Trong sự vốn tự giải thoát của kiêu mạn, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Khi nào chúng ta có được phẩm tính đáng khâm phục nào, hiểu biết hay khéo léo đặc biệt nào, kiêu hãnh khởi lên tức thì và làm hư hỏng phẩm tính tích cực ấy. Bị tràn ngập bởi tự phụ, hoa mắt bởi vẻ đẹp, thông minh, học vấn và quyền lực của chúng ta, chúng ta hoàn toàn đui mù với mọi phẩm tính toàn hảo và đích thực của những bậc thầy vĩ đại. Nhưng thật ra, những người bình thường như chúng ta, lạc lõng trong mê mờ của sanh tử, dầu đôi khi có được vài phẩm tính tốt, thì chắc chắn chúng ít hơn nhiều những lỗi lầm; và so sánh với những đức hạnh vô lượng của những con người vĩ đại, những phẩm tính của chúng ta chỉ nhỏ như đốm bột. Thật ra, những đức tính chúng ta cảm thấy rất kiêu hãnh thường là những khuyết điểm giả dạng.

Thế nên, bất cứ những tài năng giới hạn và không bền vững nào các bạn có, tuyệt đối không có lý do gì để kiêu hãnh về chúng. Như câu châm ngôn, “Cũng như nước không bao giờ tụ lại trên chót đỉnh một trái núi, giá trị chân thực không bao giờ tích tụ trên đỉnh lởm chởm của lòng kiêu mạn.” Kiêu căng làm dừng sự phát triển lòng sùng mộ, trí huệ hay từ bi; nó đóng ngăn các bạn với những ban phước của thầy và chận đứng mọi tiến bộ trên con đường. Thế nên, để tránh sự hiểm nguy của sự kiêu mạn, quan trọng là khảo sát chính các bạn một cách thành thật.

Nếu các bạn phân tích sự kiêu căng một cách cẩn thận, các bạn sẽ thấy ra rằng nó không nội tại trong cái gì mà bạn cảm thấy tự phụ, mà được tạo ra bởi tâm bám nắm. Nếu các bạn luôn luôn miên mật ở một vị thế khiêm tốn và giữ tâm thức mình khiêm hạ, sự kiêu hãnh sẽ biến mất như sương mù buổi sáng. Một tâm thức giải thoát khỏi móng vuốt của kiêu mạn luôn luôn an trụ trong trí huệ của sự đồng nhất căn bản (Bình đẳng tánh trí) của Quán Thế Âm.

Tham lam

52. Chớ khao khát đối tượng của tham muốn, hãy nhìn vào tâm thức tham lam.

Tham muốn, vốn tự giải thoát ngay khi nó sanh, là Không-Lạc;

Cái Không-Lạc này không gì khác hơn là trí huệ phân biệt tất cả.

Trong sự vốn tự giải thoát của tham muốn, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Bất cứ hạnh phúc nào mà các bạn mong mỏi từ cha mẹ, con cái, bạn bè, sự giàu có hay tài sản của các bạn, nó sẽ không kéo dài lâu, bởi vì cuối cùng tất cả chúng sẽ bị cái chết giật mất khỏi các bạn – nếu không xảy ra trước đó. Vô ích khi bám níu vào chúng.

Khi các bạn chết, cho dù các bạn có đáng khâm phục thế nào, dù giàu có và quyền lực thế nào, không có cái gì dùng được. Các bạn sẽ lang thang trong trạng thái trung ấm giữa cái chết và sự tái sanh, chỉ đồng hành với các bạn là nghiệp tốt và xấu của mình. Góp nhặt giàu có và tài sản, rồi bảo vệ và làm tăng trưởng chúng là một công việc làm nản lòng và không cùng.

Cái nhìn thấy vàng và kim cương mê hoặc chúng ta, và chúng ta nhanh chóng bị đánh bại bởi tham muốn thúc dục phải chiếm hữu chúng. Nhưng dù bằng cách nào đó chúng ta thu xếp để mua những đồ vật đẹp đẽ và đắt giá ấy, sự bám chấp của chúng ta, còn lâu mới chấm dứt, mà chỉ tăng thêm. Lo lắng chúng ta có thể mất châu báu quý giá đã sở đắc được, chúng ta cất nó thật an toàn và không bao giờ dám đem nó ra ngoài và đeo nó. Sau cả một đời xây dựng trên sự thèm khát, kinh nghiệm của chúng ta trong trạng thái trung ấm chỉ có thể là sợ hãi và kinh hoàng cùng cực.

Buôn bán, trồng trọt hay việc làm ăn nào mà phúc lợi có được từ sự hao tốn của những người khác chỉ đem lại cho chúng ta thêm nhiều nghiệp xấu. Không bao giờ thỏa mãn với cái chúng ta có, luôn luôn nỗ lực thu được điều chúng ta muốn, trong vô số đời chúng ta hoàn toàn mòn mỏi, kiệt sức. Chẳng tốt hơn sao khi buông bỏ tất cả và thay vào đó học cách làm thế nào được thỏa mãn với áo quần đủ mặc và lương thực đủ sống?

Nếu các bạn cam kết theo sự thực hành và trì tụng thần chú sáu âm với một tâm thức giải thoát khỏi bám níu, các bạn sẽ thấy mình càng ngày càng ít bị hấp dẫn bởi những theo đuổi bình thường của cuộc đời,và các bạn sẽ không phung phí cuộc đời các bạn nữa. Tham muốn và bám chấp sẽ lắng vào bản tánh của chính chúng, nó không gì khác hơn là trí huệ phân biệt tất cả (Diệu quan sát trí) của Quán Thế Âm.

Ghen ghét

53. Chớ đi theo đối tượng của ghen ghét; hãy nhìn vào tâm thức chỉ trích, chê bai.

Ghen ghét, vốn tự giải thoát ngay khi nó sanh, là trí trống không;

Trí trống không này không gì khác hơn là trí huệ thành tựu tất cả.
Trong sự vốn tự giải thoát của ghen ghét, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Một người bình thường cảm thấy ghen ghét, đố kỵ với những ai có những thành đạt bằng hay hơn mình. Tuy nhiên ghen ghét cũng lại không phải là một cái gì nội tại trong đối tượng của sự ghen ghét ; nó chỉ là một chế tạo của tâm thức. Bất kỳ khi nào một tư tưởng ghen tỵ khởi ra, đơn giản chỉ nhận biết nó là cái gì và tùy hỷ với tất cả lòng mình những thành đạt cao hơn của người khác.

Một khi các bạn cho phép những tư tưởng ghen tỵ nẩy nở, chúng có thể phát triển thành một cảm xúc quá quắt. Một ví dụ là câu chuyện về sự ghen tỵ của Đề bà đạt đa với người anh em chú bác Gautama. Dầu sau khi Gautama đã thành Phật, Đề bà đạt đa cũng không ngừng nỗ lực làm đủ mọi cách xảo quyệt để ganh đua với ngài. Những hành vi ghen ghét của ông đến nỗi cuối cùng mặt đất mở ra dưới chân, và ông rớt vào lửa của địa ngục ; ở đấy trải qua những khổ sở kinh khủng, ông hối hận, kêu lên, “Từ sâu thẳm của lòng mình, tôi quy y ngài, Gautama !” Dầu cho trong một đời tương lai ông sẽ tái sanh làm một vị Bích Chi Phật, nhưng trong đời này, ngay cả Phật cũng không cứu được ông. Ghen tỵ bởi thế là một lỗi lầm rất trầm trọng; chớ bao giờ rơi vào dưới ảnh hưởng của nó.

Chính bởi cảm thấy rất hoan hỷ trong lòng các bạn với những thành đạt của những người khác – chẳng hạn, với những cúng dường lớn lao của ai đó cho Tam Bảo – các bạn sẽ tích tập công đức như người kia. Thay vì si mê bởi những thành đạt của chính các bạn, thay vì rơi vào cái bẫy ghen tỵ, hãy tùy hỷ với những công đức vô giá của những người khác, đặc biệt với những hành vi của những vị rất cao cả. Đó không gì khác hơn là chính trí huệ thành tựu tất cả (Thành sở tác trí).

Vô minh

54. Chớ cho những ý tưởng do vô minh đúc thành là đúng; hãy nhìn vào bản tánh của chính vô minh.

Những người khách tư tưởng, vốn tự giải thoát ngay khi chúng sanh, là Không-Giác.

Cái Không-Giác này không gì khác hơn là trí huệ của pháp giới tuyệt đối và bao la.

Trong sự vốn tự giải thoát của vô minh, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Ở đây vô minh (si) nghĩa là vô minh về Phật tánh của chính chúng ta. Về mặt này, chúng ta vô minh như một người ăn xin với một viên ngọc quý trong bàn tay, do không nhận biết giá trị đến thế nào, liệng bỏ nó. Chính vì vô minh mà chúng ta làm nô lệ cho những tư tưởng của chúng ta và không thể phân biệt đúng với sai. Chính vì vô minh mà chúng ta không tin vào những kết quả lợi lạc của sự cầu nguyện Tam Bảo. Chính vì vô minh mà chúng ta không nhận biết chân lý của Pháp. Vô minh là gốc rễ đích thực của tám mươi bốn ngàn phiền não tiêu cực, vì chừng nào chúng ta còn không thấy rằng thật tánh của mọi sự là tánh Không, chúng ta còn khăng khăng tin rằng những sự vật có thật hiện hữu; và đây là nguồn gốc của mọi tri giác mê lầm và mọi tư tưởng xấu xa.

Tuy nhiên vô minh không thường tồn như bóng tối thường trực của một hang sâu dưới mặt đất. Như mọi hiện tượng khác, nó chỉ có thể sanh khởi từ tánh Không và bởi thế không thể có hiện hữu chân thật. Một khi các bạn nhận ra bản tánh Không của vô minh, nó chuyển thành trí huệ của pháp giới tuyệt đối và bao la (Pháp giới tánh trí). Đây là tâm trí huệ của Quán Thế Âm, Phật tánh, yếu tính của chư Như Lai, Như Lai tạng hiện diện trong tất cả chúng sanh. Chỉ vì vô minh, như đức Phật đã bày tỏ, khiến chúng ta tin vào tri giác mê lầm của chúng ta thay vì nhận biết Phật tánh là bản tánh của chính chúng ta.

Bằng cách xác lập bản tánh Không của vô minh, hãy nhận biết sự mờ tối và mê vọng của nó là chính pháp giới bao la tuyệt đối. Bấy giờ trụ trong kinh nghiệm này và thực hành cái thấy, thiền định và hành động. Đây là tâm yếu tối thiết của Quán Thế Âm.

Bởi thế, bất kỳ khi nào những tư tưởng và thức tình liên hệ với năm độc sanh khởi, thay vì tự để cho mình bị chúng mang đi xa, hãy nhìn thẳng vào bản tánh của chúng ; bằng cách làm như thế, cuối cùng các bạn sẽ đến chỗ nhận biết năm độc chính là năm trí huệ bổn nguyên, chúng là tình trạng tự nhiên của tâm không mê vọng. Đến điểm này, tất cả tư tưởng của các bạn sẽ được giải thoát ngay khi chúng khởi, và các bạn sẽ không bao giờ mất cái thấy về tánh giác, Quán Thế Âm tuyệt đối.

Quán Thế Âm tuyệt đối không gì khác hơn là tánh Không, tuy nhiên trên bình diện tương đối Quán Thế Âm khoác lấy vô số hình sắc để gặp gỡ những nhu cầu của chúng sanh. Tất cả những biểu lộ này, với danh hiệu, hình thể và màu sắc khác nhau, là sự phô diễn của trí huệ ngài, sự biểu lộ của tính sáng tạo của tánh Không và đại bi. Đặc biệt, Quán Thế Âm phô diễn năm hình sắc chính tương ưng với năm uẩn và năm cõi(64) của sanh tử. Năm bài kệ tiếp theo giải thích sự chuyển hóa của năm uẩn, hay skandha, thành năm phương diện này của Quán Thế Âm.(65)

 

Năm uẩn

Sắc

55. Sắc là vô sanh, bổn lai không, như bầu trời ;
Tinh túy của cái Không-Giác này là Quán Thế Âm –
Không có cái gì khác ngoài Vua Thiêng Liêng của Bầu Trời.
Trong cái thấy tánh Không này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Chúng ta thấy một cầu vồng trong bầu trời chỉ vì sự phối hợp của tia sáng mặt trời và mưa. Theo cùng cách này, tất cả vô số hình sắc mà chúng ta thấy chỉ có từ sự phối hợp thoáng chốc của một số điều kiện ; dưới sự xem xét cẩn thận tỉ mỉ, không có cái nào trong những duyên đó có thể tìm thấy một hiện hữu bản chất nào. Ví dụ, chúng ta dùng chữ thân thể để chỉ một hỗn hợp thường trực thay đổi của xương, thịt và máu, tuy nhiên trong thực tế không có một thực thể nào như là một thân thể.

Chính năm uẩn chống đỡ cho ý niệm sai lầm về một cái “tôi” hiện hữu một cách chất thể, cái “tôi” ấy là nguồn gốc của mọi khổ đau. Nhưng một khi chúng ta nhận biết sắc uẩn là Không, nó không gì khác hơn là Quán Thế Âm. Danh hiệu đặt cho phương diện này của Quán Thế Âm, Vua của Bầu Trời, truyền đạt cách thức bao la và toàn khắp mà ngài khoác lấy hình sắc. Trong mỗi một lỗ chân lông của thân thể ngài vô số cõi Phật xuất hiện mà lỗ chân lông không lớn thêm hay những cõi Phật không nhỏ bớt. Tuy nhiên, thân Quán Thế Âm không phải là thịt máu mà là sự phô diễn của trí huệ ngài, trống không trong bản chất. Nhận biết điều này, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Thọ

56. Cảm giác là thòng lọng trói siết tâm thức cùng đối tượng ;
Khi con biết nó là tánh nhất như bất nhị, nó là Quán Thế Âm –
Không có cái nào khác ngoài Thòng Lọng Phong Phú Thiêng Liêng.
Trong sự chứng ngộ vị nhất như, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Chính sự kết hợp của thân thể và tâm thức cho phép những cảm giác thích thú và khó chịu, sướng và khổ sanh khởi. Khi thân các bạn cảm thấy một đau đớn nhỏ nào, như cái gai đâm, lý do các bạn ghét nó là vì các bạn tin vào ý niệm một cái ngã cá biệt. Bởi thế các bạn nghĩ, “Tôi... thân tôi... hạnh phúc của tôi... đau khổ của tôi.” Sự kiện khi những người khác cũng kinh nghiệm cùng một đau đớn không làm cho các bạn khổ não gì cả là bằng chứng các bạn tin vào một cái “tôi” như thế nào.

Uẩn cảm giác này là sợi dây trói buộc các bạn vào ba cõi của sanh tử. Cảm giác là phản ứng căn bản của thích và không thích nó xảy ra khi các bạn gặp gỡ một cái gì trong thế giới hiện tượng. Nó xảy ra qua tác động của các giác quan và các thức tương ứng của chúng. Nếu các bạn khảo sát nó, các bạn sẽ nhận ra nó không có một thực thể nào ; bấy giờ cảm giác trở thành trí huệ của nhất như, và bản tánh của nó không gì khác hơn là phương diện của Quán Thế Âm được biết như là Thòng Lọng Phong Phú, Amoghapasha trong tiếng Sanskrit.

Amoghapasha thuộc về bộ tộc trân bảo, và ngài sẵn đủ nhiều năng lực đến độ chỉ nghe danh hiệu và thần chú của ngài cũng sẽ mở rộng kinh nghiệm thiền định của các bạn, làm sâu xa thêm trí huệ của các bạn, kéo dài mạng sống của các bạn, và làm lớn rộng thêm nhiều công đức và sự thịnh vượng của các bạn. Tuy nhiên phương diện năng lực thần diệu này của Quán Thế Âm thật ra không gì khác hơn là tự tâm của các bạn. Khi nào, qua sự chứng ngộ tánh Không, các bạn tri giác những hiện tượng sanh tử như là sự thanh tịnh vô biên, các bạn mở ra phần tương ứng giác ngộ của thọ uẩn, kho tàng của những phẩm tính mãi mãi giàu có; đây là Bảo Sanh Phật, Ratnasambhava.

Amoghapasha, Thòng Lọng Phong Phú, là một đồng nghĩa với viên ngọc như ý. Giống như một thòng lọng, ngọc như ý có thể đem ngay cả những chư thiên và con người quyền lực nhất vào dưới sự kiểm soát của nó và đẩy tất cả chúng sanh đến giác ngộ. Khi các bạn cảm thấy sắp rơi vào vực thẳm của những thức tình đen tối, hãy cầu nguyện đến Quán Thế Âm ; vào lúc cái thòng lọng của lòng bi của ngài bắt được các bạn, các bạn sẽ tràn đầy tin tưởng vào sự toàn giác của ngài. Bởi thế, với niềm tin và sùng mộ nhất niệm, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Xác định (tưởng)

57. Xác định, nếu con chấp nó là chắc thật, là vọng tưởng ;
Khi con đến với tất cả chúng sanh với lòng bi, đấy là Quán Thế Âm.
Không có cái gì khác ngoài Bậc Cao Cả Nạo Vét Sạch những Chiều Sâu của Sanh Tử.

Trong lòng bi không thiên vị, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tâm thức các bạn không ngừng xác định, đánh giá bất kỳ thứ gì các bạn gặp, “Cái này có thể làm vui lòng tôi, cái này có thể làm hại tôi.” Chính vì như một kết quả của tiến trình này mà các bạn khao khát cái gì thích thú và sợ hãi cái gì không thích. Sự đánh giá do tâm thức các bạn tạo ra khởi từ cách thức tri giác mọi sự một cách quy ngã. Nhưng giờ đây, thay vì xác định những sự vật theo bao nhiêu sướng hay khổ chúng sẽ đem lại cho các bạn, các bạn nên nhắm vào hạnh phúc và khổ đau của toàn thể chúng sanh. Điều này sẽ mở ra một lòng bi bao la không chút thiên vị nào, và các bạn sẽ nhận biết uẩn thứ ba này, tưởng uẩn, như là phương diện của Quán Thế Âm được biết với danh hiệu là Bậc Nạo Vét những Chiều Sâu của Sanh Tử.

Khi các bạn nạo vét những chiều sâu của biển cả, bất kỳ thứ gì dưới đáy đều được đưa lên trên mặt. Cũng thế, hoạt động đại bi của Quán Thế Âm đưa lên những cõi cao hơn tất cả những chúng sanh nào chìm đắm trong những chiều sâu của hiện hữu, những cõi thấp của sanh tử.

Nếu vì chỉ một chúng sanh, Quán Thế Âm phải làm việc cặm cụi cho đến hết vòng thời gian, lòng đại bi của ngài cũng sẽ không hề giảm sút. Bậc Nạo Vét Sạch những Chiều Sâu của Sanh Tử luôn luôn thường trực sẵn sàng đến giúp đỡ chúng sanh. Điều này được minh họa bởi câu chuyện sau đây.

Ngày xưa một đoàn nhà buôn đi biển để tìm hòn đảo châu báu trong truyền thuyết. Bị đắm tàu bởi một trận bão, họ tìm chỗ trú ẩn trên một hòn đảo của những yêu tinh ăn thịt người. Những yêu tinh này, để chinh phục những nhà buôn, biến hình thành những công chúa đẹp đẽ, với sự giả dạng này, chúng dễ dàng quyến rũ và lấy được lòng tin của họ. Về sau, những công chúa yêu tinh này lấy tất cả nhà buôn làm chồng; từ đó, những nhà buôn bị giữ dưới sự canh chừng cẩn mật và không bao giờ cho ra xa khỏi nhà.

Tuy nhiên một hôm, người trưởng đoàn nhà buôn đi xa hơn thường lệ mà không để ý. Ông đến một tòa nhà đồ sộ làm bằng sắt. Từ bên trong một tiếng nói cất lên, “Nghe đây, hỡi các bạn ! Chúng ta cũng là những nhà buôn bị đắm tàu trên đảo này và bị nhốt ở đây. Hãy cẩn thận! Các bạn đã bị lừa ; những công chúa các bạn đã cưới thật ra là những yêu tinh, và chúng định giết và ăn thịt tất cả các bạn.” Lúc đó, trưởng đoàn mới hiểu rằng ông và những người của ông ta đã bị lừa gạt và là tù nhân của những công chúa yêu tinh. “Chúng ta đang ở trong một cái bẫy khủng khiếp, nhưng không có cách nào thoát sao?”

Tiếng nói bảo : “Với chúng tôi thì không, nhưng với các bạn thì còn có một dịp may. Về phía đông của thành phố có một cái hồ, và trên bờ hồ là một cái hang gọi là Hang Cỏ Vàng. Mỗi đêm trăng đầu tháng và giữa tháng, Quán Thế Âm, trong hình dáng con ngựa Valaha vương giả, hay Đám Mây Quyền Năng, đến hang từ cõi trời thứ Ba Mươi Ba để ăn cỏ, uống nước và cuộn mình trên cát vàng. Nó gọi những ai muốn rời bỏ hòn đảo của yêu tinh này muốn về châu Diêm Phù Đề hãy đến và leo lên lưng. Tôi đã nghe các công chúa yêu tinh nói rằng người nào nắm bờm con ngựa Valaha và không nghe theo những lời năn nỉ giả tạo của họ sẽ thoát được an toàn về Ấn Độ.”

Ông trưởng đoàn vội vã trở lại nói với các bạn đồng hành điều vừa được nghe, và tất cả bọn họ kinh sợ cho hoàn cảnh mình, hiểu rằng đây là hy vọng duy nhất để có lại tự do, họ cầu nguyện Quán Thế Âm từ đáy lòng họ.

Như đã nói trước, vào đêm trăng rằm con ngựa trời xuất hiện, bình an gặm cỏ ở Hang Cỏ Vàng. Khi nó sắp bay lên, nó gọi những nhà buôn cấp tốc cỡi lên lưng. Những công chúa yêu tinh, thấy các tù nhân của mình sắp trốn thoát, bắt đầu than khóc. Họ đem những đứa con đã có với những nhà buôn và van xin họ hãy ở lại để trông nom đám con cái đáng thương của họ, chúng cũng khóc vang. Một vài người đi buôn, không thể cắt đứt những luyến bám của họ và cưỡng lại được những năn nỉ của những người vợ yêu tinh, đã rớt xuống đất ; nhưng những người khác, không nghe những van xin đầy nước mắt này, cầu nguyện Quán Thế Âm với niềm tin lớn lao và an toàn về châu Diêm Phù Đề.

Lòng bi của Quán Thế Âm, thoát khỏi tưởng uẩn, đổ xuống bình đẳng trên mọi chúng sanh. Ngài sẽ vét cạn không mệt mỏi những chiều sâu của sanh tử cho đến khi không còn một chúng sanh nào sót lại.

Uẩn thứ nhất là sự nắm bắt đầu tiên của các bạn về một đối tượng. Uẩn thứ hai là cảm giác của các bạn rằng đối tượng ấy là thích, không thích hay trung tính với các bạn. Uẩn thứ ba là sự đánh giá của các bạn về cường độ của cảm giác này là mạnh, vừa hay yếu ; bấy giờ tâm thức các bạn bám chấp vào sự đánh giá này như cái gì thực có và vững chắc, nó tạo thành căn cứ cho hai giai đoạn tiếp sau. Chính qua chuỗi tiến trình này, năm uẩn và mọi khổ đau xảy ra. Tuy nhiên, bằng cách trì tụng thần chú sáu âm với sùng tín hoàn toàn, các bạn có thể thoát khỏi những gông cùm của sự xác định, đánh giá và như thế giải thoát khỏi cái bẫy của sanh tử.

Thúc đẩy (hành)

58. Thúc đẩy, là những hoạt động sanh tử, giữ con quay vòng trong sáu cõi;

Nếu con thấu hiểu sanh tử và niết bàn là hoàn toàn nhất như, đó là Quán Thế Âm –

Không có cái gì khác ngoài Bậc Đại Bi Chuyển Hóa Chúng Sanh.

Hành động cho những người khác trong một vị, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Thúc đẩy là ám ảnh cưỡng bách phải hoạt động trên căn cứ của những cảm giác tham muốn và ác cảm của các bạn, và như thế tích tập nghiệp. Bởi thế, cái thúc đẩy là kiến trúc sư của sanh tử và niết bàn. Hoàn toàn nô lệ cho thúc đẩy, các bạn đã lang thang từ đời này sang đời khác từ vô thủy. Nhưng nếu các bạn nhận biết rằng bản tánh của thúc đẩy là trống không, và rằng những thúc đẩy không cùng của các bạn thật ra là vô số khía cạnh của trí huệ, các bạn sẽ không chịu sự thống trị của chúng nữa.

Theo Kim Cương thừa, Quán Thế Âm thấm khắp tất cả những mạn đà la như Đấng Quyền Năng của sự Nhảy Múa Hoa Sen. Dầu trong yếu tính, một vị Phật hoàn toàn giác ngộ diễn xuất những tài nguyên vô tận của lòng bi, ngài nhận lấy hình thức của một Bồ tát để giúp đỡ chúng sanh trực tiếp theo nhu cầu họ. Mọi sự Bồ tát làm đều để lợi lạc cho chúng sanh ; ngài không có mục đích riêng tư nào, bất kể hoàn cảnh gì. Mức độ cao cả này của lòng bi mang theo với nó vô số phẩm tính giác ngộ, đặc biệt là sự chứng ngộ rằng sanh tử và niết bàn là chỉ một vị.

Hiện giờ, các bạn thấy khó khăn thấu hiểu những đặc tính bao la không thể nghĩ bàn nổi như đại bi và khả năng cứu giúp những người khác của Quán Thế Âm. Những nếu các bạn trì tụng thần chú này với lòng sùng mộ nhất niệm, một ngày nào các bạn cũng sẽ có thể làm lợi lạc cho chúng sanh ở một tầm cỡ vô biên như vậy. Từ đáy lòng các bạn, hãy mong mỏi giúp đỡ tất cả chúng sanh, và hồi hướng tất cả công đức của bạn cho họ, với sự tin chắc rằng Quán Thế Âm thừa nhận những nguyện vọng của các bạn và ban cho các bạn ân sủng của ngài để đưa chúng tới chỗ trọn vẹn.

Thức

59. Thức, sự biểu lộ của tâm bình thường, có tám chức năng;

Nếu con thấu hiểu tâm tối hậu là Pháp thân, nó là Quán Thế Âm –

Không có cái gì khác ngoài Đại Dương Thiêng Liêng của những Bậc Chiến Thắng.

Biết rằng tự tâm con là Phật, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Nếu một hạt giống trong đất nảy sinh từ một giống cây độc, rễ và lá phát triển từ nó chắc chắn cũng phải độc, hay ngay cả làm chết người. Cùng cách ấy, bất kỳ khi nào năm uẩn hiện diện, khổ đau phải xảy ra từ đó. Then chốt làm chúa trùm cả năm uẩn là thức, vì chính thức bám chấp vào các uẩn như thực sự hiện hữu, bám chấp lạc thú như lạc thú và khổ đau như khổ đau. Thật vậy, thức là tâm mê lầm và những vọng tưởng của nó. Bây giờ, một khi các bạn nhận biết rằng thức không bao giờ thực sự hiện hữu và bởi thế, không thể tiếp tục hiện hữu cũng không đến chỗ chấm dứt, các bạn bèn giải thoát khỏi móng vuốt của nó. Nhưng cho đến khi nào các bạn đạt đến điểm này, thức thường trực kéo dài hư vọng, sẽ tiếp tục phát sinh thêm nghiệp. Bởi thế quan yếu là các bạn quy tụ mọi nỗ lực của các bạn vào sự nhận biết tánh Không của thức. Khi nhận biết này khởi lên rõ ràng, nó giống như ánh sáng ban ngày phá tan bóng tối của đêm.

Bản tánh thanh tịnh của thức là phương diện của Quán Thế Âm được biết như là Đại Dương của những Bậc Chiến Thắng. “Những Bậc Chiến Thắng” ám chỉ chư Phật, các ngài đạt được sự chiến thắng của giác ngộ viên mãn, và Đại Dương ám chỉ sự bao la của vô cùng chư Phật hợp nhất trong Quán Thế Âm. Hãy cầu nguyện rằng sẽ có ngày các bạn cũng thành tựu sự hoàn thiện như vậy đến độ chỉ nghe tên các bạn, chúng sanh sẽ được tịnh hóa những nhiễm ô của họ và giải thoát khỏi những cõi thấp.

Biết rằng Quán Thế Âm thường trụ trong chính các bạn như là sự tương tục của cái Một bất biến, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

 

Bốn điểm chính yếu về Thân, Ngữ, Tâm và Pháp Thân

Thân

60. Tin thân thể là cứng đặc là điều gây ra tình trạng nô lệ ;
Nếu con nhận biết nó là hóa thần, xuất hiện nhưng trống không, nó là Quán Thế Âm –

Không có cái gì khác ngoài Khasarpani Cao Cả.
Trong sự nhận biết thân thể hóa thần, xuất hiện mà trống không, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Chính tri giác bình thường của chúng ta về thân thể như là một cơ cấu cứng đặc của xương và thịt khiến nó thu hút khổ đau như một nam châm. Nhưng bằng cách tu hành những thực hành quán tưởng và trì chú, các bạn học cách phá tan sự trụ chấp của các bạn vào tính cứng đặc của thân; bằng cách tu hành tri giác thân các bạn như là thân trí huệ vô sanh, vô biên của Quán Thế Âm, các bạn có thể đạt đến trạng thái vượt thoát khỏi khổ đau. Thân thể của Quán Thế Âm, toàn khắp như bầu trời, thì chẳng phải thịt và máu cũng chẳng phải là cái gì cụ thể như một bức tượng. Hơn nữa, nó trong suốt như một cầu vồng, xuất hiện rõ ràng nhưng trống không và không có bản chất gì. Còn hơn nữa, Quán Thế Âm không chỉ là một hình ảnh – ngài đang sống, sáng rỡ với trí huệ, tình thương và thần lực, trả lời cho bất cứ ai chỉ làm một cử chỉ cầu nguyện hay trì tụng một biến manÏi.

Ngữ

61. Ý niệm hóa lời nói và âm thanh là điều gây ra vọng tưởng;

Nếu con nhận biết nó là thần chú, âm vang nhưng trống không, nó là Quán Thế Âm –

Không có cái gì khác ngoài Tiếng Rống của Sư Tử Thiêng Liêng.

Trong sự nhận biết âm thanh là thần chú, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Khi sự quán tưởng thân hóa thần của các bạn rõ ràng và ổn định, trì chú, như được diễn tả trong đoạn về ngữ kim cương, sẽ nâng cao thêm sự thực hành của các bạn. Chữ thứ nhất của thần chú Quán Thế Âm, OM, tiêu biểu năm trí huệ ; như chữ của tốt lành, nó bắt đầu của hầu hết thần chú. MANI nghĩa là “hạt ngọc”, PADME nghĩa là “hoa sen”, và HŪMÏ là chữ bày tỏ và khẩn cầu sự toàn giác của Quán Thế Âm. Toàn bộ thần chú có thể chuyển dịch thành : “Ngài, Hạt Ngọc Hoa Sen, xin hãy ban cho toàn giác của ngài.” Bằng cách lập lại danh hiệu ngài trong thần chú sáu âm, các bạn nhớ đến và cầu khẩn những phẩm tính vô biên của ngài, như thể các bạn đang kêu gọi ngài từ khoảng cách xa. Để trả lời, lòng đại bi của ngài biểu lộ không phải dụng công tác ý, đáp ứng mọi mong muốn của các bạn.

Để ban phước gia bị những chúng sanh, Quán Thế Âm đã quán đảnh trao truyền quyền lực cho thần chú của ngài thành giống như chính bản thân ngài. Nó là âm vang của tánh Không vô sanh. Được viết ra, thần chú giải thoát bởi sự thấy ; như là âm thanh nó giải thoát bởi sự nghe ; khởi lên trong tâm thức, nó giải thoát bởi sự nhớ niệm ; đeo trên thân, nó giải thoát bởi sự xúc chạm. Nếu các bạn làm cho mình quen tri giác mọi âm thanh như thần chú, các bạn sẽ không cảm thấy sợ hãi khi các bạn nghe những âm thanh kinh khủng của trung ấm. Qua thần chú của ngài, Quán Thế Âm thực hiện hoạt động bao la và bi mẫn của ngài trên một phạm vi vô cùng. Thế nên với sùng mộ nhiệt thành, nghe mọi âm thanh của vũ trụ như tiếng phản hồi của thần chú, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Tâm thức

62. Bám chấp vào những tri giác của tâm thức như là thật là sự mê lầm tạo ra sanh tử;

Nếu con để cho tâm thức trong trạng thái tự nhiên của nó, tự do với những tư tưởng, nó là Quán Thế Âm –

Không có cái gì khác ngoài sự Thoải Mái Thiêng Liêng trong Tâm Tối Hậu.

Trong tâm tối hậu, Pháp thân, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Người ta thường nói, “Hãy thiền định ! Hãy thiền định !” nhưng trừ phi các bạn đã thiết lập một cái hiểu vững chắc và không sai lầm về cái thấy tánh Không, cái gì là điểm để thiền định ? Không nhận biết bản tánh trống không của tâm thức chính là nguồn gốc đích thật của sanh tử. Bản tánh trống không này, với lòng bi nội tại vốn có của nó, được nhận biết khi tâm thức, tự do với những ảnh hưởng của tư tưởng, thức tỉnh với tánh giác đơn giản của cái hiện tại.

Thả lỏng dây cương, những tư tưởng tạo ra toàn bộ sanh tử. Không được nghiên cứu, khảo sát, chúng giữ lại những hình tướng biểu kiến của chúng và do đó sức mạnh để kéo dài sanh tử của chúng. Tuy nhiên không có tư tưởng nào, tốt hay xấu, có được hiện hữu sờ nắm được dù nhỏ nhất. Không có ngoại trừ nào, những tư tưởng đều hoàn toàn trống không, như một cầu vồng dù có xuất hiện rực rỡ và sống động năm màu trên bầu trời, cũng chẳng thể nào nắm bắt, mặc lấy như áo quần hay được dùng theo cách nào khác. Tánh Không tuyệt đối không biến đổi bởi bất kỳ thứ gì, ngay cả khi nó bị che đậy với cái thấy do những che ám mặt ngoài. Thật vậy, những che ám này không phải là những thứ có thật cần phải dẹp bỏ, bởi vì khoảnh khắc chúng ta nhận ra bản tánh trống không của chúng thì chúng biến mất hoàn toàn. Khi sự mê vọng của những tư tưởng che ám biến mất, tâm thức trở lại tự do và thanh tĩnh, an trụ trong tự tánh của nó một cách không khởi sức. Đây là ý nghĩa của danh hiệu Thoải Mái Trong Tâm Tối Hậu của Quán Thế Âm.

Bầu trời không bao giờ bị quấy nhiễu hay thay đổi bởi sự hợp tan của những đám mây. Bầu trời không nuôi hy vọng những cầu vồng sẽ khởi lên cũng không chịu thất vọng nếu chúng không khởi. Tâm kim cương của Quán Thế Âm không hề rời khỏi bản tánh tuyệt đối, bất kể hoạt động từ bi cho chúng sanh của ngài có rộng rãi hay tỏa khắp bao nhiêu. Xuất hiện cho chúng sanh trong vô vàn cách, trong thật tế ngài không bao giờ lìa khỏi tánh Không.

Quán Thế Âm là một với bản tánh bổn nhiên của tự tâm chúng ta; chớ tìm ngài ở đâu khác. Để chứng ngộ bản tánh này trong chính các bạn, hãy thỉnh cầu và nhận lãnh những lời dạy với lòng sùng mộ cảm thông sâu sắc và không giả tạo, rồi tham thiền chiêm nghiệm và đồng hóa chúng vào hiện thể của các bạn. Cuối cùng, các bạn sẽ thành tựu chứng ngộ tối hậu. Mọi khuynh hướng nghiệp và phiền não che ám sẽ tan biến, và các bạn sẽ biết trực tiếp tánh Không của tất cả hiện tượng. Đến điểm này các bạn sẽ thoải mái trong một trạng thái nghỉ ngơi, xa hẳn những hành hạ của sanh tử. Giống như một ông già thanh tĩnh xem những đứa bé đang chơi, các bạn sẽ nhìn thấy với sự bình đẳng thản nhiên trò chơi biểu diễn hằng hằng biến chuyển của những hiện tượng không thực.

Nếu các bạn thấy khó khăn khi quán tưởng những hóa thần với những trang sức, sự phóng ra ánh sáng, và mọi chi tiết khác, hãy đơn giản duy trì, giữ gìn sự nhận biết trạng thái bổn nhiên ; đây là yoga-tâm về Pháp thân và của Pháp thân. Xem mọi sự khởi lên trong hương vị đơn nhất của thực tại tuyệt đối, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Pháp thân

63. Mọi sự vật hiện hữu là dòng tương tục thanh tịnh bổn nhiên của Pháp thân ; Nếu con gặp Pháp thân mặt đối mặt, nó là Quán Thế Âm – Không có cái gì khác ngoài Bậc Tối Cao Thiêng Liêng của Vũ Trụ. Trong dòng tương tục của thanh tịnh toàn khắp, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Quán Thế Âm và tất cả chư Phật trong mọi phương diện của các ngài, hoặc trên cấp độ Báo thân hay Hóa thân, đều khởi từ nền tảng của Pháp thân. Pháp thân là cảnh giới tuyệt đối và bao la vượt khỏi mọi tạo tác trí thức. Nó bao gồm trong bản tánh của nó tất cả phẩm tính giác ngộ của Phật tánh.(66) Nó là trí huệ bổn nguyên đã ở cùng chúng ta từ thời vô thủy. Trí huệ vốn sẵn có này có thể được nhận biết qua những thực hành thiền định về an định và quán chiếu. An định là sự làm bình lặng trạng thái ồn náo bình thường của tâm thức, và quán chiếu là sự khai triển của sự nhìn thấy rộng rãi hơn và sự chứng ngộ sâu xa hơn kèm theo. Khi an định và quán chiếu hòa lẫn không thể phân chia, Pháp thân được chứng ngộ.

Khi các bạn tiến bộ theo con đường Bồ tát, liên tục hộ trì sự thực hành trong cả thiền định lẫn sau thiền định, cuối cùng các bạn đạt đến địa thứ nhất(67) và đi vào con đường nhìn thấy; gọi như thế bởi vì lần đầu tiên các bạn thực sự thoáng thấy thực tại tối hậu, bản tánh trống không của mọi sự vật. Kinh nghiệm này về tánh Không vẫn chưa đạt đến mức độ trọn vẹn của nó và phải được dần dần mở rộng qua mỗi mức độ liên tiếp nhau cho đến cuối cùng, tới địa thứ mười, khung dệt cấu thành của hai loại che chướng biến mất vĩnh viễn, và trí huệ kim cương bổn nguyên được hoàn toàn phát lộ. Các bạn đạt đến cái gọi là con đường không học nữa, mức độ của Phật tánh, nơi tâm thức là một với tâm trí huệ của Pháp thân. Người nào hoàn thành mức độ bất nhị này của giác ngộ thực sự hiện thân những lý tưởng cao nhất của tất cả trong ba cõi của cuộc sống.

Quán Thế Âm chính là Như Lai, tinh túy rốt ráo của Phật tánh, và mọi phẩm tính của Pháp thân sẽ khai triển không cần cố gắng qua sự trì tụng thần chú sáu âm của ngài.

 

KẾT LUẬN BÀI GIẢNG THỨ HAI

64. Một bổn tôn, Quán Thế Âm, hiện thân của tất cả chư Phật ;
Một thần chú, sáu âm, hiện thân tất cả thần chú ;
Một Pháp, Bồ đề tâm, hiện thân cả thảy những thực hành của hai giai đoạn phát triển và thành tựu.
Biết cái một giải thoát cho tất cả, hãy trì tụng thần chú sáu âm.

Bản thân Phật Thích Ca Mâu Ni là một xuất sanh của Quán Thế Âm ; Pháp, cái chỉ cho chúng ta điều cần tránh và điều cần trau dồi, thì hoàn toàn chứa đựng trong thần chú sáu chữ; Tăng, những Bồ tát giúp đỡ chúng ta suốt con đường, cũng là những xuất sanh của Quán Thế Âm. Như thế Quán Thế Âm là sự hợp nhất của Tam Bảo. Như một hồ chứa tích trữ những giọt mưa, lòng bi của Quán Thế Âm bao gồm tất cả trí huệ của Manjushri (Văn Thù) và tất cả năng lực của Vajrapani (Kim Cương Thủ). Với một hóa thần bổn tôn, một thần chú và một thực hành này, các bạn có thể thành tựu mọi sự.

Những hóa thần thì vô cùng khác biệt: an bình hay hung nộ, với một, ba hay nhiều đầu, và với hai, bốn, sáu hay nhiều hơn nữa các cánh tay, mỗi cái tượng trưng một phẩm tính khác nhau. Tuy nhiên các bạn có thể tin rằng tất cả chúng đều bao hàm trong Quán Thế Âm. Theo cùng cách ấy, bởi vì tất cả năng lực lợi lạc của vô số thần chú khác được bao gồm trong thần chú sáu âm, các bạn có thể đem tất cả lòng mình để trì tụng chỉ một thần chú. Thân, ngữ và tâm thức các bạn tự nền tảng là một với thân, ngữ và tâm của Quán Thế Âm ; các bạn cần nhận ra điều này như là tinh túy của sự thực hành.

Đồng thời, để theo trọn con đường giác ngộ đến mục tiêu tối hậu của nó, điều sống chết là thường trực duy trì và làm mạnh thêm thái độ bao la của Bồ đề tâm. Theo những giáo huấn cốt lõi của những bậc thầy Kadampa quý báu, trước tiên các bạn được đưa vào bản tánh của tâm, Bồ đề tâm tuyệt đối, và rồi các bạn trau dồi lòng bi với tất cả chúng sanh, tức là Bồ đề tâm tương đối.

Thật là khó khăn nếu đem cái tâm thức hoang dã vào dưới sự kiểm soát mà trước tiên không nhận biết rằng những tư tưởng lang thang trong thật tế không bao giờ sanh và do đó không bao giờ có thể trụ cũng không thể diệt. Với sự nhận biết này, không theo đuổi những tư tưởng khi chúng khởi lên mà chỉ an trụ trong sự đơn giản không cách hở của trạng thái tự nhiên vốn vậy của tâm, đó là cái được gọi là Bồ đề tâm tuyệt đối.

Một khi các bạn có một thoáng thấy bản tánh của tâm theo cách này, sự chứng ngộ Bồ đề tâm tuyệt đối của các bạn được sâu xa thêm qua sự trau dồi Bồ đề tâm tương đối trong hai phương diện của nó: ước mong thành tựu giác ngộ vì tất cả chúng sanh và thật sự đem nguyện vọng ấy vào thực hành. Như chúng ta đã thấy ở trước, chỉ mong muốn giúp đỡ người khác thì không đủ. Các bạn phải đảm trách việc làm lợi lạc thật sự cho tất cả chúng sanh, giống như Quán Thế Âm, và chính vì để hoàn thành mục đích này mà các bạn quán tưởng Quán Thế Âm, trì tụng thần chú của ngài và thiền định về bản tánh của trí huệ ngài. Khi các bạn liên tục thực hành theo cách này, những tư tưởng hư vọng càng lúc càng trở nên ít đi, trong khi trí huệ nở hoa trong hiện thể của các bạn, cho phép các bạn đáp ứng những nhu cầu tức thời và tối hậu của chính các bạn và tất cả những người khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567