Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

12/04/201107:13(Xem: 6488)
Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

THIỀNTÀO ĐỘNG NHẬT BẢN
Nguyêntác:Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
ChùaViênGiác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu– Úc Châu ấn tống 2008

Chươngbốn:
Sinh HoạtTín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

V. Sinh HoạtTín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ

V.1 Ý NghĩaCủa Sự Sinh Hoạt Tín Ngưỡng

V.1.1ĐànTín Đồ Nghĩa Là Gì?

Ởtrong chùa, có hai cách gọi là Đàn Đồ và Tín Đồ, song thôngthường gọi là Đàn Tín Đồ. Được gọi là Đàn Tín Đồlà những người tự tộc (gia tộc của vị Tăng) như vịphối ngẫu (vợ) của Trụ Trì và những người thân cậnhiện đang sống trong chùa.

Nhưđã giới thiệu sơ qua ở phần Tăng lữ phía trước. “TàoĐộng Tông Tông Hiến” của “Tào Động Tông Tông Chế”định nghĩa Đàn Đồ là “những người sống trong Tự Việnkính tín Tông Chỉ của Bổn Tông, nương tựa và vâng thuậnsự giáo hóa của Thầy Trụ Trì, có trách nhiệm hộ trì TựViện và Bổn Tông, có thẻ Đàn Đồ được ghi vào danh sáchĐàn Đồ của Tự Viện.”

CònTín Đồ thì định nghĩa như sau: “những người không phảilà Đàn Đồ của tự viện, song có nhân duyên đặc biệtquy y với Thầy Trụ Trì, hết lòng phụng sự và hộ trì TựViện, được ghi vào sổ Tín Đồ của Chùa.”

Nhưsự trình bày về Giáo Đoàn, vì nhu cầu Phật Sự ở Chùavà cần có mối quan hệ giữa Thầy Trụ Trì và Chùa, cho nênvị trí Đàn Tín Đồ được thiết lập. Thế nhưng dù Chùanào đó và Thầy Trụ Trì không thiết định tư cách ấy đinữa, hoặc Chùa không có sổ Đàn Tín Đồ đi nữa, nhữngai kính tín, hiểu rõ và thực hành lời Đức Thích Tôn dạy,lời Thiền Sư Đạo Nguyên dạy, lời Thiền Sư Oánh Sơn dạy,trong ý nghĩa rộng rãi, vẫn không thể không được chấpnhận là Đàn Tín Đồ của Tông Tào Động, dù họ không đượcquan tâm.

V.1.2Vì Sao Sự Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Lại Quan Trọng?

Thậtra, nếu hỏi một người được gọi là Đàn Tín Đồ củaTông Tịnh Độ trên danh nghĩa, rằng tại sao trở thành mộtTín Đồ theo tín ngưỡng Tịnh Độ, câu hỏi ấy trở thànhvô nghĩa, bởi vì tùy theo thời gian mà họ xác định sinhhoạt tín ngưỡng như thế nào, nhưng đối với người tuThiền Phật Giáo của Tông Tào Động lại rất quan trọng,không phải để thay đổi Tông Phái, mà để duy trì và tạothiện duyên vững chắc trong mọi sinh hoạt xã hội.

Lýtưởng của Đạo Phật đem ánh sáng Từ Bi và Trí Tuệ soisáng bản thân, chuyển hóa cuộc đời trở nên an lạc vàgiáo hóa, hổ trợ, cứu giúp mọi người. Tăng Sĩ hay ĐànTín Đồ cũng thế thôi. Nếu Tăng lữ thực thi lý tưởngtheo chuyên môn, thì Đàn Tín Đồ có tính cách cụ thể. Dùcó sự giống nhau về nguyên tắc cơ bản Tăng lữ giữa ĐànTín Đồ nhưng nói đúng hơn, về phương diện sinh hoạt tínngưỡng, Đàn Tín Đồ dễ duy trì, thực hiện và nối kếtsinh hoạt xã hội mạnh mẽ và rộng rãi hơn so với Tăng lữ.

Thếkỷ thứ 21 được mệnh danh là thời đại Tôn Giáo và thếkỷ tâm linh. Phật Giáo gần đây đã trở thành tôn giáo quốctế, số lượng người quan tâm, tìm hiểu đạo Phật kháđông. Vì sao? Bởi vì trật tự trên hành tinh nầy bị rốiloạn rồi. Thế giới liên tục xảy ra những trận xung độtdữ dội giữa các thế lực đối lập. Con người chỉ locho chính mình, không nghĩ đến tha nhân. Những điều như thếdiễn ra đầy dẫy khắp nơi làm cho người ta hoảng sợ vàla lên tình trạng thế giới đã nguy hiểm quá rồi, ngườita làm việc mà không cần thiết phải suy nghĩ, mà dù có suynghĩ cũng chỉ là quyết định một bên, không sao có thểthay đổi những biến động kinh khủng của thế giới. Ngườita tự hỏi những điều ấy có đúng với thực tế không?Cái gì là không thật? Đôi khi, vì không nhận được lờikhuyên hữu ích nào cả, sự tức giận càng tăng thêm, làmsao ngăn chặn lại được?

Bâygiờ, Văn Hóa vẫn dựa trên nền tảng kinh tế và vật chất.Văn minh phát triển đến thời cực thịnh. Dù không bị ảnhhưởng vật chất một cách trực tiếp theo định luật nhânquả, song tinh thần, sự rung động con tim, sự phản tỉnhcũng theo đà ấy mà xung lên, chìm đắm trong chủ nghĩa tựkỷ, để cho tâm hồn trở nên hoang phế, ngày càng lạnh nhạtvới sự liên hệ giữa con người và con người và đạo đức,luân lý dần đưa đến thời kỳ suy thoái.

Mộtđiều chắc chắn rằng là con người, chúng ta có đầy đủkhả năng của một sinh vật, cho nên phải chận đứng thamdục, phải biết dừng lại. Chỉ chừng ấy thôi, con ngườicũng có thể giữ được vị trí của mình. Tâm lý tự tíncó thể tạo cho con người trở nên khoa trương như là conngười, một sinh vật tuyệt vời, có tư cách vĩ đại, khôngchịu khuất phục trước mọi giới hạn. Tuy nhiên, dù thếnào đi nữa, hãy so sánh với kẻ khác, đừng nghĩ rằng cóđược năng lực lớn như vậy, bởi vì những gì mình suynghĩ thường không hoàn toàn đúng, nếu một mai bị gãy đổ,sẽ rơi vào hố thẳm thất vọng. Có người hỏi rằng tạisao lại cay đắng như thế? Thật ra, ai cũng có thể cảm nhậnđược điều đó.

Xãhội Nhật Bản ngày nay đã đô thị hóa. Cuộc sống gặpnhiều khủng hoảng bất an. Cuộc đời dần dần tiến đếnchỗ cô độc làm cho con người tự hỏi tại sao mình phảisống, thật là khó hiểu. Càng suy nghĩ càng thêm bế tắc.Mọi việc bất ổn trở thành bất ổn hơn. Con người nhưkhúc hát trầm lắng sâu xa chìm sâu trong hố thẳm nội tâm,rất mong mở một con đường mới nhưng chưa làm được.

Vớinội tâm chìm trong sâu thẳm, làm sao cuộc sống không rơivào thụ động? Làm sao nắm được tay người đối diệnđể cùng vui? Đã có mấy ai trút hết nước mắt cho ngườikhác? Chỉ cần trả lời được điều nầy nghĩa là nănglượng từ bi đã được chuyển trao từ tâm nầy qua tâm khác.Con người có nhiều suy nghĩ khác nhau, mỗi suy nghĩ lại thayđổi liên tục, chỉ còn lại tấm lòng, làm sao giữ lạicái nguyên sơ ấy? Dù chính trị, kinh tế cũng quan trọng songchúng ta phải hiểu rằng nếu chỉ có những việc ấy, cuộcđời có gì là lạ? Vả lại, trong cuộc sống vật chất conngười tương nhượng để tồn tại, nhưng phải nhận ra đâulà căn nguyên, để hướng đến đời sống tinh thần, màở đây nói rõ là đời sống tín ngưỡng.

Mộtlần nữa, gọi là đời sống tín ngưỡng, với Phật Giáocũng chỉ là cách gọi bằng ngôn ngữ mà thôi, bởi vì chínhtâm lòng tín ngưỡng mới thật sự sinh ra tín tâm, thân thiệnvà gần gũi. Phật Giáo là một Tôn Giáo tự giác, hướngnội nên sử dụng ngôn từ tín ngưỡng rộng rãi hơn.

V.1.3Nhiều Đời Sống Tín Ngưỡng Khác Nhau

Khôngphải chỉ Phật sự ở chùa, mà tất cả các Pháp sự nhưđám ma, tảo mộ v.v...dường như hiện lên những hình ảnhtiêu cực, nhưng thật tế Pháp Sự ma chay, thăm mộ v.v... nầylà những lễ nghi quan trọng, những việc làm cần thiết trongđời sống tín ngưỡng của con người, chẳng có gì sai trái.
Ngàynay,những hội nghiên cứu như nghiên cứu công nhân, lo lắngsức khỏe vận động viên thi thể thao, điều nghiên nhữngphiền não trong cuộc sống của con người, để giúp họ giảiquyết. Thật ngạc nhiên vì có nhiều người đi chùa đểlễ bái, cầu nguyện, Tu Bát Quan Trai một ngày một đêm, ViếtKinh, Họa Tượng Phật, Nhịn Ăn, Khổ Hạnh, Tụng Kinh, NiệmPhật, Tọa Thiền v.v... Hầu như chùa nào trên nước Nhậtcũng bận rộn, vì có nhiều người tham gia Phật sự như thếvà số Tín Đồ tại gia phải nói rằng càng ngày càng tăng.

Cóý kiến cho rằng hãy thử đến chùa một tuần lễ ngồi thiền,dù chưa làm mình thỏa mãn điều gì đó nhưng vẫn có ý nghĩanào đó chẳng phương hại gì cả. Song trong điều kiện chophép, nên sống đời sống tín ngưỡng để lòng thanh thảnvà trong sáng hơn, nhờ đó mà vượt qua được nhiều trởngại.
TôngTàoĐộng phân loại đời sống tín ngưỡng của Đàn TínĐồ rất rõ ràng. Có những nghi lễ và pháp sự dành cho chưTăng nhưng Tín Đồ có thể tham dự. Có những nghi lễ vàPháp sự dành riêng cho Đàn Tín Đồ song cung thỉnh Tăng lữđến chứng minh. Có nhiều trường hợp tổ chức theo tư cáchcá nhân hay đoàn thể, xã hội. Có trường hợp tổ chứcđịnh kỳ hoặc tạm thời. Có nhiều loại khác nhau, khó màphân biệt hết. Thông thường có một vài nghi lễ và Phápsự chính như: Tụng Kinh buổi sáng, buổi tối, Thọ Giớidành cho người tại gia, người xuất gia, Nghi thức kết hôn,Tọa Thiền Hội, Nghiên Cứu Hội, Kỵ giỗ ông bà, Phật sự,Pháp sự, Hành sự của chùa, công việc xã hội, hoạt độngphụng sự v.v...

III.2 ThấtĐường Già Lam

III.2.1SựThay Đổi Kiến Trúc Của Tự Viện

GiàLam, nguyên ngữ bằng tiếng Sanscrit cổ, Ấn Độ là Shangarama,còn gọi là Tinh Xá, Chùa, Tự Viện. Kiến trúc Tự Viện NhậtBản ảnh hưởng trực tiếp từ bán đảo Triều Tiên, giántiếp từ Trung Hoa. Từ thời Bình An (Heian), mỹ thuật kiếntrúc Nhật Bản mô phỏng theo hai dạng mỹ thuật kiến trúcTriều Tiên có từ thời Phi Điểu, và mỹ thuật Trung Hoa từthời nhà Đường. Đến thời Kamakura, lối kiến trúc đóbị loại bỏ đi thay bằng lối kiến trúc thời Tống (TrungHoa) hòa với lối kiến trúc thời Thất Đinh. Đến thời ĐàoSơn mỹ thuật kiến trúc trở nên đẹp vô cùng, tạo nênphong cách mỹ thuật đặc biệt của thời đại nầy. Cònthời đại Giang Hộ (Edo), lại theo phong cách đơn giản, hiệnđại và độc lập, theo lối phong cách Âu Châu.

Kiếntrúc Chùa, đặc biệt vào thời Kamakura thể hiện trọn vẹnphong cách Thiền ảnh hưởng mô thức Trung Hoa thời Đường,còn gọi là phong cách Thiền Tông, có nhiều điểm giống LâmTế Tông, Hoàng Bích Tông, Tào Động Tông, hẳn nhiên cũngkhông thiếu nhiều điểm khác biệt đặc thù.

III.2.2Già Lam Của Tào Động Tông Là Nơi Chính Để Tu Hành

ThiềnSư Đạo Nguyên phối hợp những phiên bản Tự Viện TrungQuốc và Ấn Độ, suy nghĩ kiến tạo đạo tràng trang nghiêmcủa Tông Tào Động. Chùa Vĩnh Bình kiến tạo mô phỏng theoChùa Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức ở tỉnh Chiết Giang, TrungHoa (bây giờ gọi là Thiên Đồng Tự). Tông Tào Động vẫnsử dụng từ “Thất Đường Già Lam“ có lẽ từ thời GiangHộ (Edo), không có căn cứ nào chỉ cho nguyên thỉ của chữnầy. Song cũng có thuyết cho rằng Tông Tào Động gọi làThất Đường Già Lam cho những ngôi Chùa đầy đủ 7 gian như:Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường, Khố Viện, Tăng Đường,Dục Thất và Đông Ty. Ngoài ra, Chùa còn có tháp 3 tầng, tháp5 tầng hay Đa Bảo Tháp, Xá Lợi Tháp v.v... những tháp nầykhông gồm chung trong Thất Đường Già Lam. Chùa Thiền hay đặcbiệt là Chùa của Tào Động Tông không có Tháp, nếu có,tháp được xây sau hoặc là xây với lý do nào đó, còn Chùathuộc Tông Pháp Tướng và Tông Chơn Ngôn có xây tháp.

Hìnhthức Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động theo thứ tựtừ bên ngoài đi vào là: Sơn Môn, Phật Điện, Pháp Đường,bên mặt là Khố Viện, trước có Dục Thất (phòng tắm rửa),bên trái là Tăng Đường, trước có Đông Ty (nhà vệ sinh).Tất cả đều có hành lang bao bọc xung quanh trở thành mộthình vuông vức. Ngoài Thất Đường còn có những tòa nhàliên quan được xây dựng thêm. Càng về sau, ở những ngôichùa nhỏ Thất Đường đơn giản chỉ còn Bổn Đường (ChánhĐiện), Khố Lý (nhà kho), Khai Sơn Đường (Chỗ Thờ Tổ),Vị Bia Đường (nơi thờ vong). Cũng có nhiều hình thức biếndạng khác như thêm lầu chuông hay cổng tam quan, song chỉ lànhững trường hợp riêng biệt mà thôi. Nói chung các chùađều giống nhau như thế, bởi trước nhất phải hợp vớikhả năng cho nên phải đơn giản, sẽ giải thích rõ về ThấtĐường Già Lam dưới đây.

III.2.3Sơ Lược Về Thất Đường Già Lam

SơnMôn vừa chỉ cho cổng chính vào Chùa, vừa chỉ cho thế giớithanh tịnh, không có phiền não khổ đau. Cổng chùa thườngcó ba cửa, cửa lớn ở chính giữa, hai cửa nhỏ ở hai bên,còn gọi là Cổng Tam Quan, cũng gọi là Tam Môn. Ngoài ra, còncó những tên khác là: Quán Mộc Môn, Dược Y Môn, Anh Môn,Nhị Trọng Môn v.v... Tông Tào Động thường dùng Anh Môn vàNhị Trọng Môn. Ở phần hai bên trước cổng, thường an trícác vị Nhơn Vương. Trên Anh Môn (lầu) thường đặt tượngPhật, Bồ Tát hay các vị La Hán. Trên cao, treo một Phạn Chung(Đại Hồng Chung). Nếu chùa lớn, ngoài Sơn Môn còn có TổngMôn (chỉ có một cửa ra vào), Tam Tùy Quan, Đống Môn, DượcY Môn và Sắc Sứ Môn còn gọi là Hương Đường Môn.

ĐiệnPhật còn gọi là Đại Hùng Phong Điện, Đại Hùng Điện,Đại Điện v.v... tọa lạc ngay chính giữa, trong đó có TuDi Đàn thờ Đức Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni ngay trung tâm, haibên trái phải của Phật, mỗi bên an trí một tượng BồTát. Đa phần, thờ Đức Phật Thích Ca ở giữa (vị khai Tổcủa Phật Giáo). Tôn Giả Ca Diếp trưởng tử Phật, Sơ TổThiền Tông. Tôn Giả A Nan đệ tử thị giả của Đức PhậtThích Ca, vị Tổ Sư thứ hai, thị giả hầu Phật được nghenhiều lời giảng nhất. Ngoài ra, còn thờ Tam Tôn Phật: ĐứcPhật Thích Ca Mâu Ni (biểu hiện Đức Phật trong hiện tại),Đức A Di Đà Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong quá khứ).Đức Di Lặc Như Lai (biểu hiện Đức Phật trong tương lai).Tam Tôn Phật cũng còn được hiểu là: Đức Phật Thích CaMâu Ni, Bồ Tát Văn Thù (biểu trưng cho trí tuệ Phật) vàBồ Tát Phổ Hiền (biểu trưng hạnh nguyện Phật). Phía đôngcủa Phật Điện (từ ngoài nhìn vào phía bên mặt) thờ ĐànThổ Địa hay thờ Bồ Tát Chiêu Bảo Thất Lang Đại QuyềnTu Lý. Phía Tây (phía trái từ ngoài nhìn vào) là Tổ Sư Đàn,thờ Sơ Tổ Đạt Ma. Thông thường bàn thờ làm bằng gạchhay đá, có chỗ để bày dâng lễ cúng. Đặc biệt, phầnnghi lễ được tổ chức tại Phật Điện.

PhápĐường là nơi vị Trụ Trì thuyết Pháp cho Tăng sĩ đang tutập. Khi thuyết Pháp vị Trụ Trì được cung kính như đạidiện chư Phật, chư vị Tổ Sư có trách nhiệm truyền traogiáo Pháp cho thính chúng, cho nên trong Pháp Đường không thiếttượng Phật nào cả. Tại Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự, cóđặt tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát biểu trưng tâm từbi bao la của Phật, một lý do khác, như đã trình bày ở trước,ở Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự, Tổ Đường chính là PhápĐường, nơi đó là Đại Tổ Đường được xem là một ĐạoTràng thuyết pháp của Tổ khai sơn Thiền Sư Oánh Sơn. GiữaTổ Đường là Pháp Đường cũng còn có ý nghĩa là tôn trọnggiữ gìn lời giáo huấn của Tổ. Tại Đại Tổ Đường nầy,đàn trên cao ở chính giữa, thờ tượng Tổ khai sơn ThiềnSư Oánh Sơn, hai bên trái phải thờ Thiền Sư Đạo Nguyên,Cao Tổ và thờ Thiền Sư Nga Sơn Chiêu Thạc, vị Tổ thứhai của Tổng Trì Tự. Ngoài ra, các tượng của chư vị TổSư cũng được thờ tại đây. Tại Pháp Đường thường cónhững thời Kinh sáng, trưa, tối và hầu như tất cả nghilễ quan trọng đều cử hành tại đây.

KhốViện hay Khố Lý thờ tượng Vi Đà Thiên và tượng ĐạiHắc Thiên còn gọi là Đài Hương Tích, vừa là nơi chứathực phẩm cho chư Tăng thường trụ và khách Tăng, vừa lànơi thâu nhận thực phẩm cúng dường, cũng là chỗ xay thóc.

DụcThất, nhà tắm, có thờ tượng Tôn Giả Bạt Đà Bà La. TrongChùa, Tăng Đường, Đông Ty và Dục Thất là ba nơi cần phảigiữ thật trang nghiêm yên tĩnh, tuyệt đối cấm không đượccười đùa, nói chuyện riêng tư, không được tạo ra âm thanhồn ào. Ngay cả, tắm rửa kỳ cọ thân thể cho thanh tịnhcũng quan trọng như những việc tu hành khác.

TăngĐường có nơi gọi là Vân Đường, cũng còn gọi là TuyểnPhật Trường, mà những chữ nầy được treo ngay ở chínhgiữa. Thông thường người ta còn gọi nơi nầy là Tọa ThiềnĐường nhưng Tông Tào Động không gọi là Tọa Thiền Đườngvì gọi như thế nghĩa là phân biệt chỗ hành thiền khácvới nơi ăn uống. Tăng Đường là nơi mà chư Thánh Tăng vàchư Bồ Tát thường lui tới, vốn gọi là Thánh Tăng Đường.Trong Thất Đường Già Lam của Tông Tào Động cũng có nhữngnơi quan trọng biểu trưng hiện hữu của Thần Thánh, cũngcó thể gọi là nhiệm mầu thiêng liêng, mà tuyệt đối khôngai, cả người trong Chùa lẫn người ở ngoài tự ý vào được.

Đồngthời, Tăng Đường chia làm hai phần, bên ngoài là nơi dùngcơm, uống nước của chư Tăng, bên trong còn gọi là NộiĐường hay Đường Nội thờ chư vị Thánh Tăng như Bồ TátVăn Thù, Bồ Tát Quan Thế Âm, cũng có Chùa thờ Tôn Giả KiềuTrần Như, trên cái Trang ngay chính giữa. Bên dưới thiếtkế những chỗ ngồi thiền, gọi là Trường Liên Sàng, lànhững cái đơn cao chừng một mét, rộng chừng một chiếcchiếu (Tatami), để ngồi Thiền mặt hướng vào tường hoặccửa sổ.

Còncó những cái Đơn khác gọi là Hàm Quỹ, mặt bằng độ chừng30 cm làm bằng gỗ, bên trong Hàm Quỹ (cái rương) đựng yáo và bình bát, phía dưới trải ra làm chỗ nghỉ, còn gọilà Tịnh Duyên, bởi vì chỗ nầy, vật nầy cũng dùng đểlàm nơi ăn uống. Tịnh Duyên có ý là ăn uống trong sạchthanh tịnh. Ngay cả ở bên ngoài cũng có kê những chiếc Đơnnhư thế.

Bênngoài còn có những giá treo chuông gọi là Tăng Đường Chuông,Ngoại Đường Chuông và có cả Pháp Cổ (trống) cũng nhưnhững pháp cụ khác để báo hiệu khi cần thiết. Những việcnhư đọc sách, viết lách, cạo tóc, khâu vá v.v.., đều thựchiện trong liêu chúng. Mô hình liêu chúng là giữa liêu đặttượng Bồ Tát Quan Thế Âm, hoặc tượng Hư Không Tạng BồTát, chỉ có Hàm Quỹ (cái rương) và Tịnh Duyên (chỗ ăn)và liêu chúng gần Tăng Đường.
ĐôngTylà Tiện Sở (cầu xí) cũng còn gọi là Tây Tịnh, nhưngchữ nầy bây giờ không còn dùng đến nữa, ở nơi nầy thườngđể tượng Điểu Sô Sa Ma Minh Vương.

III.2.4Trường Hợp Những Tự Viện Thông Thường

Tómlại, các vấn đề xây dựng như thế nào, ai xây, xây ởđâu, khi nào của các chùa thuộc Tông Tào Động lệ thuộcvào vấn đề xã hội địa phương và nguyện vọng của mọingười nữa. Thật ra, mỗi chùa có mỗi điều kiện, mỗitính cách và mỗi mục đích khác nhau, không thể phán đoánchung chung được, tuy nhiên, có thể phân loại ra như sau:

Thứnhất, Tu Hành Tự là tự viện như một đạo tràng dùng đểtu tập và tọa thiền. Những tự viện nầy vốn có liên hệvới Tông Tào Động từ xưa, như Lưỡng Đại Bổn Sơn, màdù cho chùa ấy có gì đặc biệt đi chăng nữa, thì vấn đềcăn bản vẫn là chỗ để tu hành theo Tông Tào Động

Thứhai, Bồ Đề Tự là tự viện để lễ bái và phụng thờNgài Hoằng Pháp Đại Sư, Ngài Quan Thế Âm, Thất Phước Thần,Linh Trường, thường thấy nơi các chùa thuộc Tông Pháp Tướng,Tông Hoa Nghiêm, Tông Thiên Thai, Tông Chơn Ngôn v.v... về saudù đã đổi sang Tông Tào Động nhưng vẫn còn giữ tôn phongcũ.

Thứba, Kỳ Thọ Tự là chùa thờ Đức Quan Âm, Ngài Dược Sư,Ngài Địa Tạng, Ngài Bất Động, các vị Tổ Sư, Thần Lúa,Thiên Cẩu v.v... vì nhu cầu của mọi người đến tự việnlễ bái cầu nguyện.

Thứtư, Quán Quan Tự là chùa lịch sử danh lam thắng cảnh, gầngũi mọi người và cảnh trí đẹp, được nhiều người tớilui vãn cảnh.

Tuynhiên, trừ Lưỡng Đại Bổn Sơn và những tự viện lớn,còn các chùa thuộc Tông Tào Động về hình thức căn bảnlà những Già Lam theo mô hình: Sơn Môn, Bổn Đường, Khai SơnĐường, Vị Bi Đường, Khố Lý, Chung Lầu, Tọa Thiền Đườngv.v... mà chúng ta lần luợt tiếp xúc với những phần nầy.

SơnMôn thờ tượng Nhân Vương, trên lầu cao thờ tượng Phật,Bồ Tát, nhưng cũng có nơi không có, bởi vì những chùa nhỏnhiều khi không có Sơn Môn (cửa ra vào) nữa, đôi khi chỉkhắc tên chùa trên phiến đá thay cho cổng tam quan.

BổnĐường cũng còn gọi là Phật Điện hay Pháp Đường, bêntrong thờ Bổn Tôn, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc thờ TamTôn, song chính giữa vẫn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thếnhưng, tùy theo sự thành lập của tự viện, có những đặcthù riêng, không phải hoàn toàn giống nhau, có chùa thờ ĐứcA Di Đà Như Lai, Đại Nhật Như Lai, Dược Sư Như Lai v.v...có chùa thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng VươngBồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Bất Động MinhVương, Biện Tài Thiên và cũng còn nhiều tượng khác nữa.Tựu trung vẫn là hình tượng chư Phật và chư Bồ Tát màở đây có thể rõ thêm rằng đó là đặc trưng Phật tánhcủa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rộng lớn bao la như thế.

Trênbốn bức tường chung quanh Bổn Tôn trong Chánh Điện thườngcó 18 vị A La Hán. Hai bên tả hữu của Bổn Tôn thường thờtượng Chiêu Bảo Thất Lang Đại Quyền Tu Lý Bồ Tát và tượngĐạt Ma Đại Sư. Sau Chánh Điện ngăn ra hai bên phải tráithờ linh vị của Tín Đồ Phật Tử.

TạiBổn Đường (Chánh Điện) sáng, trưa, tối đều có tụngKinh, nơi đây thường cử hành những nghi lễ cầu an, cầusiêu, thuyết pháp, lễ hằng thuận v.v...

KhaiSơn Đường tiếp giáp sau Bổn Đường, ở giữa thờ NgàiCao Tổ Đạo Nguyên Thiền Sư hay Thái Tổ Oánh Sơn Thiền Sư.Ngoài hai vị Tổ Sư, còn thờ tượng bằng gỗ của vị HòaThượng khai sơn chùa ấy nữa. Hai bên phải trái thờ tượngcủa các vị Trụ Trì, linh vị của những người sáng lậpchùa, nơi đây cũng thờ linh vị Tín Đồ nữa, miễn sao ởgiữa có nơi làm lễ là được. Phía trước còn bàn kinh,có gối để lạy, có chuông mõ hai bên.

VịBi Đường là nơi linh vị Tín Đồ. Thông thường có thểthờ ở phía sau Chánh Điện hay Khai Sơn Đường, nhưng tùyđịa phương Vị Bi Đường được xây riêng một nơi biệtlập bên ngoài Bổn Đường hay Khai Sơn Đường. Ở giữa,thờ tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Mỗi gia đình có mỗibàn thờ nhỏ và tự quản lý, cúng dường và tự mỗi giađình đến chùa chăm sóc lấy.

KhốLý được xây dựng ở bên phải Chánh Điện và mặt hướngvề Chánh Điện. Nơi đây gồm có hành lang, phòng tiếp lễvật, phòng khách, phòng ở của vị Trụ Trì, phòng ở củagia đình Trụ Trì, phòng sinh hoạt, phòng chuẩn bị, phòngăn, phòng tắm, nhà vệ sinh v.v... Tùy theo chùa, Khố Lý lớnhay nhỏ, có chùa Khố Lý còn lớn hơn Chánh Điện nữa.

TọaThiền Đường được xây dựng phía bên trái hướng về ChánhĐiện, đối diện tương xứng với khố lý. Cũng tùy điềukiện đất đai, đôi khi được thiết lập ngay tầng dướicủa Khai Sơn Đường, những chùa không có Tọa Thiền Đường,có thể dùng Chánh Điện hay Khai Sơn Đường thay thế.

LầuChuông được thiết kế ở một góc vườn. Mỗi sáng tốithỉnh chuông nhứt định vào một thời điểm nào đó. Chùanào không có lầu chuông, thường treo chuông bên ngoài cửahay bên trong Chánh Điện.

Ngoàira, trong vườn còn xây những nơi như: Đại Sư Đường, TrấnThủ Đường, Đạo Hà Đường (nơi thờ Thần Lúa), ThầnXã, Sáng Khố v.v...

III.2.5Công Việc Của Các Vị Tăng

GiàLam không phải chỉ thờ Phật, mà với người sống, nơi đâylà những Đạo Tràng tu hành để thành Thánh, thành Phật.Già Lam của các chùa tu Thiền, như đề cập ở trên, đượctổ chức theo thể thức sinh hoạt cộng đồng với mục đíchtu hành. Riêng Thiền Tông, đặc biệt Tào Động Tông, có sựphối trí khác biệt. Chư Tăng ở chùa tu hành, tất cả nhấtđịnh phải phân công công việc để làm, không ai không làmviệc, những công việc từ thời Lưỡng Tổ Đại Sư cho đếnbây giờ vẫn thế. Được gọi là người tu, việc đầu tiênở chùa, phải có khả năng làm việc hiệu quả. Không nhữngchỉ riêng người tu ở chùa Tu Hành Tự, mà cho tất cả nhữngtự viện lấy chùa Tu Hành Tự làm căn bản. Chư Tăng trongchùa phải làm việc được giải thích như sau:

TrụChức nghĩa là viết tắc của Chức Trụ Trì, người có tráchnhiệm lớn lao đối với chùa. Với tư cách là “Tôn GiáoPháp Nhơn” đại biểu cho chùa đó. Nếu chùa lớn, cũng cònxưng là Sơn Chủ thay cho Trụ Trì, đôi khi thay đổi gọi làĐường Đầu Hòa Thượng, mà thông thường gọi là PhươngTrượng, Đường Đầu hoặc Hòa Thượng. Có nơi gọi vịTrụ Trì là Ojutsusan và Hòa Thượng là Ossan.

QuảnThủ là Chức Vụ của hai đại Bổn Sơn, cũng còn gọi làQuản Thủ Đại Bổn Sơn Vĩnh Bình Tự và Quản Thủ ĐạiBổn Sơn Tổng Trì Tự. Ở hai Đại Bổn Sơn còn có vị PhóQuản Thủ, vị thứ hai sau Quản Thủ nữa.

TâyĐường là nơi ở của những vị Cao Đức do vị Trụ Trìcung thỉnh đến để chỉ đạo các Phật sự, bình thườngvị Tăng nầy đứng sau vị Trụ Chức.

GiámViện nghĩa là người thay thế vị Trụ Trì, làm Tổng Quảnquán sát tất cả những công việc và mọi vấn đề hànhchánh của chùa. Trước đây, vị nầy đứng đầu trong bảngLục Hòa, mà có nơi gọi là Giám Tự. Ngoài ra còn có PhóGiám Viện thay thế việc điều hành mỗi khi vị Giám Việnvắng mặt .

HậuĐường là chỗ hành trì của vị Tăng trực tiếp chỉ đạo.

ĐơnĐầu là ngôi vị thứ hai của vị Tăng ở Hậu Đường đanghành trì và trực tiếp chỉ đạo.

PhóTự là vị Tăng lo việc chi tiêu của chùa, lo trọn một trong6 phép hòa kính.

TriKhố là vị Tăng lo quản lý thức ăn, tiền bạc và giúp đỡcho vị phó Trụ Trì.

DuyNa là người giúp đỡ cho vị Hậu Đường và Đơn Đầu,chỉ đạo và hướng dẫn chư Tăng tu hành, quản lý Tăng Đường,tụng khai Kinh và hồi hướng mỗi thời tụng Kinh, giữ vữngkỷ cương một trong 6 phép hòa kính, tuy nhiên, có chùa xemđây là việc của vị Giám Tự.

DuyệtChúng là vị giúp đỡ cho Duy Na, phần vụ thủ mõ.

ĐườngHành cũng là nhiệm vụ của Duy Na và Duyệt Chúng, phải gõkhánh, tụng khai Kinh và hồi hướng trong mỗi thời công phutụng Kinh.

ĐiểnTọa là vị Tăng lo việc ăn uống vâng giữ một trong 6 phéplục hòa.

PhóĐiển còn gọi là Phạn Đầu, vị Tăng hổ trợ giúp việccho Điển Tọa.

TrựcTế là vị Tăng chuyên lo việc chấp tác, trùng tu sửa chữaGià Lam, chữa đường sá, cũng là người vâng giữ một trong6 phép lục hòa.

TriKhách là vị Tăng lo việc tiếp đón khách.

ThịChơn là vị Tăng chăm sóc chỗ thờ Tổ Khai Sơn.

CúngChơn là vị Tăng giúp đỡ Thị Chơn, cũng gọi là TruyềnCúng.
TriĐiệnlà vị Tăng quản lý Phật Điện và Pháp Đường. Ngườiphụ tá gọi là Diện Hạnh.

ThượngSự là vị Tăng lo việc thư ký, bảo quản văn thơ giấy tờ.

TriDục cũng còn gọi là Dục Chủ, vị Tăng quản lý nhà tắm.

ThịCục Trưởng là vị Tăng thân cận, chăm lo và giúp đỡ vịTrụ Trì. Ở hai Đại Bổn Sơn những vị nầy hổ trợ vịQuản Thủ.

ThịGiả là vị Tăng thân cận hầu hạ vị Trụ Trì và Chư TônĐức đến thăm chùa. Có 5 loại Thị Giả chánh thức như:

ThiêuHương Thị Giả, là người có trách nhiệm lo việc hươngđăng và dâng hương cho vị Trụ Trì, mỗi khi có lễ.

ThưTrạng Thị Giả là vị lo vấn đề thư từ cho vị Trụ Trì.
ThỉnhKháchThị Giả là vị Tăng lo ứng đối tiếp đãi khách củavị Trụ Trì.

Y BátThị Giả là vị Tăng lo Pháp Y cho vị Trụ Trì.

ThangDược Thị Giả là vị Tăng lo thức ăn và thuốc men chovị Trụ Trì.

Thôngthường chỉ hai hay ba vị kiêm nhiệm luôn.

ThịThánh nghĩa là Thị Giả của chư Thánh Tăng thờ tại TăngĐường (như Ngài Văn Thù Bồ Tát), lo việc cúng dường nướchoặc trà nóng lên Bồ Tát.
GiảngSưnghĩa là vị Thầy thường giảng nghĩa và thuyết phápcho Chư Tăng và Tín Đồ.

TạngChủ tức là vị quản lý tạng Kinh và điện thờ có nhiềubảo vật.

TịnhĐầu là vị Tăng quản lý Đông Ty (nhà xí).

TấuGiả là vị Tăng có trách nhiệm thông tin cho khách hoặc nhữngliêu xá, khi có những việc cần thiết.

ThủTọa là địa vị cao nhất của chư Tăng, còn gọi là ThượngTọa.

ThưKý nguyên là chức vụ Thị Giả Thư Trạng, phụ trách nhữngcông việc phụ giúp vị Thủ Tọa liêu, thường ngồi ở vịtrí thứ hai sau Thượng Tọa.

BiệnSự là vị Tăng còn trẻ luôn ở bên vị Thư Ký, Thủ Tọa,nơi liêu Thủ Tọa.

HànhGiả là vị Tăng còn đang tu học, gần gũi thân cận, làmcác công việc.
Ngoàira,ở Điện Đường, Điện Ty, Đường Ty, Phật Điện, PhápĐường khi có lễ, vị thỉnh chuông gọi là Chung Ty, vị locông việc trong Tăng Đường gọi là Trực Đường, vị loviệc dọn dẹp gọi là Thanh Tảo Đương Phiên v.v... nhiềulắm không thể ghi chi tiết ra đây hết. Vả lại, còn cókhá nhiều công việc như xuất bản, bố giáo, và nhiều việckhông cần có chức vụ ở Lưỡng Bổn Sơn nữa, song tùy theotính chất quy mô hay đơn giản của chùa, tùy theo địa phương,tùy theo xã hội mà công việc có thể tùy nghi sửa đổi thêmhay bớt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567