Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5. Tha phương cầu đạo

21/06/201317:48(Xem: 6495)
Chương 5. Tha phương cầu đạo

Hòa Thượng và giai nhân

Chương 5. Tha phương cầu đạo

Hòa Thượng Thích Như Điển

Nguồn: Hòa Thượng Thích Như Điển

Cánh cửa thất nơi Phương Trượng đường đã được mở vào sáng nay sau hơn tám năm Sư Cụ Từ Tâm nhập thất để mỗi tối trì tụng kinh Kim Cang, niệm Phật và trì thần chú Đại Bi. Tuy Ngài không tiếp xúc với thế sự hằng ngày, nhưng mọi việc xảy ra bên ngoài Ngài đều biết rõ, nhất là việc nội tự trong thời gian qua. Đầu tiên Ngài bước xuống thiền sàng lễ Phật và đi quanh vườn chùa, đáo mắt chỗ nầy, chỗ nọ, đoạn quay lại Phương Trượng Đường và kêu hai chú Ngộ Đạo và Ngộ Tánh vào dặn rằng:
- Nay thì Ngộ Đạo tuy chưa đủ 20 tuổi để thọ giới Tỳ Kheo; nhưng theo Luật định kẻ ở chùa từ nhỏ đến lớn, có thể tính mỗi năm là một tháng. Do vậy hơn 18 năm qua, con ở chùa là hơn một năm rưỡi, cộng với hơn 18 tuổi của con, vị chi là gần 20 tuổi. Cái tuổi có thể đăng đàn thọ cụ túc giới, nơi “Tuyển Phật Trường”. Còn Ngộ Tánh tuy tánh ấy vẫn chưa sáng, vì đã trải qua một cơn giông tố nội tâm, tuy nhiên giới luật sẽ ràng buộc kẻ tu hành và giúp ta thoát qua chặng đường sanh tử, nên ta quyết định cho hai con thọ “Cụ Túc Giới”. Sau khi thọ xong, đúng theo luật các con phải ở thêm năm năm nữa với ta, nhưng ta thiết nghĩ các con nên chuẩn bị hành trang, ta sẽ cho các con đi tha phương cầu học đạo giải thoát.
- Mô Phật chúng con xin vâng.
- Cả hai nhìn nhau trong tâm trạng kẻ buồn người vui. Vì nghĩ rằng cái ngày ấy chắc chắn rồi cũng phải đến trong cuộc đời của một người tu sĩ như hai chú Ngộ Đạo và Ngộ Tánh.
Sau khi thọ giới Tỳ Kheo tại chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự, hai tân Tỳ Kheo Ngộ Đạo và Ngộ Tánh theo lời dạy của Sư Cụ chuẩn bị hành trang thật kỹ càng để đến các nước láng giềng học Đạo.
Nước đầu tiên mà hai Thầy tân Tỳ Kheo nầy đến là Ấn Độ. Trước khi đi, hai Thầy cũng đã tìm quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” của Ngài Huyền Trang biên soạn vào năm 645 tức vào năm Trinh Quán thứ 19, tại Trung Hoa bằng chữ Hán để học. Các vị nầy sau khi đọc xong đều trầm trồ thán phục. Ngày ấy vào thế kỷ thứ 7, mà Ngài chỉ đi bộ suốt hai năm, chuyến đi và lúc về nào kinh sách, tượng Phật, xá lợi nặng nề trên hai vai và voi ngựa và Ngài cũng đã phải lặn lội qua những con sông sâu. Khổ cực biết dường nào. Thời gian ấy cũng tốn hai năm nữa. Cộng thêm với 15 năm ở Ấn Độ và các nước lân bang, trong đó có năm năm ở tại Đại Học Na Lan Đà, Ngài Huyền Trang học Du Già Sư Địa Luận và các bộ Luận lớn với Pháp Sư Giới Hiền. Ngài ra đi lúc 33 tuổi và về lại kinh đô Trường An lúc đó 50 tuổi. Vua Đường Thái Tông dâng cho Ngài cung Ngọc Hoa, để Ngài chủ trì dịch những kinh sách tiếng Phạn đã mang về ra tiếng Trung Hoa, đến 657 bộ. Suốt 19 năm trường như thế, Ngài đã miệt mài với kinh điển. Buổi sáng Ngài chủ trì phiên dịch, buổi chiều giảo chính lại câu văn và buổi tối thăng toà thuyết pháp về những gì đã dịch được trong ngày hôm ấy. Đến năm 664, Ngài viên tịch thọ 69 tuổi. Như vậy cả cuộc đời, Ngài đã hy sinh cho hậu thế biết dường bao. Đặc biệt trong quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” Ngài đi đến đâu cũng đều có ghi lại rõ ràng từng nơi, từng Phật Tích về phong tục tập quán, ngôn ngữ, bộ phái v.v. Nếu không có tài liệu ấy những người học Phật đi sau thật là khốn khổ.
Hai Thầy đọc đến đoạn Ngài Huyền Trang đến Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo, hai Thầy nhớ lại câu Ngài Huyền Trang đã thán lên lúc ấy như sau:
”Phật tại thế thời, ngã trầm luân,
Kim đắc nhân thân, Phật diệt độ,
Áo não thử thân đa nghiệp chướng,
Bất kiến Như Lai, kim sắc thân.”
Nghĩa là
“Lúc Phật tại thế, con trầm luân,
Nay được thân người, Phật diệt độ,
Buồn trách sao mình nhiều nghiệp chướng,
Chẳng thấy thân vàng của Như Lai.”
Đó là tâm trạng của Ngài Huyền Trang hồi thế kỷ thứ 7. Còn bây giờ đã gần 1000 năm sau, hai Thầy tân Tỳ Kheo Ngộ Đạo và Ngộ Tánh mới đến được xứ Ấn Độ và lần đầu tiên họ tìm đến Bồ Đề Đạo Tràng để đảnh lễ Phật. Họ đi quanh Đại Tháp ba vòng như để hồi tưởng lại Như Lai sau khi diệt độ và cứ mỗi nơi có ghi lại dấu tích gì hai Thầy đều chí thành cung kính đảnh lễ.
Khi đến Kim Cương Toà dưới cội Bồ Đề, nơi đây đức Thế Tôn đã thành Chánh Đẳng Chánh Giác, họ quỳ xuống oà khóc như trẻ thơ vắng mẹ lâu ngày, bây giờ mới gặp lại. Họ mừng quá và thầm nghĩ rằng: “Đúng là mình có phước duyên, chứ bao nhiêu người giống như mình đâu có được cơ hội ấy. Họ nhìn cành lá cây Bồ Đề vẫn còn tỏa rộng, che rợp cả lối đi và có nhiều cành còn vươn cao lên phía đại tháp nữa. Họ cụng đầu nhiều lần vào cành cây Bồ Đề và gục đầu khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc như thế.
Kế đến họ đi ra phía sau, nơi Đức Phật lần đầu tiên quy y cho hai người thương nhân Miến Điện , lúc ấy khi vừa thành đạo thì hai thương nhân nầy đến muốn xin quy y. Phật đã nhận lời và khi ấy mới có nhị bảo chứ chưa có Tam Bảo. Nghĩa là chưa có Tăng Đoàn. Rồi họ đi đến chỗ tuần lễ thứ hai, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy sau khi Đức Phật thành đạo để đảnh lễ những nơi mà Phật đã trầm tư cũng như nói lên những câu nói thật giá trị lịch sử. Ví dụ như câu: “Không phải khi mới sinh ra, người ta là một Bà La Môn, mà người ta phải làm gì đó mới có thể trở thành một Bà La Môn” v.v..
Quang cảnh Bồ Đề Đạo Tràng chung quanh còn hoang phế lắm. Hai Thầy ghé thăm Đại Học Ma Kiệt Đà đã một thời huy hoàng sánh với Na Lan Đà. Cũng như thăm hang đá nơi Đức Phật tu khổ hạnh, rồi qua sông Ni Liên Thiền để xem nơi Đức Phật tắm rửa, trước khi thành đạo.
Gần đó, có Linh Thứu Sơn, Trúc Lâm Tịnh Xá và Đại Học Na Lan Đà họ cũng đã ghé qua. Khi đi lên con đường của Vua Tần Bà Sa La đi thuở nọ, họ hình dung rằng Vua đã phải cực nhọc như thế nào. Rồi đến động đá A Nan và Ngài Xá Lợi Phất. Chính nơi động đá nầy, theo Ngài Huyền Trang ghi lại trong Đại Đường Tây Vức Ký thì Ngài A Nan tu Thiền bị ma quấy nhiễu và Ngài phải nhờ đến Phật giúp an tâm cho. Ngài là vị thị giả luôn hầu cận bên Đức Phật, nên hang đá nầy nằm phía dưới chân núi, còn hương thất của Phật nằm tận trên đỉnh cao. Điều ấy cũng hợp với một trong năm điều kiện của Ngài đưa ra khi nhận làm thị giả cho Phật là: “Bất cứ ai, trước khi muốn gặp Đức Phật thì phải qua Ngài.” Nếu A Nan thấy Phật đang bận ngồi Thiền hoặc giảng Pháp, Ngài sẽ không cho vị khách ấy gặp, dầu cho vị khách đó là ai đi chăng nữa. Còn Ngài Xá Lợi Phất, bậc trí tuệ bậc nhất bao giờ cũng ở gần Tăng chúng để dạy dỗ họ. Hai Thầy Ngộ Đạo và Ngộ Tánh đến đây những tu viện trên núi Linh Thứu chỉ còn là những nền đá trơ gan cùng tuế nguyệt. Năm tháng chất chồng, thời gian thay đổi, tất cả rồi cũng phải như thế thôi. Đó là Đức Phật và những vị Quân Vương nổi tiếng. Còn thân phận của hai người, thật ra nó chẳng có một mảy may ý nghĩa gì so với cuộc sống thế trần nầy.
Họ leo lên tận đỉnh núi để nhìn xuống kinh đô xứ Ma Kiệt Đà, rồi đưa mắt nhìn xuống nền móng nhà tù khi Vua A Xà Thế đã giam giữ phụ vương mình để đoạt ngôi, vì theo lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa. Chính nơi đây Đức Phật đã truyền giới Bát Quan Trai cho vua Tần Bà Sa La và dùng thần thông để cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy thấy hết các cảnh trong thế gian và cuối cùng Hoàng Hậu muốn sau khi chết được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Sau khi viếng thăm Trúc Lâm Tịnh Xá, suối nước nóng và nơi kiết tập kinh điển lần đầu tiên nơi động Thất Diệp cùng Đại Học Na Lan Đà, hai người đã tìm cách đi đến vườn Lộc Uyển bên sông Hằng, để đảnh lễ nới Đức Phật đã thuyết bài Pháp Tứ Diệu Đế đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như nghe và bắt đầu từ đó Tăng Đoàn được thành lập. Tại đây cảnh trí hoang sơ lắm. Chỉ còn lại ngôi Đại Tháp và trụ đá A Dục cũng như những nền cũ của các Tu Viện ngày xưa. Điều ấy chứng tỏ rằng khi đạo Phật thịnh hành và có những bậc Thánh Tăng xuất hiện, thì đã có hàng hàng lớp lớp người từ bỏ thế tục xuất gia cầu đạo giải thoát và khi Phật Giáo lâm nguy, không phải là Phật Giáo đã chết, mà Phật Giáo chỉ chuyển mình hướng theo một quy luật khác để tồn tại mà thôi.
Ngộ Đạo và Ngộ Tánh đắm chìm nơi ánh sáng từ bi của Đức Phật và những công đức của Vua Chúa cùng những người giàu có ngày xưa đã giúp cho Phật Giáo ở nhiều lãnh vực, cho nên nhân loại ngày nay dầu ở đâu trên quả địa cầu nầy cũng đều có thể học hỏi giáo lý giải thoát ấy được. Họ lần dò đến nước Xá Vệ, nơi mà Thái Tử Kỳ Đà cùng ông Trưởng Giả Cấp Cô Độc đã dâng trọn của cải cũng như niềm tin lên đức Phật và chư Tăng, họ đã dựng Kỳ Viên Tịnh Xá cúng dường cho Đức Phật và Tăng chúng. Trong hơn 45 mùa hạ của Đức Phật, Ngài đã an cư nơi đây hơn 25 lần và những kinh quan trọng được thuyết giảng nơi đây. Trong đó có kinh A Di Đà.
Bên cạnh đó có nhà của chàng Vô Não và nơi đức Phật đã dùng thần thông, thi triển thần lực với ngoại đạo. Cho đến lúc Ngộ Đạo và Ngộ Tánh tới nơi, ở đây cũng chỉ còn những dấu tích hoang phế của một thời. Điều ấy Bà Huyện Thanh Quan đã chẳng than khi tâm hồn hoài Lê vẫn còn đó:
“Tạo hoá gây chi cuộc hý trường,
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương,
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Non còn cau mặt với tang thương,
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.”
So ra thì ở đâu cũng chỉ thế thôi! Có còn chăng là còn cái Phước, cái Đức và cái trí tuệ, chứ lâu đài cung điện, nhà cửa ruộng vườn trước sau rồi cát bụi cũng trả về cho cát bụi mà thôi.
Họ tìm đến nơi cây Bồ Đề A Nan để hồi tưởng về người Đệ Tử mà Đức Phật rất thương mến đó. Sau đó họ tìm đến nơi nàng vũ nữ giả bụng mang dạ chửa để vu oan cho Phật. Đến nơi nầy thì Ngộ Đạo quay qua Ngộ Tánh hỏi rằng:
- Thế Sư Huynh có nhớ chuyện nầy không?
- Chuyện gì thế?
- Chuyện nàng vũ nữ độn bụng chữa vu oan cho Phật đó.
- Đệ kể lại xem
- Đây là câu chuyện: “Thuở ấy ngoại đạo không thích gì sự phát triển của Tăng Đoàn của Đức Phật. Một hôm Đức Phật đang thuyết pháp có một ma nữ giả bụng mang dạ chữa và vu oan cho Đức Phật và cho rằng chính cái bào thai trong bụng là con của Ngài. Ngài vẫn điềm đạm không tỏ ra một thái độ gì cả. Trong khi các vị có trí tuệ biết rằng đó là việc vu oan. Nhưng những bậc xuất gia mà lậu tận chưa hết, sinh ra nghi ngờ, không hiểu tại sao mà Phật lại như vậy. Chư Thiên thấy thế không xong; để giải lòng tin cho mọi người, nên mới hiện thân ra con chuột chui vào bụng nàng ma nữ cắn đứt sợi dây bên trong. Thế là cái bụng độn rơm kia bị tuột xuống. Nàng mắc cỡ quá mới đâm đầu xuống cái giếng nầy tự tử và giếng ấy vẫn còn đây”
- Lúc nào Sư Đệ cũng rành rẽ hơn ta
- Không dám! Có đâu như Sư Huynh lúc nào cũng tìm đến ma nữ.
- Nhưng có sao đâu?
- May mà Sư Cụ cho anh em chúng ta đi học xa như thế nầy, chứ còn ở trong nước thì...
- Thì sao?
- Thì lửa gần rơm lâu ngày sẽ bị cháy.
- Nhưng bây giờ thì Sư Huynh đã quên nàng rồi
- Chắc không đó?
Họ nói với nhau như chọc ghẹo để nhớ lại chuyện lẫm cẫm vừa qua, nhưng đời họ đâu có gì để luận bàn. Họ chỉ chăm chú một việc là đi chiêm bái và đảnh lễ những nơi còn lại. Thế là họ đã đến nơi thành Tỳ Xá Ly.Nơi đây có nhiều sự kiện quan trọng lắm. Ví dụ như Đức Phật lần đầu tiên tuyên bố là Ngài sẽ Nhập Niết Bàn. Nơi ngài độ cho Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề xuất gia. Nơi đức Phật lên cõi trời Đao Lợi để giảng kinh Địa Tạng cho mẫu hậu Ma Da nghe. Nơi mà ông Duy Ma Cật đã hiện thân bịnh để nói pháp. Cuối cùng là thành Tỳ Xá Ly cũng là nơi kiết tập kinh điển lần thứ hai sau khi đức Phật diệt độ 100 năm.
“Thuở ấy, Ma Ba Tuần đã hiện ra và thưa với Phật rằng:
- Bạch Ngài! Tất cả những gì đáng độ, Ngài đã độ. Bây giờ các chúng đệ tử của Ngài đã đủ. Ngài nên vào Niết Bàn như lời đã hứa sau khi thành đạo”
Đức Phật lấy móng tay của mình múc lên một ít đất và hỏi Ma Ba Tuần rằng:
- Đất trong móng tay ta nhiều hay ở dưới đất nhiều?
- Dĩ nhiên là đất trong móng tay Ngài ít hơn
- Cũng như thế đó. Những gì ta đem dạy cho đệ tử của ta cũng giống như đất trong móng tay nầy. Còn những gì ta chưa dạy còn lại nhiều như đất của đại địa vậy. Thôi còn ba tháng nữa ta sẽ vào Niết Bàn.
Trong khi đó Ngài A Nan ở trong rừng trải qua một giấc mơ rằng cành lá của cây đại thọ đã rụng hết, chỉ còn một gốc cây trơ trọi. Sau đó Ngài về bạch Phật rằng đã xảy ra chuyện gì thì Phật bảo: Trước đó ta có bảo cho ngươi nghe rằng: Một bậc giác ngộ nếu có lời thưa thỉnh, ta sẽ ở lại lâu dài hơn trên đời nầy, nhưng đầu óc của ngươi đã bị Ma Ba Tuần che khuất, khi nhớ ra thì đã muộn rồi. Vì ta đã hứa với Ma Ba Tuần ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn.
Ngài A Nan nghe thế dập đầu xuống đất khóc than thảm thiết; nhưng biết làm sao hơn…”
Gần đây có vườn nhà của ông Trưởng Giả Duy Ma Cật nữa. Có lẽ tưởng tượng thôi. Chứ cái vườn nhỏ như thế nầy mà chứa đến chín triệu Bồ Tát từ cõi trời Chúng Hương đến và mỗi vị có một toà sư tử thì chỗ nào mà ngồi cho đủ trong vườn nầy.
Đọc kinh Duy Ma Cật Ngộ Đạo thấy có nhiều điểm hay và hôm nay nhân đến vườn nầy nên hỏi Ngộ Tánh thử Sư Huynh mình có nhớ ra không?
- Thưa Sư Huynh! Sư Huynh có biết tại sao khi Thiên Nữ hiện thân ra nơi đây để rải hoa dâng cúng các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn mà khi hoa rơi trên vai của Bồ Tát lại không dính, nhưng lại dính trên vai của các vị Thanh Văn?
- Chắc các vị Thanh Văn thích hoa hơn các vị Bồ Tát.
- Chưa đúng hẳn
- Vậy chứ sao?
- Nghĩa là theo đệ các vị Thanh Văn tu hành còn chấp trước lắm. Do vậy hoa rơi đến đâu thì dính đến đó. Còn các vị Bồ Tát vượt lên trên sự chấp có, chấp không cho nên mới không bị dính.
- Thế Sư Đệ muốn tu theo hạnh nào?
- Chắc Sư Huynh đã biết rồi.
- Còn ta, ta chỉ tu theo pháp Thanh Văn thôi
- Nghĩa là vẫn còn nghĩ đến người đẹp?
Ngộ Tánh liếc một cái thật mạnh về Ngộ Đạo làm như có ý trách móc và Ngộ Tánh hỏi lại Ngộ Đạo rằng:
- Thế thì món cơm Hương Tích tại sao mà có?
- Vì Ngài Duy Ma Cật muốn các vị đệ tử của Phật Thích Ca biết được công đức của Phật ở cõi Chúng Hương ấy như thế nào, mới có ý ấy
- Nhưng tại sao chỉ một nồi cơm nhỏ mà mấy ngàn, mấy vạn, mấy triệu Bồ Tát ăn cũng không hết?
- Đó là tưởng tượng thôi Sư Huynh ơi! Ngoài ra, cơm Hương Tích là cơm công đức , không thể ăn hết công đức của vị Phật ở cõi chúng Hương kia được.
- Đúng là xứng đáng Sư Đệ của ta rồi. Hèn gì mà lúc nào Sư Cụ cũng tuyên dương Sư Đệ ở nhiều phương diện…
- Việc ấy Đệ đâu có bao giờ để ý.
Nói xong hai Thầy tìm đến nơi Đức Phật đã độ cho Bà Dì ruột là Ma Ha Ba Xà Ba Đề và 500 thể nữ cùng xuất gia với điều kiện là phải giữ gìn tám pháp cung kính với hàng ngũ Tăng Già. Tiếp đó họ hướng về phía thành Câu Thi Na, nơi đức Phật nhập diệt để lạy tam bộ nhứt bái và mười mấy ngày sau họ đã đến nơi.
Ở đây dấu tích hai cây Sa La vẫn còn đó và hình Phật nằm nhập Niết Bàn bất động, trông dáng vẻ rất từ bi, nhưng cả hai người đều không cầm được nước mắt, họ đã khóc như chưa bao giờ được khóc, rồi họ ôn lại những gì trong kinh Đại Bát Niết Bàn cũng như kinh Di Giáo mà Phật đã dạy. Sau đó họ đi đến nơi làm lễ trà tỳ của Đức Phật. Bây giờ chỗ nầy chỉ còn một tháp kỷ niệm lớn. Vì xá lợi đã được các Vua Chúa đương thời phân chia ra để thờ và Vua A Dục về sau cũng đã dựng 84.000 Tháp để thờ xá lợi ấy và ngày nay xá lợi của đức Phật đã hiện diện khắp mọi nơi. Từ Thiên cung cho đến Long cung và ở cõi Diêm Phù Đề nầy nữa, nơi nào mà chẳng có pháp thân của đức Phật.
Câu Thi Na vào một chiều thu trông rất buồn và ảm đạm. Họ cũng đã cảm lây với cái không khí đau sầu khổ não của các đệ tử Phật trước khi Ngài vào Đại Bát Niết Bàn. Họ xót thương cho thân phận của mình là sinh ra sau Phật quá xa. Vì thế ánh sáng chánh pháp đã yếu dần. Thay vào đó là Ma Vương Ngạ Quỷ đã hoành hành khắp nơi trên thế giới. Người có đức hạnh đã ở ẩn trong rừng sâu, trên núi cao. Chỉ có những người đạo hạnh không tinh chuyên thì đang múa may quay cuồng với nhân thế.
Họ phải vượt qua biên giới bằng thư giới thiệu của nhà chức trách, mới đến được nơi vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Thái Tử Tất Đạt Đa đản sanh vào năm 624 trước Thiên chúa ra đời. Giờ đây cây Vô Ưu không còn nữa. Chỉ còn trơ lại cây trụ đá Vua A Dục, do Ngài Huyền Trang phát hiện trong thế kỷ thứ 7. Bây giờ vẫn đứng trơ gan cùng tuế nguyệt. Chung quanh đó chẳng còn gì, Chùa Viện hầu như hoang tàn đổ nát, trông thấy mà cảm lây với sự tang thương của đất trời vạn vật. Bên cạnh đó có một hồ nước thiêng, tương truyền rằng sau khi mẫu hậu Ma Gia hạ sanh Thái Tử, chín con rồng đã phun nước để tắm cho Thái Tử và hoa sen từ dưới đất đã mọc lên để đỡ chân Thái Tử trong mỗi bước đi, để đến bước cuối cùng Ngài nói:
“Trên trời dưới đất chỉ có cái ta là quan trọng hơn cả và đây là lần sanh cuối cùng của ta”
Quả là bậc Chánh Biến Tri. Vì khi Ngài sanh ra, Ngài đã biết sanh vào đâu và chọn lựa chốn nào để sanh. Còn chúng ta ở nơi bụng mẹ trong chín tháng mười ngày tối đen như mực,, chẳng biết thế giới bên ngoài ra sao, chứ bên trong toàn là máu huyết, đờm giải và bị ngột thở. Thế mà nhiều người đã chẳng chịu ra. Cứ muốn dấn thân vào. Đã đành nếu là Bồ Tát vào cõi hồng trần không có sao. Vì các Ngài có thể dùng tâm Bồ Tát và hành động của Bồ Tát để chuyển hoá khổ đau thành ra an lạc hạnh phúc. Còn chúng ta thì trái lại. Ta vào đời đâu phải vì nguyện lực độ sanh đâu. Tất cả chỉ vì nghiệp lực, mà đã là nghiệp lực thì mình cứu mình còn không nổi làm sao cứu ai nổi.
Sau khi thăm tất cả những thánh tích trong cuộc đời đức Phật, họ đã học được bài học vô giá cho cuộc sống tu hành của họ, cho bây giờ cũng như cho mai hậu. Nhân cơ hội ấy họ đã đi hết xứ Nepal rồi Bhutan và vượt qua Hy Mã Lạp Sơn để vào thăm Tây Tạng huyền bí.
Xứ Tây Tạng khi chưa lập quốc đến bây giờ quốc gia nầy lấy Phật Giáo làm quốc giáo. Đặc biệt từ thế kỷ thứ 9 thứ 10 Đức Đạt Lai Lạt Ma, được kính trọng là hoá thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, với lòng từ bi vô lượng Ngài đi vào đời để cứu khổ chúng sanh. Chữ Lạt Ma có nghĩa là vị Thầy. Chữ Đạt Lai có nghĩa là Trí Tuệ. Vị Thầy ấy được người dân Tây Tạng cung kính như là một vị Phật sống, một quốc vương, một tăng vương, cai trị một quốc gia toàn núi đồi và có dân số rất ít chừng mấy triệu người.
Họ có triều đình gồm hai viện. Một viện do chư Tăng điều hành và một viện do cư sĩ điều hành. Kinh điển mà họ dùng đa phần bằng tiếng Phạn và tiếng Tây Tạng. Họ ảnh hưởng rất nhiều về Mật Giáo bởi các vị Đại Sư Santideva và Ngài Tông Khách Ba v.v..
Cung điện Potala là một cung điện gồm nhiều tầng và nhiều dãy nhà ngang dọc. Trên cùng nơi lớn nhất là nơi thờ Tượng Đức Quan Thế Âm. Bên cạnh đó là Pháp Toà, cũng là ngai vàng của Đức Đạt Lai Lạt Ma ngự trị.
So với Ấn Độ, Népal thì Tây Tạng, cách kiến trúc khác xa rất nhiều. Vả lại nơi đây toàn là núi đồi, cho nên những chùa viện được cất thật cao trên vách núi cheo leo. Cứ tưởng tượng rằng một vị Tăng sĩ khi vào đó nhập thất chắc chừng vài ba chục năm họ mới xuống núi một lần. Họ hình như không còn thiết tha gì với cuộc sống thế trần nầy nữa. Vì lẽ theo quan niệm của những người nhập thất là càng xa nơi ồn ào náo nhiệt nhiều chừng nào tốt chừng ấy!
Ở Tây Tạng cũng như Bhutan, chùa viện là trung tâm sinh hoạt của những quốc gia nầy. Bhutan ảnh hưởng văn hoá của Phật Giáo Tây Tạng. Vì Tây Tạng có thời chiếm cứ Bhutan để làm thuộc địa. Vì vậy Phật Giáo Bhutan cũng gần giống như Phật Giáo Tây Tạng, nghĩa là đa phần dân chúng theo Phật Giáo.
Đến Bhutan để thấy rằng trên từ Vua Chúa, Hoàng Hậu đến Bá Quan Văn Võ, dưới cho đến thần dân mọi người đều theo Phật và nơi nơi đều thực hiện hạnh từ bi đối với thiên nhiên cũng như muông thú. Họ cũng có hai cơ quan điều hành đất nước. Một là viện của chư Tăng, phần khác do vua các quan nắm giữ.
Ở đây họ cũng ảnh hưởng Ngài Santideva của Ấn Độ không ít. Tương truyền rằng sau khi Ngài Santideva bay qua Tây Tạng để truyền giáo dạy đạo, Ngài cũng dùng thần lực bay qua Bhutan để truyền dạy giáo pháp nhiệm mầu của Phật Giáo nơi đây.
Ở trên một đỉnh đồi thật cao gần thủ đô Thimpu của Bhutan có một hang động và nơi đây mọi người dân cũng như chư Tăng tin rằng sau khi truyền phép mật tông thì Ngài từ hang động nầy dùng thần lực để thăng thiên và từ đó biệt vô âm tín.
Lịch sử của Ngài Santideva, (dịch là Tịch Thiên) ở Ấn Độ, cũng mang nhiều nét ly kỳ lắm. Tương truyền rằng lúc nhỏ Ngài có một ước mơ là tu theo trí tuệ của Bồ Tát Văn Thù và ước gì trong đời, Ngài được gặp Ngài Văn Thù một lần cho thoả chí. Một hôm nằm mộng Ngài thấy một vị Tara đến báo rằng hãy vào rừng thì sẽ gặp. Ngài Santideva rất hoan hỷ. Khi vào rừng sâu Ngài được gặp Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và được học Pháp Trí Tuệ của Bồ Tát Văn Thù suốt mấy năm như vậy. Sau khi được pháp Trí Tuệ rồi, Ngài được Ngài Văn Thù ban cho một cây kiếm báu bằng gỗ và với nhiều sự gởi gắm giữ gìn.
Lớn lên Ngài được làm Thừa Tướng hầu cận đức Vua. Một hôm có một vị Đại Thần tâu với vua rằng: Làm Thừa Tướng hầu bên cạnh Vua mà lúc nào cũng mang cây kiếm giả, thì khi quân giặc đến làm sao có thể chiến đấu để phò Vua. Đó là một tội khi quân và đáng trách. Vua nghe tâu như vậy thấy có lý, nên một hôm Vua hỏi Ngài Santideva rằng:
- Tại sao ngươi lại dám khi quân như thế. Trong khi hầu cận ta mà chỉ mang thanh kiếm gỗ?
- Muôn tâu bệ hạ! Hạ Thần không có tội đường đột ấy. Chỉ sợ Thánh Thượng không tin, nên không dám tỏ bày.
- Ngươi hãy chứng minh
- Đây là cây kiếm báu của Đức Văn Thù. Nếu Ngài muốn xem thì Ngài phải lấy tay bịt con mắt phải lại
- Để làm gì?
- Bệ hạ cứ thực hiện như vậy.
Khi lưỡi kiếm vừa rút ra khỏi bao, thì một tia hào quang sáng chói loà dội ngược vào mắt trái của Vua. Tức thời con mắt nầy tự động rơi xuống đất. Đức Vua rất hối hận mà nói rằng:
- Quả ngươi có lý. Còn ta có mắt mà cũng như mù
Sau khi nói xong lời hối hận ấy, mắt trái của Vua hoàn lại như cũ và kể từ đó Vua tin tưởng Santideva nhiều hơn. Nhưng sau nhiều năm tháng làm Thừa Tướng với bao nhiêu nỗi nhọc nhằn của nhân thế, nên Ngài đã từ quan và đến Đại Học Na Lan Đà xin xuất gia học Đạo.
Sau khi xuất gia, Ngài vẫn là con người bình thường, đôi khi các bạn đồng liêu còn cho là biếng nhác nữa. Vì thấy Ngài chẳng siêng năng học hành tu niệm gì cả và một hôm Ngài mới bảo các vị đồng tu rằng:
- Quý vị hãy làm cho tôi một pháp toà
- Để làm gì?
- Để nói pháp.
Các vị đồng tu đều cười khảy, tỏ ý chẳng tin lời nói của một người biếng lười như thế, nhưng họ vẫn sẵn sàng làm một pháp toà để cho Ngài Santideva thuyết pháp. Thăng toà, Ngài hỏi đại chúng:
- Quý vị muốn tôi nói pháp nào? Pháp quá khứ, pháp hiện tại, hay pháp vị lai.
Ai nghe thấy cũng cười và đồng loạt trả lời trong vẻ khinh bỉ, vì biết rằng Ngài đâu có khả năng nói pháp. Họ nói:
- Tất cả pháp đều nên nói
Thế là Ngài thao thao bất tuyệt giảng về pháp quá khứ, hiện tại và vị lai không một chỗ vấp nào cả. Sau khi thuyết xong Ngài dùng thần lực bay lên hư không và thế là mọi người tiếc ngẫn ngơ, không ngờ Bồ Tát đang ở trước mặt mà chẳng nhìn ra. Sau đó mọi người về lại phòng của Ngài thì thấy trên bàn có để lại ba quyển sách nhan đề là. “Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận, Bồ Tát Hạnh và một quyển thuộc về kinh. Cả ba quyển nầy có tác dụng với Phật Giáo Mật Tông rất nhiều. Đặc biệt là Phât Giáo Tây Tạng, Bhutan và Népal và Mông Cổ.
Nghe qua câu chuyện vừa như thần thoại, vừa như truyền thuyết ấy cả Ngộ Đạo và Ngộ Tánh đều bàng hoàng. Rõ ràng là vẫn có những vị tu chứng đấy chứ! chỉ vì mình không và chưa có nhân duyên để gặp đấy thôi.
Trong quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” Ngài Huyền Trang cũng có ghi lại rằng: Trong núi Hy Mã Lạp Sơn có ngọn núi Everest cao 8.848 thước ấy vẫn còn hai hay ba vị tu theo pháp “Diệt Tận Định” có nghĩa là quý Ngài ấy đã toạ Thiền gần hai triệu năm rồi và thân thể vẫn còn bất động. Thân thể nầy sẽ được sống dậy với ba điều kiện như sau:
Thứ nhất là nghe tiếng khảy móng tay mà tỉnh dậy. Thứ hai là khi có tiếng chuông đánh gần bên tai và thứ ba là khi ánh sáng mặt trời dọi đến. Các Ngài vẫn còn tính nghe và tính biết. Chỉ có cái không ăn uống gì cả mà thôi.
Ngài Huyền Trang cũng đã có ghi lại việc nhập diệt của Ngài Ma Ha Ca Diếp gần Bồ Đề Đạo Tràng trên núi Kê Túc như sau:
“Hiện tại Ngài Ca Diếp đang nhập diệt thọ tưởng định và chờ đến khi nào Ngài Di Lặc Bồ Tát ra đời độ Tam Hội Long Hoa xong lúc ấy có các vị Tăng không tin nên đã cùng với đức Phật Di Lặc đến nơi và dùng ngón tay khảy ba lần lúc ấy Ngài Ca Diếp từ bên trong hang đá bay ra, dâng y vàng của Mẫu Hậu Ma Gia lên Ngài Ca Diếp và Ngài dùng thần lực để bay lên không trung và dùng lửa Tam Muội để thiêu thân mình rồi thác hoá.”
Như vậy ta có thể tin là còn 7 triệu năm nữa. Trong bảy triệu năm ấy Ngài Ma Ha Ca Diếp không ăn uống gì cả: Còn ta ăn ngày ba bữa vẫn thấy đói như thường. Nghĩ đến đó mà thẹn cả lòng. Nên cả Ngộ Đạo và Ngộ Tánh đều yên lặng bước đi và bàn với nhau về những dự tính trong thời gian sắp đến.
Cả hai Thầy sau bao nhiêu năm chiêm bái và học hỏi ở những nơi trên, bây giờ họ muốn băng rừng vượt suối qua các xứ Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật Bản là những nơi mà Phật Giáo đã có mặt lâu đời. Đồng thời những nước nầy dùng chữ Hán, có thể qua bút đàm mọi người sẽ hiểu, chứ thật ra những nước như Ấn Độ, Népal, Tây Tạng và Bhutan đi đến đâu họ cũng gặp khó khăn. Vấn đề đầu tiên vẫn là vấn đề ngôn ngữ. Còn những vấn đề khác như ăn, uống, ngủ nghỉ đối với họ không thành vấn đề.
Trước khi họ đến Trung Hoa, họ được biết rằng Phật Giáo được truyền vào Trung Hoa từ đời nhà Hán, nhưng đến hơn 300 năm sau Phật Giáo mới thịnh hành được. Vì lẽ Nho Giáo đã có mặt lâu đời ở đây, phải thật tình mà nói sở dĩ Phật Giáo phát triển dễ dàng ở Trung Quốc là nhờ Đạo Giáo hay còn gọi là Lão Giáo. Tinh thần “Vô Vi Chi Đạo” của Lão Giáo dễ hoà hợp với tinh thần Bát Nhã hay tinh thần Tánh Không hoặc Trung Đạo trong văn học Bát Nhã. Do vậy mà trên từ Vua quan dưới cho đến thứ dân ai ai cũng ngưỡng mộ đạo Phật suốt từ thời đạo Phật được truyền vào đến nay. Tuy cũng có vài giai đoạn khó khăn Phật Giáo bị Pháp Nạn, nhưng không vì thế mà bị lu mờ trên mọi phương diện trong đời sống của người dân tại xứ sở rộng lớn nầy.
Người ta nói ở Trung Hoa có nhiều châu huyện, nhưng có bốn châu là tiêu biểu hơn cả. Đó là Tô Châu, Hàng Châu, Quảng Châu và Liễu Châu. Tại Tô Châu có chùa Hàn Sơn rất nổi tiếng. Không phải ngôi chùa tự nổi tiếng mà nhờ bốn câu thơ của Trương Kế mà ngôi chùa trở nên nối tiếng hơn. Đó là bài:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang Phong ngư hoả đối sầu miên,
Cô Tô Thành Ngoại Hàn sơn Tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch thơ:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài cây bến sầu vương não lòng,
Ngoài thành chùa núi tên Hàn,
Cô Tô khách đến khuya thuyền nghe chuông.
Đây là một câu chuyện có một nho sinh thời đó thi hỏng, anh ta buồn quá nên mới thuê thuyền đi trên sông để hóng mát, uống rượu ngâm thơ. Mãi từ khi tiếng quạ kêu buổi tối, lúc mà ánh lửa bập bùng trên thuyền chài đậu dưới hàng cây Phong, cho đến khuya lơ khuya lắc người nho sinh ấy mới thức dậy, vì chợt nghe tiếng chuông chùa đã báo hiệu vào canh khuya. Bài thơ đại ý chỉ có thế, nhưng ý thơ thì quá hay và bài Đường Luật nầy phải nói rằng các nho sinh như Ngọc Minh tức là Thích Ngộ Tánh bây giờ đã thuộc làu từ dạo ấy. Bây giờ qua đây, nghe những giai thoại nầy nghĩ rằng như chuyện mới xảy ra đâu đây.
Rồi Hàng Châu có con gái tuyệt thế giai nhân. Quả thật là đẹp tuyệt vời. Đến đây để thấy sông Tiền Đường như thế nào, không biết ngày xưa Kiều đã nhảy xuống sông nầy tự tử rồi được sãi Giác Duyên vớt lên có lớn như bây giờ không, chứ trong lúc nầy thì dòng sông thơ mộng lắm. Hình như nhiều bà Hoàng Hậu Vương Phi của các Vua Trung Hoa ở những triều đại trước đều xuất thân từ Hàng Châu nầy.
Bên bờ sông có những cây liễu rũ buông mình trên dòng nước mát trông giống như những cung nữ thời xưa đứng chờ thời để một lúc nào đó được Vua đi ngang qua đoái mắt nhìn theo. Quả thật là đẹp. Đúng với danh nghĩa Hàng Châu.
Rời Hàng Châu đến Quảng Châu là thủ phủ của tỉnh Quảng Đông mà tương truyền rằng đây là giang sơn của người Việt chúng ta, nên vào cuối thế kỷ 18 sau khi Quang Trung Nguyễn Huệ chiến thắng trận Đống Đa với quân Thanh, đã xua quân qua gần tới Quảng Châu. Nhiều người Việt Nam bảo rằng chỉ tiếc vì vua mất quá sớm, chứ không thì Quảng Đông và Quảng Tây đã đòi lại được rồi. Hai chữ phải chi sao mà nó trễ nãi thế!
Ở đây đặc biệt một cái là đồ ăn rất ngon. Hầu như các thợ nấu ăn Trung Quốc có mặt khắp nơi trên thế giới đều xuất thân từ Quảng Châu nầy. Nơi đây có chùa Quang Hiếu nhỏ lắm, nhưng người ta bảo nhau rằng: Khi thành Quảng Châu chưa có, thì chùa Quang Hiếu đã có rồi. Đúng là Phật Giáo đã có mặt lâu đời ở Trung Quốc. Bên cạnh đó có chùa Lục Dung, chùa có sáu cây dung rất lớn. Tô Đông Pha, một thi sĩ hữu danh đời Đường đã đến nơi đây và có bài thơ nổi tiếng để tặng nơi nầy, bây giờ vẫn còn hai câu thơ khắc vào ván treo ở phía trước cửa tháp đó.
Đi chừng vài ba tiếng đồng hồ, đến chùa Nam Hoa ở Thiều Quang, nơi mà cả cuộc đời hành đạo của Lục Tổ Huệ Năng được ghi dấu tại đây. Ở đây ba chân thân xá lợi của Ngài Huệ Năng, Ngài Đơn Điền và Ngài Hám Sơn đều còn ngồi nguyên vẹn tại Tổ Đường đó. Nơi Tào Khê nầy là đạo tràng dựng nghiệp Tổ thuộc Nam Truyền hay Đốn Giáo. Từ đây Thiền Tông được truyền sang Việt Nam, qua Đại Hàn và qua Nhật Bản. Nếu nói Ấn Độ là chốn Phật ra đời, thì ở đây lại là chốn Tổ. Ai là con cháu của Thiền Tông và Tịnh Độ Tông hãy nên về đây một lần để đảnh lễ nhục thân xá lợi của ba Ngài. Phật ra đời đã lâu ở Ấn Độ. Nếu không có những vị Tổ tiếp nối dòng sinh mệnh của Phật thì Phật Giáo đâu có cơ hội truyền thừa liên tục từ mấy ngàn năm qua.
Đi đến đâu Ngộ Đạo và Ngộ Tánh cũng trầm ngâm. Thỉnh thoảng Ngộ Tánh than mệt, nhưng Ngộ Đạo động viên hết mình. Dầu Ngộ Đạo tuổi nhỏ hơn Ngộ Tánh nhưng ngẫm nghĩ những công khó của chư Tổ ngày trước nên cố gắng hơn và nhân cơ hội nầy họ mới có duyên đi đến đây để học hỏi những điều của người xưa để lại.
Liễu Châu là một trong bốn châu còn lại, ít có liên quan đến Phật Giáo, nhưng vì ở đây người Trung Quốc có tục lệ khi chết phải chôn, mà phải chôn trong quan tài tốt. Tại Liễu Châu gỗ rất tốt, vì đây toàn là chốn rừng già. Do vậy ở Trung Quốc nhiều người già muốn về Liễu Châu để sống và chết tại đó để được vững tâm hơn và thân thể của mình lâu mục nát. Đó có thể là quan niệm của Nho Giáo chứ chẳng phải của Phật Giáo.
Lần nầy hai người đến đây cốt để đi đảnh lễ tứ đại danh sơn, tức là bốn chốn núi danh tiếng, là nơi thị hiện của bốn vị Bồ Tát trong tinh thần Đại Thừa. Đó là Phổ Đà Sơn, nơi thị hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát; Nga Mi Sơn, nơi thị hiện của đức Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. Cửu Hoa Sơn, nơi thị hiện của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát và Ngũ Đài Sơn là nơi thị hiện của Đức Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Người Trung Hoa thật phong phú, họ đã mường tượng và suy diễn lịch sử Phật Giáo bằng nhiều hình thức khác nhau, trong óc sáng tạo của họ. Thật sự ra các kinh điển của Phật dạy đều có đề cập đến các vị Bồ Tát nầy trong nhiều pháp hội khác nhau, nhưng đâu phải tại Trung Quốc. Thế là mấy trăm năm sau thôi, đa phần người Trung Quốc đều nghĩ rằng các vị Bồ Tát ấy là người Trung Hoa. Việc nầy thật sự ra nó hay chứ không dở. Vì lẽ đạo Phật đến đâu mọc rễ tại đó. Ấy mới là đạo Phật.
Muốn đến Phổ Đà Sơn phải dùng thuyền đi từ Ninh Ba hoặc Thượng Hải để đến. Đây là một cái đảo trên đó có nhiều chùa viện xây la liệt từ trên đỉnh xuống đến biển. Gần bờ biển có một ngôi chùa tuy nhỏ, trông rất khiêm nhường, nhưng đó là ngôi chùa nổi tiếng nhất. Ngôi chùa nầy gọi là “Bất Khẳng Khứ Quan Âm Điện” có nghĩa là điện thờ đức Quan Thế Âm không chịu đi. Câu chuyện được kể lại rằng. Vào đời Đường có một vị sư người Nhật tên Tuệ Ngạc sang Trung Quốc để học đạo, sau đó Ngài về nước. Khi về vị sư muốn mang tượng Quan Âm của núi nầy về Nhật để thờ tự, lễ bái, nguyện cầu. Thế nhưng đi chưa ra khỏi bờ biển được bao lâu thì sóng gió nổi lên và các hoa sen bằng sắt mọc lên chận thuyền của vị Sư Nhật Bản lại. Vị ấy đi không được, đành quay lại bờ. Đoạn Ngài lập miếu để thờ tượng ấy và nơi đây đã xảy ra nhiều việc linh hiển có ghi trong quyển “Phổ Đà Sơn Dị Truyện” Do Phật Bà không chịu đi về Nhật, nên gọi là “Bất Khẳng Khứ”. Đó là sự thật chứ không phải giai thoại. Ai đến đó cũng rất cảm động và có nhiều người khóc sướt mướt lễ bái đức Quan Thế Âm.
Đức Quan Thế Âm ở Ấn Độ là hình thù của một người nam, khi qua Tây Tạng là hiện thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Khi đến Trung Quốc trở thành một người nữ và đến nước khác lại có nhiều hình thân khác nhau, cho nên Quan Âm có nghìn mắt, nghìn tay là thế. Gặp trong hoàn cảnh nào Ngài hiện ra cảnh ấy để cứu độ nhân sinh. Ngộ Đạo và Ngộ Tánh khi đến đây cũng hồi tưởng lại tượng Đức Quan Thế Âm có thờ nơi chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự của mình.
Sau khi rời khỏi Phổ Đà Sơn họ đã đi lên hướng phía Bắc để đảnh lễ nơi Đức Văn Thù thị hiện. Nơi ấy gọi là Ngũ Đài Sơn. Gồm có năm đài là Nam, Tây, Đông, Bắc và Trung đài. Nơi đây có một ngôi chùa thật cao, leo lên đến 1080 thang cấp mới lên tận đỉnh được. Không biết người xưa họ đã làm cách nào mà có thể khuân vác, vận chuyển gạch ngói lên tận mây xanh ấy. Quả là bất khả tư nghì.
Tiếp đến hai Thầy viếng Nga Mi Sơn và Cửu Hoa Sơn, nơi đức Đại Hạnh Phổ Hiền thị hiện. Các núi ở đây rất đẹp giống như đôi lông mi của người con gái, nên gọi là Nga Mi. Bên Trung Quốc có một phái võ của người nữ được gọi là Nga Mi Phái. Tại Nga Mi cảnh thật đẹp, nơi đây có một chùa đúc tượng đồng Ngài Phổ Hiền và voi trắng sáu ngà có từ thời nhà Đường trông oai vệ và có hồn lắm. Ở đây núi cao, sương thấp cho nên cảnh vật mờ mờ ảo ảo trông thật nên thơ.
Danh sơn cuối cùng là núi Cửu Hoa Sơn, nơi đây có chín ngọn núi mọc lên như lẵng hoa đang nở nên gọi là Cửu Hoa. Đức Địa Tạng trong kinh Địa Tạng và Đức Địa Tạng ở đây đã hiện thân vào đời nhà Đường hơi khác: Hình ảnh mà đức Địa Tạng đang thờ trong các chùa ở Viêt Nam và Trung Hoa cũng như Đại Hàn là hình ảnh của Ngài Kim Kiều Giác, là một Đông Cung Thái Tử của Đại Hàn, bỏ ngôi báu đi xuất gia. Vào đời nhà Đường, Ngài đến núi nầy để tu học và tìm cho được chơn thân của Ngài Địa Tạng. Cuối cùng thì chính Ngài đã hiện thân là Địa Tạng Vương. Vì vậy cho nên hình ảnh của các vị Bồ Tát, vị nào cũng còn để tóc dưới hình thức thị hiện là một nam nhơn hay nữ nhơn; nhưng Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát nhìn trên đầu của Ngài là hình ảnh của vị Tăng sĩ, đầu cạo nhẵn. Đó là lý do vậy.
Ngộ Đạo và Ngộ Tánh ngẫn ngơ trước các cảnh giới thiên nhiên của Trung Hoa đẹp không thể nào tả hết. Thật đúng như những bức tranh thuỷ mặc mà các hoạ sĩ đã vẽ và giới thiệu. Nơi nào có núi non là nơi đó có chùa viện và một điều thú vị là đi đến chùa nào cũng nghe họ tụng kinh hai thời sáng tối đều giống Việt Nam mình, nên Ngộ Tánh lên tiếng trước.
- Đó đệ thấy không, họ tụng kinh giống mình quá xá phải không?
- Không biết là ai giống ai đó.
- Dĩ nhiên là Việt Nam mình giống Trung Hoa thì đúng hơn. Vì lẽ đạo Phật Việt mình một phần lớn được truyền từ Trung Hoa vào mà.
- Điều ấy xin nói kỹ lại. Vậy tại sao khi Ngài Khương Tăng Hội từ Giao Châu mình qua nơi đất Nghiệp, Ngài bảo rằng lúc đó Trung Quốc ít chùa viện hơn mình?
- Huynh nên biết rằng đạo Phật Trung Hoa được truyền vào từ Ấn Độ sang từ thời Hán Minh Đế, nghĩa là đầu thế kỷ thứ nhất kia. Hai Ngài Ma Đằng và Trúc Pháp Lan mang kinh Tứ Thập Nhị Chương đầu tiên vào đất Nghiệp đó. Sau đó Vua Chúa nhà Hán đều có tín tâm với Phật Học; nhưng sau đó có nhiều triều đại phế Phật, do vậy khi Ngài Khương Tăng Hội đến thì tình thế nó như vậy đó.
- Nhưng đệ có biết hai thời công phu ai soạn không?
- Chà chà cái nầy phải hỏi lại đấy. Thế Sư Huynh có biết không?
- Sư Huynh cũng chịu. Huynh nầy chỉ biết một điều là ở Ấn Độ chư Tăng không tụng Lăng Nghiêm vào buổi sáng, không tụng A Di Đà vào buổi chiều. Họ chỉ ngồi Thiền thôi. Nếu tụng họ chỉ tụng kinh Pháp Cú và những bài kinh ngắn, chứ đâu dài hàng tiếng đồng hồ như các chùa ở xứ mình.
- Một điều chắc chắn là vào đầu thế kỷ thứ 5, Ngài Huệ Viễn là Tổ Khai Tông của Tịnh Độ đã có mặt tại đó từ thời nhà Tấn. Vậy thì chắc chắn Kinh A Di Đà và Kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng như kinh Vô Lượng Thọ đã bắt đầu tụng vào thời nầy.
- Còn Kinh Lăng Nghiêm?
- Dĩ nhiên là do các nhà sư Ấn Độ mang vào, chứ không lẽ tự nhiên các Tổ Sư Trung Hoa soạn ra cái chữ gì mà nó chẳng có nghĩa ấy sao?
- Đệ quên một điều là thần chú Lăng Nghiêm do Phật nói đấy để giải cứu cho Ngài A Nan bị Ma Đăng Già bắt đó.
- Đệ đã hiểu rồi, còn Huynh thì sao? Tại vì không trì tụng kinh Lăng Nghiêm thường xuyên nên bị Ma Đăng Già quấy nhiễu, có phải thế không nào, hãy bật mí cho đệ biết đi.
- Không nói thì đệ cũng biết rồi, nhưng ta …
- Nhưng sao? Có lẽ còn vương vấn đấy chứ?
- Chúng sanh mà đệ.
- Thôi chúng ta hãy quên đi chuyện cũ. Bây giờ chúng ta nên tìm cách sang Đại Hàn để viếng thăm các danh lam cổ tự tại đó. Vì lẽ Phật Giáo Đại Hàn, họ cũng dùng chữ Hán và tụng kinh giống mình y chang, chỉ khác là âm vận mà thôi.
Thế là họ cất bước ra đi với hai tay nãi nhẹ nhàng trên đường du hoá đó. Đi đến đâu, gặp chùa nào họ xin vào ngủ tá túc qua đêm. Ban ngày đi, ban đêm nghỉ. Họ chỉ dùng một bữa ngọ trai đã quen rồi kể từ khi mấy năm còn ở Ấn Độ. Do đó họ cảm thấy an lạc trong từng bước đi. Nếu nơi nào không có nhà dân chúng thì họ tìm trái cây trong rừng hái lấy làm đồ ăn thay cơm cháo. Nơi nào đồng không nhà trống họ cố nhịn qua đêm, thế là xong. Còn phương tiện di chuyển đối với họ cũng đơn giản. Lúc thì đi xe ngựa, khi thì đi kiệu, nếu đường khó đi, nhưng đa phần là đi bộ. Vì họ nghĩ đến Ngài Huyền Trang đã khổ nhọc hồi thế kỷ thứ 7 rất nhiều. Còn bây giờ so ra với ngày xưa, họ vẫn còn chưa thấm vào đâu, nên họ đã hăng hái tiến bước. Ngày lại tháng qua họ đã đến Triều Tiên lúc nào chẳng hay biết. Khi đến biên giới họ đã trình thư giới thiệu cho quan sở tại và họ đã vào đất nầy một cách dễ dàng.
Tại Trung Quốc cảnh đã đẹp thì tại Triều Tiên cảnh sắc còn đẹp hơn thế nữa. Hình như núi ở đây cao hơn và sông ở đây tuy không dài như ở Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng vẻ đẹp thật là lộng lẫy kiêu sa. Vừa đi, vừa ngắm cảnh hai bên đường cũng đã làm cho họ bớt nhọc nhằn. Họ thấy cách xây chùa ở đây cũng khác với Trung Quốc và Ấn Độ. Vì núi họ ít cây, nên chùa xây trong hang đá cũng nhiều, nhất là miền Bắc. Còn miền nam Triều Tiên thì trù phú hơn. Có nhiều chùa rất lớn như Phật Quốc Tự, Hải Ấn Tự và Thông Độ Tự chẳng hạn. Ba chùa nầy là ba chùa đại biểu của Phật Giáo Đại Hàn. Mỗi chùa như vậy ngự trị trên một và nhiều dãy núi khác nhau và mỗi chùa như vậy lớn gấp mấy chục lần chùa viện của Việt Nam chúng ta.
Ở Trung Quốc có đến 10 Tông Phái lớn, nhưng ở Đại Hàn chỉ có Tông Tào Khê thuộc Thiền Tông là lớn nhất. Còn các Tông khác thì ít người theo, ngay cả pháp môn Niệm Phật A Di Đà cũng vậy. Có lẽ ở Triều Tiên gần với Trung Quốc nên hấp thụ Thiền từ Lục Tổ Huệ Năng dễ hơn, nên họ đã ảnh hưởng được như vậy chăng?
Ngộ Đạo và Ngộ Tánh lần lượt thăm ba ngôi chùa trên và mỗi nơi ở lại nhiều tháng, ngay cả nhiều năm để tham cứu học hỏi. Chùa Viện tại Đại Hàn họ dậy sớm lắm. Mới hai giờ sáng đã ngồi Thiền và họ hành trì cho đến sáng. Ăn cơm tối thì bốn giờ chiều và hình như tám giờ tối họ đã đi ngủ rồi. Có lẽ để tiết kiệm nhang dầu chăng? Họ dùng chay như Trung Quốc; đồ chay đa phần là cây củ cải trong núi rừng được hái đem về luộc và chấm tương. Điều đặc biệt là họ ăn ớt rất nhiều. Có lẽ để chống lạnh. Vì lẽ Đại Hàn, ngay cả cái tên của nước nầy đã biểu hiện rõ một điều là “lạnh lắm” mà lạnh lắm thì phải có khả năng chống chọi lại với thiên nhiên, chỉ có ớt mới có thể giúp cho thân thể một phần khi ăn uống sẽ tạo nên nhiều năng lượng.
Họ lễ bái với nhau, chứ không phải một người ngồi để cho mình lễ. Dù cho vị Thầy đó là Hoà Thượng hay Thượng Toạ đi chăng nữa. Ở đây tinh thần bình đẳng có thể thấy qua sự thể hiện nầy.
Trong những năm tháng mà Ngộ Đạo và Ngộ Tánh ở đây, họ tìm cách học tiếng Đại Hàn và đi tìm tòi những sách vở để nghiên cứu thì được biết rằng từ đầu thế kỷ thứ 13, người Việt Nam mình đã có mặt tại quê hương lạnh giá nầy.
Như tất cả chúng ta đều biết là qua chủ mưu của Trần Thủ Độ, ông ta đã đưa Trần Cảnh làm Vua, tức Vua Trần Thái Tông sau nầy và việc phế lập trong lúc ấy chỉ một mình Trần Thủ Độ chuyên quyền. Ông ta ép công chúa Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi và cả gia tộc nhà Lý hầu như bị tru diệt hết. Ngay cả Lý Huệ Tông sau khi đã nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng để đi xuất gia và lấy hiệu là Huệ Quang, thế mà một hôm Trần Thủ Độ đi ngang qua chùa thấy Huệ Quang đang nhổ cỏ. Ông ta buộc miệng nói rằng. “Nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc” Ý nói rằng sẽ không chừa một người nào nhà họ Lý lại cả. Do vậy mà trong gia tộc hay nói đúng hơn là Hoàng Tộc, có một tướng quân mang họ Lý. Đó là Hoàng Tử Lý Long Tường đã cùng với gia đình và một số người quen thuộc khác đã xuống thuyền và qua Cao Ly tỵ nạn từ năm 1222, kể từ đó ở trong nước xem như đã yên và ngôi Vua nhà Trần đã bắt đầu phát triển.
Lý Long Tường đã hổ trợ các Vua Cao Ly và sau nầy được phong là Nam Hoa Tướng Quân. Dòng họ ấy cho đến nay vẫn còn sinh sống tại bán đảo nầy. Tuy chẳng còn ai nói được tiếng Việt, nhưng gia phả của họ, họ hãnh diện là con cháu nhà Lý của Việt Nam mình.
Rõ ràng trong các chùa thuộc Tông Tào Khê họ chuyên ngồi Thiền, nhưng kinh Bát Nhã họ vẫn tụng và kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Đại Bát Niết Bàn họ đều có học, không bỏ sót một môn học hay kinh điển nào. Hoàn toàn giống hệt như ở Trung Quốc.
Sau khi ở Cao Ly mấy năm thì cả hai người đã tìm cách xuống thuyền sang Nhật Bản. Khi ngồi chờ cho có chuyến thuyền sang bên kia bờ đại dương, họ nghĩ đến những chuyến đi của Ngài Giám Chân Hoà Thượng vào thế kỷ thứ 9 từ Trung Quốc sang truyền giới luật cho tăng ni Nhật Bản mà cảm thấy vững tâm hơn. Vì thời đó gian nguy gấp trăm lần mà các Ngài vẫn còn qua lại giữa hai nước được. Hà huống gì là ngày nay. Thế rồi họ quyết chí để đi đến một phương trời xa lạ khác.
Cuối cùng rồi hai người cũng đã lên được thuyền buồm của Nhật Bản cho đi nhờ khỏi trả tiền, nhưng phải về đảo Hokkaido tức Bắc Hải Đảo cập cảng Sapporo chứ không cập cảng ở Yokohama (Hoành Tân). Họ rất vui sướng để được đi như thế. Vì đây là cơ hội để hai người có thể đi chiêm bái tất cả chùa viện cũng như cảnh trí và học hỏi những phong tục tập quán từ Bắc chí Nam gồm bốn hòn đảo lớn của xứ đảo quốc nầy, mà Phật Giáo đã được truyền sang đây từ Đại Hàn vào thế kỷ thứ 6 đến nay.
Mấy ngày lênh đênh trên biển cả họ chỉ thấy trời mây sóng nước. Thỉnh thoảng mới thấy được một đoàn hải âu liệng quanh thuyền. Họ biết rằng đã gần đất liền rồi. Cả Ngộ Đạo và Ngộ Tánh đều mừng rỡ và một ngày nọ họ đã lên bờ sau khi từ giả thuỷ thủ đoàn với những cái chào cảm ơn thật mõi cổ. Trông ra ai cũng vui vẻ, vì đã về lại được quê hương của mình qua những ngày tháng lênh đênh trên biển cả và phước đức cho họ là chẳng có gặp một trận cuồng phong nào. Không như những thế kỷ trước, Ngài Giám Chân Hoà Thượng từ Trung Quốc đi không biết bao nhiêu lần đều không thành công. Mãi cho đến lần thứ sáu đoàn thuyền của Ngài mới đến được xứ Phù Tang nầy và ngay cả Ngài Đạo Nguyên sáng Tổ của Tào Động Tông Nhật Bản khi sang Trung Quốc học Đạo cũng đã gặp không biết bao nhiêu là chướng nạn trên đường cầu đạo đó. Còn họ là những người vô danh, ngôn ngữ không rành nhiều và sự tu hành còn non nớt, nhưng có lẽ nhờ cái đức của Sư Cụ Từ Tâm và sự gia hộ của chư Tổ, mà họ đã đến được đây một cách bình yên vô sự.
Hình thể của Hokkaido giống như một củ khoai lang cắt ngang, gồm bốn cạnh và đa phần dân chúng ở đây sống về nghề nông và chăn nuôi. Họ sống chung với một dân tộc Thiểu Số trong vùng gọi là người Ainu, trông họ cũng giống như người Nhật, nhưng mặt mày thô hơn. Vả lại văn hóa của họ vẫn còn là văn hoá du mục, nên so với người Nhật, họ còn kém xa lắm. Quanh vùng không có chùa viện nào to lớn đáng kể. Chỉ có những cảnh trí và suối nước nóng là nổi tiếng mà thôi. Người Nhật rất thích thiên nhiên và họ sống rất hòa hợp với thiên nhiên. Mỗi khi gặt hái mùa màng xong, họ có những ngày lễ hội để ăn mừng và cảm tạ đất trời đã giúp cho họ có được một cuộc sống an bình và cơm no áo ấm như thế.
Từ đảo Hokkaido muốn qua đảo chính gọi là Honshu phải dùng tàu bè. Do vậy mà hai người đã tìm cách sang đây. Đầu tiên họ ghé Sendai là một thị trấn miền bắc đẹp tuyệt vời. Với những lá phong vào mùa thu có nhiều màu sắc; những chiếc lá của cây sồi rụng bay lả tả trong rừng, trên đường đi và chen lẫn với những lá khác dệt nên những gấm hoa của đất trời vạn vật. Giống như một tấm thảm thiên nhiên gồm nhiều màu sắc tụ hội lại. Đi đến đâu họ cũng trầm trồ khen ngợi. Họ quan sát về cách ăn mặc cũng như sinh hoạt của người Nhật, thì thấy họ cũng chẳng khác với người Trung Quốc và Việt Nam là mấy. Vì chữ nghĩa họ vẫn dùng Hán văn, ăn uống họ vẫn dùng cơm gạo và đặc biệt có một loại tương gọi là Miso gần như xác đậu nành cho vào nước nóng nấu chung với đậu hủ, ăn rất tuyệt vời. Gọi là Missosuru. Đây là món ăn đặc biệt truyền thống của người Nhật cũng giống như kim chi của Đại Hàn hay dưa cải muối của người Việt Nam vậy. Họ cũng uống trà và nghe đâu trà tại Nhật là do một vị Thiền sư người Nhật tên là Vinh Tây (Eisai) vào thế kỷ thứ 12 đã qua học đạo tại Trung Quốc, sau khi trở về nước, Ngài ấy đã mang hạt trà về và gieo hạt, cây trà lên xanh tốt. Ngài đã dạy cho dân chúng lấy lá trà phơi khô rồi đem sắc với nước sôi uống, là một món tráng miệng bổ dưỡng rất tốt cho sức khoẻ. Do vậy mà trên từ Thiên Hoàng Đương Đại dưới cho đến thứ dân, ai ai cũng hoan hỷ dùng trà và Ngài Vinh Tây trở thành vị Tổ Sư của Trà Đạo Nhật Bản, cũng giống như Ngài Hải Thượng Lãn Ông là tổ nghề y học của Việt Nam chúng ta vậy.
Đến Tokyo tức là Đông Kinh vẫn còn sơ sài lắm. Vì các Vua chúa Nhựt từ khi lập quốc cho đến thế kỷ thứ 18 vẫn đóng đô ở Nara và Kyoto. Mãi sau nầy mới dời về Tokyo, ít ra là vào sau cuộc Duy Tân của Vua Minh Trị (Meiji) Thiên Hoàng vào năm 1868. Do vậy mà đền đài cung điện thành quách ở đây chưa có nhiều. Chỉ có bến cảng Yokohama là buôn bán sầm uất, đa phần là người Trung Hoa dùng thuyền đến đây để trao đổi hàng hoá. Có nhiều người ở lại đây luôn, nhất là sau khi nhà Thanh lên chiếm ngôi nhà Minh vào năm 1640 có nhiều người không muốn cộng tác với nhà Minh nên đã dùng thuyền đến tỵ nạn tại Nhật. Ở Việt Nam chúng ta cũng thế, khi đó, người Trung Hoa đến tỵ nạn tại Hội An. Vì Hội An thuở ấy đã là một thương cảng lớn buôn bán giao thương với nhiều nước ở Âu châu như Hoà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha v.v…Từ đó ta thấy rằng Việt Nam chúng ta cũng có sự liên hệ với người ngoại quốc đã từ xa xưa lắm rồi, chứ không phải chỉ với Trung Quốc mà thôi. Các vị giáo sĩ người Bồ Đào Nha đến Việt Nam muốn truyền đạo họ phải học tiếng Việt Nam và sau khi học, họ đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ tại làng Thanh Chiêm, thuộc xã Cẩm Hà, gần Hội An bây giờ. Còn ngôn ngữ tiếng Nhật thì do Ngài Bạch Ẩn Huệ Hạc (Hakuin), là một Thiền Sư người Nhật đã sáng tác các loại chữ Hiragana và Katakana. Ngoài ra, chữ Hán vẫn đọc theo tiếng Nhật đã có tự lâu rồi. Việc nầy cũng giống như chữ Hán Việt của chúng ta vậy. Chỉ khác một điều là chữ Việt ngày nay do các vị Giám Mục người Bồ Đào Nha sáng chế. Còn chữ Nhật ngày nay do các vị sư Nhật sáng chế ra. Vì lẽ ấy cho nên văn hoá Nhật là văn hoá Phật Giáo. Nói lên điều đó không ngoa chút nào. Từ Trà Đạo, Hoa Đạo; Thơ Đạo, Kiếm Đạo, Nhu Đạo v.v…, tất cả đều từ chùa mà ra và tất cả đều do các vị Thiền Sư chủ xướng, đề bạt cũng như sáng tác. Đủ thấy như thế là vị trí của Phật Giáo không nhỏ tại đảo quốc nầy.
Đi về hướng đông của Tokyo Ngộ Đạo và Ngộ Tánh tâm hồn như được thư giản ra rất nhiều, vì lẽ cảnh nào cũng đẹp tuyệt vời. Nếu nói cảnh trí ở Trung Hoa là những bức tranh thủy mạc thì cảnh trí tại Nhựt Bản là những sức sống hiện thực ở trong những bức tranh thiên nhiên ấy.
Nhà của người Nhựt đa phần nhỏ hơn nhà của người Trung Quốc và được xây dựng bằng những vật liệu nhẹ để tránh nạn động đất. Ở Nhựt động đất thường xảy ra hằng ngày. Vì lẽ núi Phú Sĩ vẫn còn hoạt động, đây giống như là ngòi thuốc nổ chậm. Cho nên người Nhựt không xây nhà cao và nặng nề như những nước khác.
Tại Kyoto, cứ đi chừng 50 thước là có một ngôi chùa. Chùa đâu là chùa, mà chùa nào cũng đẹp tuyệt vời. Mái không cong như kiểu Trung Quốc hay Việt Nam mà độ cong vừa tầm như cánh Phuợng Hoàng đang chuẩn bị sè ra và đáp xuống đất vậy. Đặc biệt họ không dùng màu sắc sặc sỡ như Trung Quốc hay Tây Tạng, chỉ toàn bằng gỗ. Ở Kyoto có ngôi chùa tên là Higashi Hongangi; có nghĩa là Đông Bổn Nguyện Tự. Công trình nầy xây dựng từ thế kỷ thứ 12, bởi Tịnh Độ Tông là một Tông phái lớn do Ngài Thân Loan Thánh Nhơn lập nên. Ngôi chùa nầy có tất cả 250 cây cột. Mỗi cây độ hai người ôm và cao chừng 50 thước tính từ nơi sàn nhà lên đến nóc, thẳng tuốt một đường không có chắp nối. Tương truyền rằng ngày ấy muốn dựng những cây cột nầy toàn dân xứ Nhựt huy động những người đàn bà hy sinh mái tóc của mình rồi gọp lại với nhau, để bệnh thành những sợi dây cúi thật dài hằng 100 thước; như thế mới có thể cột vào thân cây cột và dựng chùa được. Cho đến ngày nay những cây cột ấy vẫn còn và những dây cuối ấy vẫn sót lại một vài dây, có trưng bày nơi đại điện của chùa để ghi nhớ lại những công đức của người xưa.
Đến đây để thấy cái vĩ đại của đất trời, cái bao la của tạo hóa và nhất là cái ý chí kiên cường của con người, quyết rằng không chịu thua trước bất cứ một hoàn cảnh nào mà thiên nhiên vốn vô tình; nhưng thuở ấy đã gặp những khó khăn như thế. Ngộ Đạo và Ngộ Tánh càng ngẩn ngơ hơn khi đi thăm hết các chùa viện quanh vùng. Nào Kim Các Tự, Ngân Các Tự. Các chùa nầy có lịch sử viết cả quyển tiểu thuyết cùng không hết nữa.
Chùa Thanh Thủy tự (Kyomizudera) được xây dựng một nữa trên núi và một nữa dưới triền đồi. Vì vậy cho nên thơ mộng và lãng mạn. Đặc biệt chùa nầy xây toàn bằng gỗ quý, trông rất bề thế và đồ sộ. Mái vẫn lợp tranh để giữ lại truyền thống cũ của người Nhựt. Dưới thềm chùa có ba giòng nước chảy từ trong suối ra. Một giòng tượng trưng cho tình yêu; một giòng khác tượng trương cho công danh sự nghiệp và tiền tài và một giòng nữa tượng trưng cho sức khoẻ. Mỗi người thảy một đồng bạc kẻn vào miệng hồ rồi chấp tay khấn nguyện theo điều mình mong muốn, đoạn nhắm mắt lại để hứng nước. Hứng trúng giòng nước nào tức ứng nghiệm với lời nguyện của mình cho việc đó. Đấy là một tập tục tương đối hay; nên có rất nhiều người đến đây để cầu.
Từ giả Kyoto trong luyến tiếc, Ngộ Đạo và Ngộ Tánh trên đường đi đến Nara là Kinh đô cổ nhất của Nhựt Bản. Nơi đây đã có lần Thánh Đức Thái Tử (Shotoku Taishi), là một Phật Tử thuần thành, lấy Tam Quy Ngũ Giới cho vào hiến pháp 17 điều để trị dân. Ngoài ra mỗi ngày trước khi lâm triều, nhà Vua đều hướng về hướng Đông để đảnh lễ các vị Phật. Những hành động thiện mỹ ấy của Đức Vua vào thế kỷ thứ 7 khiến cho triều đình và dân chúng ai ai cũng vâng mệnh phụng trì những giáo chỉ, mệnh lệnh của Vua và triều đình ban ra.
Tại Nara có chùa Todaiji (Đông Đại Tự) là một chùa cổ nhất so với Pháp Long Tự gần đó. Nghe truyền rằng vào thế kỷ thứ 10 triều đình Nhựt Bản có cho người qua Chiêm Thành để mời đoàn nhạc công qua Nhựt trình diễn âm nhạc Phật Giáo. Trong đoàn đó lại có thêm những nhạc Sư của Phật Giáo Đàn Trong. Chính nhã nhạc Hoàng cung ấy mãi cho đến bây giờ Nhựt Bản vẫn còn trình tấu vào những khi triều đình có đại lễ liên quan với Phật Giáo.
Ở giữa chánh điện có một tượng đồng đen rất to, cao chừng 40 mét. Nghe đâu tượng nầy được đúc trước và sau đó mới xây chùa; nên tượng nằm lọt vào bên trong. Vào thế kỷ thứ 9, thứ 10 mà những tượng được đúc bằng đồng to lớn như thế nầy quả thật là đầu óc của người xưa quá cao cả tuyệt vời. Chung quanh chùa là vườn tùng, vườn bách. Lại thêm có nhiều chú nai đang ngơ ngác tìm cỏ để ăn. Đến đây Ngộ Đạo và Ngộ Tánh nhớ lại bài học của Tổ Quy Sơn trong Văn Cảnh Sách rằng:
“Người đời nay yếu mềm, không tự làm chủ mình được như cây tùng cây bách, chịu đựng với gió sương nắng lạnh; nhưng vẫn cứ vươn lên trong trời xanh. Đời nay nếu người xuất gia không cao cả được như cây tùng cây bách thì hãy làm những dây leo, tùng cao đến đâu thì dây leo đến đấy.“
Quả thật ngẫm nghĩ lời dạy của người xưa mà thấm thía vô cùng. Ngày xưa người ta ăn lá cây, uống nước suối để sống mà có được những tâm hồn cao thượng như vậy. Còn bây giờ có đầy đủ tất cả nhưng họ vẫn thấy thiếu thốn như thường. Họ đến đây cũng học được tư tưởng Thiền của Lâm Tế và Tào Động. Lâm Tế có Ngài Nhứt Hưu, Ngài Bạch Ẩn và Ngài Bàn Khuê là những vị Đại Thiền Sư thời bấy giờ. Tào Động Tông thì có Ngài Đạo Nguyên, Nhựt Liên Tông có Ngài Nhựt Liên Thánh Nhơn. Tịnh Độ Tông có Ngài Thân Loan Thánh Nhơn... toàn là những vị Thánh, nhưng cũng từ những người phàm mà qua công phu tu tập họ đã thành tựu được như thế. Ngày xưa các Ngài nghe tiếng chim kêu, tiếng suối chảy, cảm được cái linh diệu của hoa nở hương bay nên ngộ được đạo. Còn bây giờ những việc ấy xảy ra nhan nhản hằng ngày khắp đó đây nhưng đã đánh động được lòng người đâu.
Phải chăng „thời thế tạo anh hùng“ là đúng trong lúc nầy? Còn cái tự thể là Phật tánh của mỗi người thì ta đã đánh mất từ lâu rồi? Gió vẫn thổi, mưa vẫn rơi, hoa vẫn nở, chim vẫn kêu ríu rít trên cành như bao đời nay vậy. Nhưng con người thì có nhiều đổi thay quá, khiến ai trông thấy cũng đau lòng.
Ở Nhựt những bảo tháp được xây dựng toàn bằng gỗ cao từ 3 đến 11 tầng. Nhiều tháp xây bằng gỗ nhưng không có một cái đinh sắt nào đóng vào đó, mà chỉ ghép vào toàn bằng mộng. Ngọn tháp cao năm tầng được gọi là „Ngũ trùng tháp“ ấy đã trải qua không biết bao nhiêu với phong sương cùng tuế nguyệt và những trận động đất khủng khiếp; nhưng những ngọn tháp nầy vẫn còn đứng đó như muốn thi gan cùng tuế nguyệt. Thật là bất khả tư nghì.
Họ đứng nhìn những công trình kiến trúc vào thời xa xôi ấy mà thầm khâm phục vô cùng. Ngoài ra người Nhựt còn theo một Đạo giống như Đạo ông bà của chúng ta là Shinto. Dịch nghĩa là Thần Đạo. Đây là cái Đạo mà Vua chúa là những vị được thờ như là những vị Thần của quốc gia, sinh ra chỉ để đứng trên thiên hạ mà cai dân, trị nước phải nhứt nhứt tuân theo. Tuy Shinto không có tu sĩ. Nhưng họ đã gìn giữ được lâu ngày. Vì chính Hoàng gia và Triều đình là những người luôn luôn bảo trợ cho họ. Họ phục sức những đồ lễ cũng giống như những Kimono của người Nhựt mặc; nhưng chỉ toàn một màu đen và trắng. Chỉ những vị có chức sắc thì có đội mũ nhiều màu.
Sau khi viếng thăm Nara thuộc đảo chính của Nhựt Bản họ tìm thuyền nhỏ qua thăm đảo Tứ Quốc (Sikokku). Đảo nầy cũng không có những thánh tích đặc biệt. Tuy nhiên trên đảo có đến 33 đạo tràng của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát , thường hay gọi là ”Quan Âm Linh Trường“; tức nơi linh thiêng của Đức Quan Thế Âm. Những hành giả tu Thiền hay tu Tịnh Độ, trước khi giải một công án chưa xong; hoặc giả sau khi đã giải một công án gọi là „tu hành sau khi đã giác ngộ“; hoặc giả cũng có những người nhứt tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương thì hay đi tuần như thế. Do đó họ đi bộ nên gọi là „tuần lễ“; tức là tuần hành và lễ bái. Đến đâu họ cũng tha thiết nguyện cầu để được toại nguyện. Đến đây Ngộ Đạo và Ngộ Tánh được nghe kể lại những câu chuyện của các vị Tổ Thiền Lâm Tế trong những thế kỷ trước cũng đã có đến Tứ Quốc nầy để đi „tuần lễ“ và nhờ đó mà Ngộ Đạo. Ví dụ như Ngài Duy Tinh khi quán công án của Ngài Lâm Tế về „âm thanh của một bàn tay“ quán hoài không ra chỗ hồ nghi. Thế mà sau khi đi „tuần lễ“ ở đảo Tứ Quốc nầy thì Ngài đã giải được công án đó. Ngài nầy sinh ra tại Nhựt vào thế kỷ 17 và hành đạo khắp nơi vào thế kỷ thứ 18. cuộc đời của Ngài thật là ly kỳ. Khi đã chứng đạo rồi Ngài luôn đề xướng công án „bất sanh Thiền“; nghĩa là Thiền ấy chẳng sanh, đã có sẵn nơi tâm, điều nầy trái ngược lại với Thiền của Ngài Bạch Ẩn đã xuất hiện trước đó chừng hơn nữa thế kỷ. Ngài tu hành rất khổ hạnh. Sau khi đã được Thầy mình ấn chứng rồi, về lại quê hương làm chòi tranh và ngồi thiền trong chòi cho đến bịnh lao phổi mà cũng không dừng nghỉ. Đôi khi khạt ra toàn đờm và máu. Thế nhưng vẫn cứ ngồi. Một hôm Ngài đứng dậy đi rửa mặt và sau khi rửa mặt xong không thể trở lại chỗ ngồi cũ. Ngài đang đứng đó cảm nhận được một mùi hương bay đến. Đó là mùi hương của hoa mai. Thế là Ngài ngộ đạo.
Trong khi Ngài tu hành lúc chưa được ấn chứng thì Ngài luôn nhận được những lá thư động viên từ mẹ của mình. Khi chồng thư càng cao bao nhiêu Ngài hiểu rằng mẹ mình càng sống được lâu và khỏe mạnh bấy nhiêu. Đến khi mẹ Ngài chết, Ngài đem tất cả những lá thư ấy đốt đi và cùng lúc tụng kinh siêu độ cho mẹ. Sau đó Ngài hốt hết những tro đã được đốt đó đem về làm một Tôn Tượng Địa Tạng với dáng hình của mẹ và trên bụng Ngài Địa Tạng Ngài cho tất cả những tro nầy vào và được gọi là „Phật Thai Tạng“; ý nói chư Phật chư Bồ Tát đã vì cứu độ chúng sanh mà vào đời chịu khổ. Trong đó có mẹ Ngài là một.
Lúc đương thời mẹ Ngài còn sống. Ngài cứ hỏi cái „Minh Đức“ trong „Đại học“ thuộc về kinh thi của Khổng Tử, mà Thầy dạy chữ Nho đã không giải thích được, Ngài đem sự ưu tư ấy về hỏi mẹ; nhưng mẹ cũng không giải rõ và cuối cùng Ngài đã sáng ra là cái „Minh“ ấy chính là cái Phật tánh của mình. Cũng như nhiều người xem tử vi mà không rành sao Tử vi là sao gì? Đó là sao Phật chứ chẳng có gì lạ. Khi chưa hiểu đạo đi quanh đi co để tìm cho ra câu giải đáp; nhưng khi đã ngộ đạo rồi thì cái đó nó ở bên trong chứ không phải ở bên ngoài và nó chính là cái Phật tánh mà ai cũng có đó. Ngộ Đạo quay lại hỏi Ngộ Tánh rằng:
- Sư Huynh có biết tại sao ở đây họ thờ nhiều tượng Địa Tạng mà những tượng nầy không giống với Trung Quốc và Việt Nam mình. Tại sao tượng nhỏ xíu vậy?
- Nghe đâu tiếng Nhựt gọi là Ojijosama; nhưng cũng còn gọi là Omizunoko. Nghĩa là có những người đàn bà sinh con không được, bị chết sớm. Do đó họ làm những tượng Địa Tạng nhỏ như thế để cầu nguyện cho con mình được siêu thoát.
- Nhưng muốn siêu thì phải cầu Đức A Di Đà tiếp dẫn chứ sao lại Ngài Địa Tạng?
- Có lẽ họ nghĩ rằng Ngài Địa Tạng có cái thệ nguyện gần gũi với họ chăng.
- Theo đệ nghĩ thì có lẽ ở Nhựt nhiều tông phái quá, cho nên họ chọn một vị Bồ Tát nào đó có đại nguyện thì họ thờ.
- Có thể là Sư Đệ cũng có lý; nhưng ta sẽ cố gắng tìm hiểu thêm.
Họ hiểu được rằng đạo Phật khi đi vào nước nào thì hội nhập vào với phong tục và tập quán của nước đó cũng như đạo Phật ấy phải là đạo Phật của nước đó, chứ không còn là đạo Phật của Ấn Độ nữa; hoặc giả cũng không phải là của Trung Hoa hay Đại Hàn. Theo tinh thần Đại Thừa thì mỗi một nước như vậy có một cách riêng để đem đạo vào đời. Cũng ví như Thiền ở tại Ấn Độ thì im lặng tĩnh mịch; nhưng khi được truyền qua Trung Quốc đến đời Ngài Lâm Tế thì quát mắng, đánh đập v.v.. vậy nếu chúng ta nói cái đó không phải Thiền cũng không được. Vì Thiền đã qua nhiều giai đoạn gạn lọc và qua nhiều quốc độ khác nhau nên phải vậy.
Cũng như thế đó Phật Giáo tại Nhựt, nhất là Tịnh Độ Tông dưới sự lãnh đạo của Ngài Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhơn) vào thế kỷ thứ 13; nghĩa là ở Việt Nam mình thuộc vào thời nhà Trần, ở Nhựt các Tăng sĩ đã lập gia đình, có vợ con cưới hỏi hẳn hoi; nhưng tại Việt Nam mình mấy trăm năm sau còn không biết tại sao và cho đó là xấu. Thế nhưng việc nhập thế của Tông phái nầy họ lấy lý do là „tức thân thành Phật“; nghĩa là thành Phật ngay trong thân nầy chứ không cần chờ ở vị lai nữa và quan niệm rằng sắc thân cũng là Phật thân; nên với họ rất tự tại vô ngại ở mọi vấn đề. Đó có thể là quan niệm sống về Đạo và thực hành về Đạo của Phật Giáo Nhựt Bản mà thôi. Dĩ nhiên nó không là bài học mô phạm cho những xứ Phật Giáo khác. Vì mỗi nước đều có phong tục tập quán riêng của mình.
Sau khi đi chiêm bái theo các đòan hành hương đi „tuần lễ“ Ngộ Đạo và Ngộ Tánh bắt đầu tìm cách sang đảo Kyushu (Cửu Châu). Đây cũng là một trong bốn đảo lớn còn lại mà họ phải đi. Vùng nầy khí hậu tương đối ấm áp và đa phần là núi. Vùng Kagoshima (Lộc Nhi Đảo) núi lửa vẫn còn đang hoạt động mạnh và họ đã tìm cách đến đó để xem. Gần đó có loại củ cải ở vùng nầy thật lớn; lớn không thể tưởng tượng nổi. Một củ như thế hai người khiêng không nổi. Đến đây họ cũng nhớ lại câu chuyện của Hòa Thượng củ cải trong truyện kể của người Nhựt.
Ngài tu hành sống đời sống thanh đạm nơi núi thẳm rừng sâu. Vào thời xa xưa dĩ nhiên là Nhựt cũng không có những món ăn trân quý như sau nầy. Công tác của Ngài mỗi ngày là làm ruộng và ruộng chùa chỉ có củ cải là tốt hơn bất cứ loại hoa màu nào. Sau khi thu hoạch nhiều mùa, cải chất thành đống và bị thối, Ngài chẳng biết làm gì. Nên nghĩ ra cách là phải phơi khô và muối mặn; đến mùa đông đem ra dùng. Từ đó về sau trở thành thông lệ, khi ăn củ cải muối người ta gọi là Takuwan. Đôi khi còn thêm chữ Osho vào sau để tỏ lòng tôn kính. Chữ Osho có nghĩa là Hòa Thượng. Hòa Thượng củ cải. Củ cải cũng được lấy tên của Ngài nữa. Do vậy mà ngày nay ai đến Nhựt khi ăn củ cải muối mặn nên nhớ đến vị Hòa Thượng nầy.
Thời gian thấm thoát trôi qua mới đó mà họ ở Nhựt đã khá lâu, đã trải qua nhiều mùa xuân hạ thu đông và giờ đây cả hai người đều có thể xử dụng tiếng Nhựt một cách nhuần nhuyển và dĩ nhiên những phong tục tập quán của Nhựt họ cũng đã rành. Những cái chào của họ không còn cảm thấy bị mõi cổ như lúc ban đầu khi tàu mới cập bến tại Sapporo ở Hobkaido trong những năm trước nữa. Họ đến đâu cũng học hỏi được rất nhiều và cả hai bây giờ đều muốn quay về Việt Nam nơi ngôi chùa Hưng Phước đầy kỷ niệm của tuổi thơ ấy.
Trên đường về, tàu đi dọc theo eo biển của Trung Hoa rồi cuối cùng thì dừng lại ở Hải Phòng và hai người trên tuyến hải trình xa xôi ấy đã hồi tưởng lại.
Tất cả những nước đã đi qua họ thấy rằng nước nào cũng có những vị Vua và những vị Thiền Sư rất đặc biệt. Riêng Việt Nam mình thì Ngộ Đạo và Ngộ Tánh cũng rất hãnh diện về ba ông Vua Phật Tử; một ở vào triều Lý. Đó là Lý Công Uẩn; nhưng ông Vua nầy sau khi lên làm Vua đã là một ông Vua Phật Tử hiền lành, thông minh; nhưng không để lại một tư tưởng nào; do đó ngày nay khi nghiên cứu đến lịch sử khó mà có cái gì đó chắc thật để dựa vào mà phẩm bình, đa phần là tư tưởng của Thiền Sư Vạn Hạnh trong thời gian ấy. Ông Vua thứ hai, đó là Trần Thái Tông, mà đã có lần hai người đề cập đến phía trước. Tuy nhiên đi sâu hơn nữa thì thấy ông Vua Phật Tử nầy là người khai mở triều Trần. Công việc triều chính bận rộn không biết là bao nhiêu, mà sau khi vào núi Yên Tử gặp quốc sư Phù Vân rồi và sau đó có sự can thiệp mạnh của Trần Thủ Độ mà Ông phải về lại cung cấm để tiếp tục nhiếp chính. Ban ngày lo việc triều đình, ban đêm lo tụng Kinh, niệm Phật, ngồi Thiền. Quả là một ông Vua khác thường với mọi ông Vua khác. Ông có soạn nhiều sách Kinh để lại. Trong đó có hai quyển „Khóa Hư Lục“ và „Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi“ là quan trọng nhất và còn sót lại nguyên vẹn. Do đó ta có thể thấy được cái tư tưởng của ông Vua nầy rất rõ ràng.
Qua quyển “Sám Hối Sáu Thời Trong Ngày“ do vua Trần Thái Tông soạn, ta thấy rằng chính Vua cũng sám hối nữa; chứ không phải chỉ soạn ra cho người khác sám hối. Đó là sám hối sáu căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Gồm có sám hối buổi sáng, nữa trưa, buổi trưa, buổi chiều, buổi tối và khuya. Mỗi một thời như vậy có một nghi thức riêng. Đa phần không thay đổi nội dung mấy. Tuy nhiên phải nói rằng đây là một ông Vua liễu đạo mới có thể chủ trương và đề xướng như thế. Khi mà Vua đã thực tập sám hối ban ngày thì chắc rằng các quan văn võ triều đình ai ai cũng thực hành như thế cả. Đó là cái phước của nhân dân trăm họ sinh ra trong thời đó.
Ngoài ra tác phẩm “Khóa Hư Lục“ của nhà Vua soạn ra theo tinh thần tánh không của Trung Quán Luận và dựa vào cái không hai của lý tưởng Bát Nhã; nên tác phẩm nầy là một tác phẩm rất độc đáo, khó có ông Vua khác sánh bằng và đã lấy cái lý tưởng Trung Đạo đó trong tác phẩm nầy đem ra để trị dân. Vì vậy cho nên suốt trong triều Trần đã ba lần quân Nguyên Mông đến đánh phá Việt Nam chúng ta; nhưng lần nào đến cũng mang lại thất bại ê chề, rồi mang quân trở về lại Trung Quốc.
Tinh thần Bát Nhã của Ngài Long Thọ trong Trung Quán luận đã ảnh hưởng nhà Vua trong tác phẩm „Khóa Hư Lục“ không ít. Đó là bất tăng, bất giảm; bất thường, bất đoạn; bất khứ, bất lai và bất nhất, bất dị. Ở vào thời điểm ấy của thế kỷ thứ 13 mà có được cái nhìn như vậy quả là một cái nhìn thực tướng đối với vạn pháp.
“Bất tăng bất giảm“ cũng là tinh thần của Bát Nhã, có nghĩa là mọi vật mọi việc ta thấy có lên xuống, còn mất là do con mắt chấp ngã, chấp tướng của mình, lấy mình làm chủ; nên mới có sự phân biệt ấy. Chứ thật ra tất cả pháp thế gian hay xuất thế gian cũng đều không tăng mà cũng không giảm.
“Bất thường bất đoạn“ nghĩa là các pháp ấy nó luôn luôn thay đổi, chứ không ở yên một chỗ, cũng không phải mất đi. Do vậy trong Kinh Kim Cang Phật dạy rằng: „Tất cả pháp đều là Phật pháp“ nằm ở ý nầy. Cái gì là thường thì cái ấy không thuận theo sanh tử; cái gì là đoạn thì cái ấy không đúng với nhân quả. Do vậy mọi vật trên thế gian nầy chỉ thay đổi và hoán chuyển vị trí để tồn tại, chứ thật ra nó không còn mà cũng chẳng mất.
“Bất khứ bất lai“ cũng giống như tinh thần của Kinh Kim Cang định nghĩa là: „Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai“. Nghĩa là Như Lai chẳng từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu. Đó là Như Lai. Vậy thì cái gì có đến, có đi; cái ấy là còn đối đãi. Không phải là chân thật tướng, chân thật nghĩa của vạn pháp. Không phải hôm nay chúng ta có mặt trong cuộc đời nầy thì bảo rằng ta đã đến. Ngày mai ta mất đi thì bảo rằng ta đã đi. Thật ra chẳng có đi mà cũng chẳng có đến. Tất cả sự đến đi đó chỉ là những hiện tượng, mà đã là hiện tượng thì không có thật tướng, đã không có thực tướng nghĩa là vật ấy là giả định. Bởi vì giả định cho nên ta thấy có đến có đi.
“Bất nhất bất dị“ là điểm sâu sắc nhất, mà trong bất cứ một loại triết học nào của Đông Tây cũng không thể sánh bằng. Đây có nghĩa là chẳng phải một mà cũng chẳng phải khác một. Nghĩa là trong cái nầy có cái kia và trong cái kia có cái nầy. Ngoài vật chất không có tinh thần, ngoài tinh thần không có vật chất. Cũng ví như lửa nằm trong củi. Ngoài củi không có lửa. Bản tính của lửa là bản tính Phật, mà Phật tính ấy không trong mà cũng chẳng ngoài; nên gọi là không khác một là ở ý nầy. Đây có thể là ý chính của tư tưởng Trần Thái Tông đem vào áp dụng trong cách cai dân trị nước của Ngài. Cho nên Ông gọi rằng: „sắc thân tức thị Phật thân“. Cái thân bằng da bằng thịt nầy tức là thân Phật. Dĩ nhiên là Phật không phải tự nhiên mà có. Sở dĩ có Phật được là do nhờ có cái sắc thân nầy. Do vậy mà lý luận ngoài cái nầy không có cái kia và ngoài cái kia không có cái nầy là vậy.
Đến đời Vua cháu là Trần Nhân Tông đã quá chín muồi qua cái tư tưởng Phật học đó. Do vậy Ông Vua nầy mới sáng lập ra một phái Thiền mới của Việt Nam thuần túy. Đó là phái Trúc Lâm Yên Tử. Qua những thơ văn và bút tích còn để lại chúng ta thấy tác phẩm „Cư Trần Lạc Đạo“ quả là nhân cách sống thật tuyệt vời. Ở trong cuộc đời vẩn đục nầy mà vẫn vui với Đạo. Cái Đạo ấy không cần phải trốn tránh thế gian mới có được. Ông chủ trương Niệm Phật Thiền; hoặc Thiền Niệm Phật cũng là một trong những cách giải quyết vấn đề sanh tử.
Ở vào giữa đời sau khi đã chiến thắng quân Mông Cổ vào năm 1285 và 1287 thì Ông thấy quá đủ để chứng kiến bao nhiêu sự thịnh suy của dân tộc và sự phù phiếm của thế gian; nên Ông đã quyết nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông. Còn Ông lên làm Thái Thượng Hoàng. Mãi đến năm 1296 Ông mới chính thức xuất gia để hòan thành sở nguyện của mình. Đã vậy còn mang Huyền Trân Công chúa con của mình, là em của Vua Trần Anh Tông sang gã cho Vua Chiêm Thành là Chế Mân năm 1306, để đổi lấy hai Châu Ô và Châu Rí: Nếu không có nàng công chúa sang sông ấy thì quê hương Đại Việt của chúng ta cũng không thể có được một giang sơn gấm vóc trải dài từ Bắc chí Trung, rồi Nam như thế. Vả lại Vua Chúa của nước ta tuy có ảnh hưởng tinh thần tùy duyên của Đạo Phật không ít; nhưng tư tưởng lo cho dân như lo cho con ruột của mình, vì thế mà đã tìm cách mở mang bờ cõi về phía Nam. Rồi những triều đại tiếp tục trong lịch sử cũng thế. Một Ngọc Hân công chúa vợ của Nguyễn Huệ cũng là một bậc nữ lưu tài hoa trong bài văn tế khóc chồng; chứng tỏ rằng người đàn bà ấy bản lãnh lắm. Sau Hoàng Đế, chính là Bà. Bà đã làm đẹp mặt cho chồng và quân sĩ ở chốn sa trường khi đối đầu với mấy vạn quân Thanh.
Rồi công chúa Ngọc Vạn đã được gả về Chân Lạp nhưng khi Vua chết, bà xin về ở Gia Định; rồi từ đó xây thành trấn lũy để trở thành Tây Cống và là một tiền đồn khá quan trọng ở Đàng Trong. Vua Minh Mạng cũng có người con gái đi xuất gia tại chùa Tam Thai, núi Non Nước ở Đà Nẵng v.v... như thế ta có quyền kết luận là Phật Giáo Việt Nam chúng ta cũng đâu có thua sút gì so với các nước Phật Giáo lân bang. Chỉ có điều là cái tinh thần nhập thế ấy của vua chúa Việt Nam chúng ta chưa được phổ cập nhiều ra ngoại quốc đó thôi.
Cả hai người, Ngộ Đạo và Ngộ Tánh cùng đồng quan điểm là bất cứ ở thời điểm nào mọi người cũng nên học ngoại ngữ là vấn đề quan trọng. Vì nếu ngôn ngữ không thông suốt thì chắc chắn phần bất lợi sẽ thuộc về mình. Suốt mấy năm trường lang thang trên các nước đó đây, họ đã hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Do vậy mà họ đã có những kế hoạch cụ thể là sau khi về lại chùa xưa họ sẽ dựng lại chương trình tu học, trong đó có vấn đề trau dồi ngoại ngữ.
Cả hai cùng đi, cùng suy nghĩ và cùng bàn luận với nhau về nhiều đề tài sôi nổi như thế. Cho nên họ trở về lại làng xưa lúc nào chẳng hay biết. Bổng đâu có một bóng người xuất hiện và chào.
- Xin hai Sư Huynh dừng bước
- A Di Đà Phật! Thí chủ đây là...
- Đây là Vạn Tâm của năm xưa, bạn cũ của Ngọc Minh à quên Chú... ý.... Thầy Ngộ Tánh của thuở nào đây.
- A ha! Đi đâu mà hối hả vậy?
- Mừng quá là mừng mà cũng lo quá là lo.
- Mừng gì vậy và lo gì vậy?
- Mừng vì gặp lại hai Huynh ở đây và lo là lo cho Sư Cụ Từ Tâm đã hấp hối trên chùa kìa. Chắc là Ngài còn chờ nhị vị đó.
- Anh nói sao? Có phải... có phải... điều ấy là thật?
- Dĩ nhiên là vậy. Nhưng nào chúng ta cùng nhanh lên, kẻo không thì trể.
Chương 6. Ngày Hội Ngộ
Sư cụ Từ Tâm càng ngày càng già yếu và cơ thể từ đó càng sa sút thấy rõ. Tuy Sư Cụ không bị bịnh hoạn gì; nhưng thân nầy cũng giống như một cành cây. Khi còn nhỏ thì tốt tươi; đơm bông kết trái, dâng hiến vẻ đẹp của mình cho đời thưởng ngoạn và khi về già rồi cây cũng như thân người phải đi vào giai đoạn chót của bốn tiến trình của sanh tử; đó là hoại và diệt. Sư Cụ đã biết chắc điều đó; nên trong những ngày tháng còn lại trong đời lúc còn mạnh Sư Cụ trì Kinh Kim Cang, Đại Bi và cuối đời Sư Cụ càng niệm Phật nhiều hơn, nhất là những lúc đi đứng không được bình thường như lúc còn trẻ khỏe. Sư Cụ như thế cũng đã tự hoan hỷ với chính mình; nhưng kể từ khi cho hai Thầy Ngộ Đạo và Ngộ Tánh ra đi học đạo ở các nước xa xôi, tính đến nay cũng đã hơn 10 năm rồi; nhưng vẫn chưa về lại quê cũ. Do vậy Sư Cụ viết hai bức thư để lại cho hai người đệ tử xuất gia của mình như sau:
Ngộ Tánh con!
Nay thì duyên trần thế của ta chắc cũng sắp mãn. Ta sẽ tự tại ra đi, về hầu Phật Tổ; nhưng ta biết chắc một điều rằng dẫu con có tận lực bao nhiêu đi chăng nữa thì cái ái nghiệp vẫn còn đeo đuổi theo con một cách dai dẳng. Điều nầy trước khi nhận con làm đệ tử xuất gia, ta đã lưu ý đến và ngay cả trong những khi Thiền định, ta quán sát về năng lực nội tại của con, ta thấy con còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa mới được. Nếu không thì khó tránh khỏi những việc không lành có thể lụy đến thân về sau nầy. Đó là điều chính con và nhất là ta sẽ không bao giờ muốn như thế cả; nhưng như con biết đó, nghiệp lực của mỗi người, chính mỗi chúng ta mới có thể tự chuyển cho chúng ta mà thôi; chư Phật hay các vị Bồ Tát cũng chỉ có thể chỉ phương pháp cho chúng ta ra khỏi nghiệp khổ ấy, chứ các Ngài sẽ không gánh thế tội lỗi của chúng sanh được. Con hãy nhớ rõ điều nầy mà ráng tự nhắc nhở thân tâm mình, lúc còn ở trong cửa chùa hay hiện thân ở bất cứ hình thức nào đi chăng nữa.
Tuy ở bất cứ một cõi xa xăm nào đó, ta vẫn dõi mắt theo con để hổ trợ con trong những lúc không làm chủ được chính mình.
Thầy.
Bức thứ hai dày hơn và dung chứa nội dung rất chi ly về nhiều vấn đề và Sư Cụ đã viết từ trước trong khi chờ đợi Ngộ Đạo về với nội dung như sau:
Ngộ Đạo con!
Như mới ngày nào con vẫn còn là đứa con rơi trước cửa Phật, với người mẹ đau khổ ấy chắc bà ta vẫn còn đau khổ trong cái nổi mất con; nhưng bà ta sẽ vui khi thấy ngày nay con đã nên người. Vì con nay đã ba mươi tuổi rồi chứ còn nhỏ nhoi gì nữa. Cái tuổi mà ở đời tất cả phải tự lập thân để sống và ta hy vọng rằng có một ngày nào đó cha mẹ con sẽ có cơ hội để gặp lại con.
Phần ta thì duyên trần sắp mãn. Vì ta biết rằng mọi pháp trong thế gian nầy đều do sự giả hợp mà thành tựu; do vậy chắc chắn phải có ngày tan rã. Điều nầy cũng giống như ta và con vậy. Nhân duyên ta gặp con và con đã trưởng thành dưới mái chùa Hưng Phước nầy hai mươi năm và mười năm lưu học tại xứ người, chắc hẳn rằng con đã hiểu được lẽ sắc không và sự vô thường của nhân thế. Chắc chắn không có một vật gì tồn tại mãi mãi mà không bị biến đổi bởi thời gian và năm tháng, ngoại trừ cái chơn thân; nhưng chúng ta vốn sống trong cuộc sống hữu hạn nầy, phàm có ngày đến thì phải có ngày đi thôi. Đó là một định luật. Ví như con chim non khi sanh ra phải tập bay nhảy múa hót và tìm mồi để muôi thân. Chúng hót vào mỗi sớm mai khi mặt trời gần ló dạng như để chào đón một buổi bình minh rạng rỡ và một ngày huy hoàng trong kiếp sống của chúng. Khi nó hót, nó chẳng biết là năm nào tháng nào ngày nào phải nghỉ hót chăng? Nhưng một sự tự nhiên không ai bảo mà chúng phải tự làm nhiệm vụ ấy. Rồi một ngày nào đó nó không hót nữa có những con chim khác hót thay thế; chứ đâu phải vì chim không hót mà vũ trụ nầy không còn đâu?
Cũng có những động vật khác như chó mèo thì hay sủa, kêu vào buổi tối. Không như con gà gáy vào buổi sáng. Vì mỗi con thể hiện một nhiệm vụ và một đặc tính khác nhau. Đó là đặc tính của mỗi loài vậy. Dưới cái nhìn của Đức Phật và chư vị Bồ Tát loài chúng sanh nào cũng có Phật tính cả; nhưng biết bao giờ cái Phật tính ấy mới hiển lộ nơi loài côn trùng và những động vật bé nhỏ ấy; nhưng hy vọng sẽ có một ngày.
Ta cũng chỉ là một chúng sanh như bao nhiêu chúng sanh khác, có đến đi còn mất. Do vậy trước khi ta về với thế giới của chư Phật, ta có thư nầy để căn dặn con là ngôi Tổ nghiệp Sắc Tứ Hưng Phước Tự nầy con sẽ giữ quyền trụ trì. Còn Sư Huynh của con trong thời gian tới chắc chắn còn phải đối đầu với nhiều việc khác nữa về các phương diện thanh danh, tiền bạc, sắc đẹp, quyền thế v.v.. tất cả những thứ ấy ta cũng đã trải qua và ta xem như đôi dép bỏ. Giờ đây và mai sau sẽ còn có nhiều người, trong đó cũng có con nữa. Nếu con quan niệm rằng tất cả là phương tiện để độ sanh thì con sẽ vượt qua dễ dàng. Nếu con vẫn bị nó sai sử và chìm đắm nơi ngũ dục thì suốt đời cũng chỉ làm nô lệ cho chúng mà thôi. Trong thời gian hai con đi lưu học thì hai vị Tịnh Hạnh Nhơn đã lần lượt quy Phật rồi. Sau khi ta đi, con nên chọn người khác để hỗ trợ việc chùa. Vì muốn cho Thiền môn hưng thịnh cả Tăng Ni và Tín đồ phải gánh vác cho cân xứng cả hai vai ngôi chùa mới đứng vững trong lòng người Phật Tử được. Như thế mới xứng danh là: Thế gian trụ trì Tam Bảo. Nếu không phải vậy ta chắc không an lạc ở cõi khác đâu.
Thân tứ đại vốn do giả hợp mà thành. Do vậy không có gì luyến tiếc cả. Sau khi thiêu, xác thân Thầy một phần đem rải xuống dưới giòng suối mà ngày xưa con đã vì thú vui của tuổi trẻ đã hành hạ những con vật ấy; để cho cát bụi trả về lại với cát bụi. Phần khác nếu các con muốn nhập tháp để thờ ta cũng tùy hỷ thôi, không có gì trở ngại cả.
Một điều vô cùng quan trọng nằm trong gói đỏ gói trong lá thư nầy, con chỉ được mở ra khi mọi việc đều bế tắc, con không thể tự giải quyết một mình được. Con hãy nhớ kỹ điều nầy.
Tài sản của cải vốn là vật vô tri và tất cả đều là của tín thí, ta hãy xử dụng cho nó đúng mục đích làm lợi sanh thì người cúng vào họ cũng hoan hỷ. Không vì tình riêng mà xâm phạm đến của thập phương bá tánh. Điều ấy chính giới luật cũng không cho phép, mà ta cũng đã chẳng vui lòng.
Người xưa thường nói: “khi nào nắp quan tài đậy lại“ thì mới biết rằng ta có tu trọn kiếp được hay không? Do vậy con hãy canh cánh bên lòng với câu Phật hiệu để có thể trợ duyên cho con trên mọi nẽo đường đời.
Ta mong rằng hai con, nhất là con sẽ không phụ lời căn dặn sau cùng của ta là: „Phụng sự chúng sanh tức là cúng dường Chư Phật“
Thầy.
Cả ba người cùng bước hối hả vào chùa thì thấy khung cảnh thật náo nhiệt và gần như hổn loạn. Vì kẻ đứng người ngồi, kẻ khóc, người lau nước mắt. Có những thanh niên trai tráng lo làm rạp chẻ tre v.v... Nhìn tận vào trong chánh điện đèn đuốc sáng trưng cũng như bóng dáng Tăng Ni đông hơn thường lệ. Họ vào bên trong bàn Tổ thì thấy nơi đây đã thiết trí một quan tài. Họ quỳ xuống lạy ba lạy, rồi vội chạy về Phương Trượng Đường. Nơi đây mọi người đang chí tâm tụng câu: „Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật“ thật là bi hùng và câu Phật hiệu càng cao dần cao dần với số lượng chư Tăng Ni cũng như Phật Tử càng đông khi đồng hộ niệm. Ngộ Đạo và Ngộ Tánh cũng như Vạn Tâm đã đến sát bên giường của Sư Cụ Từ Tâm đảnh lễ ba lạy và không nói được một lời nào. Vì quá xúc động. Sau khi biết rằng hai đệ tử xuất gia của mình đã về lại rồi, lúc bấy giờ Sư Cụ mới từ từ và gượng sức mình để mở mắt ra và hai tay đưa lên ngực chắp lại hình đóa sen, đoạn Sư Cụ buông xuống thật mạnh rồi thở một hơi thật dài và nhắm mắt lại một cách an lành.
Tất cả mọi người Tăng cũng như tục biết rằng giờ ấy phải đến và mọi người tự lo nhiệm vụ của mình như đã được cắt đặt trước đó trong ban tang lễ. Còn Ngộ Đạo và Ngộ Tánh trở lại phòng xưa cùng với Vạn Tâm đi sau, mang dùm hai túi xách đã nặng gánh phong sương trong suốt mười năm trường mà cả hai bên đây là lần đâu tiên gặp mặt trở lại. Họ vừa vui vừa buồn. Vui vì được gặp lại bạn xưa và buồn vì kể từ giờ phút nầy hình ảnh của một vị quan văn đã giũ áo từ quan, nương náu nơi cửa Phật, bây giờ không còn nữa. Họ như đàn chim tuy đã gặp lại nhau; nhưng chim mẹ đã không còn nữa.
Sau khi xem thơ di chúc của Sư Cụ Từ Tâm để lại, cả hai Thầy mắt đều đỏ hoe, không phải chỉ vì khóc thương kính Sư Cụ mà còn nghĩ đến hoàn cảnh của mình phải đối đầu với mọi công việc khó khăn trong những ngày tháng sắp tới. Họ vội vã bước đi về chốn Tổ Đường.
Nơi đây chư Tôn Đức Tăng Ni kẻ tụng kinh A Di Đà, người niệm Phật. Kẻ lo phận sự của mình trong vấn đề trần thiết cho buổi lễ nhập liệm và các lễ lạc khác trong vòng một tuần lễ mà Kim Quan của Sư Cụ được thiết trí tại đây. Không khí như một ngày hội lớn không hơn không kém. Chương trình mỗi ngày đều có tụng kinh lễ bái, cúng trà tiến giác linh, cúng ngọ và lễ viếng v.v..
Những ngày ấy tuy nhộn nhịp; nhưng Ngộ Đạo và Ngộ Tánh vẫn an tọa hoặc đứng hầu gần bên kim quan của Sư Cụ Hòa Thượng. Ngài vừa là bậc quan văn của triều đình, vừa là một bậc Trưởng Lão của Thiền Môn. Do vậy mà các quan lớn trong triều cho đến các vị từ nhất phẩm cho đến cửu phẩm đều có mặt. Ngoài ra chư Tôn Thiền Đức trong chốn kinh kỳ đã không vắng mặt một vị nào. Chỉ trừ một số vị quan trọng sẽ đến vào giờ chót khi cung tống kim quan để làm lễ trà tì và sau đó lễ nhập bảo tháp mới có sự hiện diện của những vị quan trọng nầy.
Cũng có một số vị Tăng Ni đến trước kim quan lạy xong ba lạy rồi qua một bên ngồi Thiền, chứ không trì tụng các kinh bộ như những vị khác và chính lúc ấy Ngộ Đạo và Ngộ Tánh có thời gian nghĩ ngược chiều về chuyến đi tham bái học đạo trong thời gian mười năm qua, cũng như hai bức thư mà Sư Cụ đã dặn dò cho hai huynh đệ.
Ngộ Đạo thấy bài “Tọa Thiền Hòa Tán“ của Ngài Bạch Ẩn Huệ Hạc (Hakuin) Thiền Sư của Nhựt Bản nghe ra rất thấm thía trong lúc nầy; nên thầm đọc trong miệng rằng:
“Chúng sanh bổn lai đã là Phật
Nước và băng đều giống nhau
Lìa nước thì không có băng
Ngoài chúng sanh không có Phật
Nơi gần nhưng chúng sanh không biết
Chỉ lo tìm cầu ở nơi xa
Giống như ở trong nước
Mà là bị khát
Con của nhà giàu
Mà mê vào chỗ nghèo chẳng khác
Là nguyên nhân của lục thú (đạo) luân hồi
Ta đã ngu si vào con đường tối
Đường tối tiếp theo đường tối
Đến khi nào thì xa được sanh tử
Nếu Thiền Định theo Đại Thừa
Mà còn xưng tán nữa
Bố thí trì giới Ba La Mật
Niệm Phật sám hối tu hành v.v..
Với những việc làm lành kia
Tất cả đều trở về
Công phu ngồi ấy thành một người
Nếu có tích chứa vô lượng tội
Rơi vào đường ác thú
Thì Tịnh Độ cũng chẳng xa
Chịu khó nơi pháp
Khi nghe lọt vào tai
Có người tán thán tùy hỉ
Chẳng có giới hạn nơi công đức
Huống nữa là tự mình hồi hướng
Ngay nơi tự tánh được chứng biết
Tự tánh ấy tức vô tánh
Việc ấy rời hí luận
Nhân quả nhứt như đã mở cửa
Chẳng hai chẳng ba mà thẳng lối
Tướng của vô tướng là tướng
Đến đi đều chẳng có
Niệm cái vô niệm gọi là niệm
Múa và hát là tiếng của pháp
Cái không của tam muội vô ngại rộng mở
Mặt trăng của Tứ Trí viên minh sáng tỏ
Lúc ấy đâu có cần tìm cầu
Đó là tịch diệt cho nên
Chính nơi đó là nước liên hoa
Thân nầy chính là Phật.“
Chừng ấy lời lẽ, chừng ấy tư tưởng, chừng ấy ý chí cũng đủ nói lên được cái thoát tục, cái chứng đạo của Ngài Bạch Ẩn rồi. Vì Ngài quan niệm theo tinh thần của Đại Thừa Khởi Tín Luận và Đại Trí Độ Luận rằng: chúng sanh vốn xưa nay đã giác ngộ rồi (bản giác); nhưng vì quên đi lối về (bất giác) và từ đó bắt đầu trôi giạt trong sanh tử (thỉ giác). Tuy biết đó; nhưng đã lỡ lầm gây tội rồi, bây giờ chỉ cần quay đầu lại thôi; nhưng đâu có đơn giản.
Họ nhìn lên những tấm trướng treo hai bên tường có tấm được dệt bốn chữ đại tự là: „Khứ Lai Tự Tại“ quả là đúng ý của Sư Cụ Từ Tâm. Vì việc đến của Ngài trong thế giới nầy hay việc đi của Ngài khỏi thế gian nầy không có gì bị ràng buộc hết, nên gọi là tự tại, mà tự tại thật, kể từ khi các chú vào chùa từ nhỏ, đặc biệt là Ngộ Đạo, cho đến nay đã 30 năm rồi; nhưng đâu có khi nào Sư Cụ nặng lời với chú đâu. Nếu muốn phạt thì Ngài dùng thân giáo, khẩu giáo và ý giáo để dạy bảo. Giống như bài học đầu đời của Ngộ Đạo khi xuống suối bắt cá vậy. Rồi lớn lên không biết bao nhiêu là chuyện lụy phiền của nhân thế cũng như việc học hỏi tu niệm; nhưng nhứt nhứt Ngài đều đã dạy rõ. Ngồi đây hồi tưởng lại chuyện xưa mà cảm thấy thấm thía làm sao.
Thoang thoảng bên tai của hai người, đâu đó tiếng Kinh Kim Cang trầm hùng bay bổng như từ không trung bay đến làm họ cảm thấy lời và ý Kinh thấm vào trong từng thớ thịt.
„...... Phật cáo Tu Bồ Đề! Chư Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhứt thiết chúng sanh chi loại. Nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, nhược phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô Dư Niết Bàn, nhi diệt độ chi, như thị diệt độ, vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc diệt độ, hà dĩ cố? Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ Tát...”
Khi nghe qua như vậy cả hai đều sáng ra. Rõ ràng là đã có vô lượng vô số chúng sanh, Đức Phật đã làm cho họ vào cảnh Vô Dư Niết Bàn; nhưng thật sự ra chẳng có một chúng sanh nào diệt độ cả. Vì sao vậy? – Nếu Bồ Tát mà còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ Tát. Như thế không thể hàng phục tâm nầy được. Rõ ràng là nếu Bồ Tát còn chấp nơi tướng không còn gọi là Bồ Tát nữa. Vậy một vị Bồ Tát phải đứng trên sanh tử để ra vào tự tại chứ không thể đứng trong sanh tử để cho sanh tử chuyển xoay mình được.
Tiếp đến đoạn: „... Phật cáo Tu Bồ Đề! Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai...“ Đoạn nầy cũng quá hay và quá súc tích. Phật đã dạy cho Ngài Tu Bồ Đề cũng là gián tiếp dạy cho hai Thầy cùng với mọi người đến đưa đám của Sư Cụ rằng: „Cái gì có hình tướng thì cái đó đều hư vọng; nếu thấy các tướng mà không phải tướng mới thấy được Như Lai.“ Tất cả mọi vật có hình tướng như cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái lâu đài, cung điện, ngai vàng và ngay cả cái thân nầy đều do các hợp tướng hợp lại, mà đã do hợp tướng tạo thành, tức nó không là thật. Đó chỉ là đồ giả mà thôi; thế mà lâu nay đa phần ta nghĩ là có thật. Chỉ có con mắt của những người giác ngộ mới nhận chân được thật tướng của các pháp không thật lúc ấy mới thấy được chơn như. Ấy là Như Lai Tạng hay Phật tánh đâu có ở ngoài, ở trong mà ta vẫn mãi dong rũi tìm cầu để đến khi quay lại nhận được tự tánh của mình thì lúc ấy mới thật biết rằng chơn như vốn không đến không đi, không còn, không mất.
Dưới cái nhìn của thế gian thì thấy Sư Cụ Từ Tâm có ra đi. Vì vậy cho nên đã có không biết bao nhiêu người buồn. Còn mình thì sao đây? Họ vừa buồn vừa hiểu mọi việc rõ như ban ngày; nhưng trong hiện tại họ khó làm chủ nổi chính mình. Phải cầu vào tha lực của Đức Phật A Di Đà, nên họ mãi niệm Phật để cho những tư tưởng khác khỏi xen tạp vào với lời Kinh từ trên vọng lại.
„... chư Bồ Tát Ma Ha Tát, ưng như thị sanh thanh tình tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm...“
Đoạn nầy là đoạn rất quan trọng mà Ngài Lục Tổ Huệ Năng đã ngộ được đạo và các vị Tổ khác cũng đã lần lượt ngộ cái cốt tủy của đoạn Kinh nầy. Kinh Kim Cang có 32 đoạn và đây thuộc đoạn thứ 10. Các Bồ Tát nên như thế nầy mà sanh tâm thanh tịnh. Đó là chẳng nên trụ vào sắc để sanh tâm, chẳng nên trụ vào thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, mà nên sanh tâm nầy ở chỗ không trụ...“ chỗ không trụ là chỗ nào thế? Đó là chỗ không chấp vào cái nầy bỏ cái kia. Chấp có chấp không, chấp còn, chấp mất; chấp vào sự hiện hữu của hình tướng, sự mất đi của thế giới v.v... tất cả đều bị cái chấp và lấy cái ngã của mình làm chủ nên mới sinh ra như vậy. Nếu Bồ Tát sanh cái tâm không chỗ sanh thì Bồ Tát chẳng trụ vào đâu để mà đến đi còn mất cả. Đó mới chính là thực tướng của Bồ Tát.
Khi nghe đến đoạn „... Sở dĩ giả hà? Ngã tướng tức thị phi tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức thị phi tướng. Hà dĩ cố? Ly nhứt thiết chư tướng tức danh chư Phật...“ Đúng đây là chỗ khúc mắc mà một hành giả đi vào đời phải rõ biết. Tướng của ta hay tướng thuộc về ta đều chẳng phải là tướng, tướng của người, tướng của chúng sanh, tướng thọ giả cũng chẳng phải là tướng. Vì sao vậy? Vì lìa tất cả tướng ấy mới gọi là Chư Phật. Vậy Chư Phật là những vị đã lìa khỏi sanh tử, lìa khỏi chấp trước. Còn chúng ta thì hoàn toàn ngược lại. Do vậy chúng ta vẫn còn là chúng sanh, chứ chưa được gọi là Phật. Mặc dầu trong ta đã có Phật tánh sẵn rồi; nhưng chúng ta chưa nhận ra cái sự thật ấy mà thôi. Sự thật ấy như Ngài Bạch Ẩn đã nói trong “Tọa Thiền Hòa Tán“ là: “Nước và băng đều giống nhau và lìa nước không có băng“. Vậy thì băng từ nước mà có. Giữa nước và băng giống nhau một tánh. Đó là tánh ướt, mà tánh nầy là tánh Phật, giữa Phật và chúng sanh đều có; nhưng Phật đã thành Phật. Còn chúng sanh vẫn là chúng sanh. Vì chúng ta chưa nhận chân được vị Phật chân chánh của mỗi chúng ta tự có nơi mỗi người.
„... Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát thông đạt vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh chơn thị Bồ Tát...“
Nếu là Bồ Tát thì phải thông đạt pháp vô ngã. Cho nên Đức Như Lai nói đó mới chính là Bồ Tát. Bồ Tát nghĩa là vị đã vì sự lợi lạc của chúng sanh mà vào đời để độ sanh; nhưng không vì thế mà bị đời làm lay chuyển. Trong khi độ sanh đó, thấy mình chẳng phải là người đi độ và chẳng thấy kẻ được độ, đó mới chính là sự độ sanh đúng nghĩa. Vì Bồ Tát khi độ như thế không đứng trên quan điểm hữu ngã, mà tất cả chỉ là tinh thần vô ngã. Khi Bồ Tát đã hiểu như thế rồi mới được Chư Phật thừa nhận là một vị Bồ Tát chơn thật.
„... Sở dĩ giả hà? Tu Bồ Đề! Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc...“
Vì Phật nói rằng tất cả tâm chẳng phải là tâm thì đó mới gọi là tâm, mà cái tâm ấy trong quá khứ ta đã chẳng dừng nghỉ, hiện tại tâm ấy cũng chẳng được. Còn vị lai thay đổi trong từng sát na sanh diệt, vậy thì cái gì gọi là tâm? Sở dĩ gọi là tâm, ấy chẳng qua là phương tiện nhắm đến cái trạng thái không thấy và không nắm bắt sờ mó được; nhưng dùng hình ảnh để ví dụ thì khó có cái trừu tượng; do vậy phải dùng phương pháp duyên khởi và vô tướng để ví dụ cho dễ hiểu vậy.
Ở đoạn thứ 26 có bài kệ mà hai Thầy đã nghe là:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.“
Rõ ràng là:
“Ai dùng sắc để thấy ta
Dùng âm thanh để cầu ta
Kẻ ấy hành việc tà
Chẳng thể thấy Như Lai.“
Vậy muốn thấy được chân thật tướng của Như Lai phải vượt lên trên tất cả hình tướng, âm thanh, đối đãi v.v... nếu vin vào một cái gì đó thì chắc rằng hỏng hết đại sự rồi.
„... Hà dĩ cố? Nhược thế giới thật hữu giả tức thị nhứt hợp tướng. Như Lai thuyết nhứt hợp tướng tức phi nhứt hợp tướng, thị danh nhứt hợp tướng.“
Đoạn nầy ý nói:... vì sao vậy? Nếu thế giới là thật có, tức là một hợp tướng. Đây có tên là một hợp tướng“. Như vậy thì ngay cả thế giới nầy nào sơn hà đại địa, con người, loài vật, cây cỏ và không những chỉ ở đây mà còn trong 3.000 thế giới lớn nhỏ khác nữa tuy có đó; nhưng thật tế là không có. Vì sao vậy? Vì nó là một hợp tướng. Nói như trong Luận A Tỳ Đàm, Phật đã chỉ rõ về sự thành tựu của thế giới nầy và dẫu cho vũ trụ có bao la, thời gian có vô cùng đi chăng nữa tất cả cũng chỉ là một hợp tướng mà thôi. Hợp tướng ấy do đất, nước, gió, lửa tụ lại thành. Nếu vì một nhân duyên nào đó, hợp tướng kia sẽ tan rã. Do vậy mà không có gì chắc thật cả. Ngay cả thân tứ đại nầy cũng thế thôi. Hôm nay Ngài còn nằm đây để nghe người ta đến cầu nguyện và chúc tụng; nhưng ngày mai ngày mốt đây khi ngọn lửa hồng đến thì thân nầy cũng chẳng còn gì. Rõ ràng là một hợp tướng. Do vậy mà Đức Phật dạy rằng cái hợp tướng ấy chẳng phải là một hợp tướng. Thế nên có tên là một hợp tướng. Vì hợp tướng ấy không thật. Cũng giống như thân người, thân muôn vật vậy. Vì còn trong vòng đối đãi cho nên ta thấy tốt xấu, trẻ già; nhưng nếu chúng ta quán triệt được lẽ vô thường của kiếp nhân sinh và cái hợp tướng không thật đó, ta sẽ hiểu được tự tánh của chính mình.
Đoạn cuối cùng của Kinh Kim Cang có bốn câu rất là siêu việt mà ai trong chúng ta khi nghe qua cũng phải thức tỉnh một cách nhanh chóng để trở về với thực tại.
Kinh rằng:
“Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán“
Nghĩa là:
“Nên quán như thế nầy
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng và như huyễn
Như sương lại như điện“
Hiểu được như thế là rõ biết nội dung của Kinh Kim Cang Phật muốn dạy điều gì cho chúng ta. Vì chúng ta biết rằng phàm cái gì có hình tướng, tức là các pháp hữu vi. Nó giống như mộng huyễn và ảo ảnh. Tuy có đó; nhưng trên thực tế là không. Vì lẽ thực tướng của vạn pháp là không. Cái không ấy cũng giống như sương mai trên đầu ngọn cỏ. Có đó rồi mất đó, đẹp như hạt ngọc đó; nhưng khi ánh Thái dương ló dạng nó lại tan đi. Thân nầy cũng giống như giòng điện vậy. Hợp thì tạo thành ánh sáng, âm thanh. Không hợp thì không tạo thành hình tướng. Chỉ đơn giản thế và thực tướng nó là không. Nhưng nào ai có thể rõ biết được? Nếu quán được như vậy và đem sự hiểu biết nầy để đi truyền dạy cho người khác cùng biết thì công đức nầy lớn hơn công đức đem vàng bạc của báu và ngay cả thân mạng nầy đi bố thí suốt năm tháng ngày giờ cũng không sánh được với kia một trăm, ngàn, vạn ức lần. Do vậy mà việc trì Kinh, hiểu Kinh rồi biên chép, giải nói cho người khác cùng hiểu để được giải thoát và trở về lại với cái ta chân thật của mình. Đó mới chính lá cách tu học đúng đắn nhất của người Phật Tử.
Sau khi nghe nội dung của Kinh Kim Cang xong, có lẽ do chư Thiên hay chư vị Bồ Tát đọc, cả hai người đều cảm nhận được; nhưng rất nhanh; thời gian có thể chỉ trong sát na mà xem ra dài lâu lắm. Ngộ Đạo nhìn lên bàn thờ của Sư Cụ thấy một tuần nhang đã mãn. Có nghĩa là ít nhất cũng đã hơn một tiếng đồng hồ rồi và trong một tiếng đồng hồ đó có biết bao nhiêu là người qua lại cũng như đối mặt với hai Thầy. Vì lâu nay họ cũng muốn biết công phu tu niệm của hai Thầy ra sao và rồi đây một trong hai Thầy sẽ là kế vị trụ trì của ngôi Sắc Tứ Hưng Phước Tự nầy.
Ba cánh cửa Tam quan đều được mở rộng để cung nghinh chư Tôn Đức Tăng Già và đặc biệt hôm nay có đương kim Thánh Thượng sẽ giáng lâm cùng với các quan văn võ của triều đình để tham dự lễ Hỏa Thiêu của Sư Cụ Từ Tâm và sắc phong đạo hiệu. Do vậy mà ai cũng tỏ ra cái gì cũng nghiêm trọng và lo lắng. Nhất là những quan tuần canh quanh chùa. Họ chỉ muốn làm tròn bổn phận của họ; nhưng họ cũng không tha thứ cho ai hết; nếu có việc gì bất trắc xảy ra. Họ biết họ phải làm gì?
Một đoàn ngự giá nào xe nào ngựa, nào quan quân, cờ lọng rợp cả một vùng núi non của Hưng Phước Tự hôm ấy. Từ xa xa đã nghe những tiếng hô vang dội: Thánh Thượng vạn tuế vạn vạn tuế. Thế là chữ tuế nầy kế tiếp chữ tuế kia vang dội mãi cho đến cổng chùa. Nơi nào nhà Vua đi qua thì bàng dân thiên hạ đều quỳ mọp xuống. Chỉ trừ những người xuất gia là không thực hiện nghi lễ ấy mà thôi. Mình và đầu của họ hơi cúi xuống để chào một vị “Dân chi phụ mẫu“ rồi ngẩng lên nhìn.
Đến cổng Tam quan nhà Vua xuống ngựa và đi bộ ngay vào chánh điện lễ Phật và sau đó vào Tổ Đường để thăm viếng Kim Quan của Hòa Thượng Từ Tâm. Nhà Vua đứng lặng yên chẳng nói lời nào và Vua ra hiệu cho bộ lễ mang lễ vật ra để phúng điếu. Sau đó một vị quan văn mở phong hàm ra và quỳ xuống trước bàn thờ Tổ trịnh trọng đọc.
Đại Nam quốc Đương Triều Hoàng Đế sắc phong Đạo hiệu: “Từ Lâm Tế Chánh Tông Tam thập bát thế húy thượng Từ hạ Tâm tự Giác Ngộ hiệu Hưng Quốc Quốc Sư Hòa Thượng tọa hạ liên tòa.“ Đoạn trao giấy sắc phong ấy cho Thầy Ngộ Đạo và hai vị cúi đầu thi lễ Đức Vua cũng như Hoàng Hậu và bá quan văn võ triều đình. Cũng chính hôm nay Công nương Mỹ Lệ con quan Tể Tướng của Triều Đình cũng có mặt. Nàng nhìn chăm chăm về phía trước và hiểu ra rằng Ngộ Đạo sẽ là vị trụ trì kế nhiệm tương lai, thế là trong dạ nàng mừng thầm. Còn Ngộ Tánh như đờ người ra vì đã xa hình bóng cũ hơn mười năm rồi mà trông nàng vẫn còn xinh đẹp như xưa. Quả là trái đất vẫn tròn. Nhưng hội ngộ trong khung cảnh tang tóc như thế nầy thì quả rằng khó nói lắm.
Sau khi đi chùa về cách đây mười năm về trước nàng cảm nặng. Đó là cảm tình chứ không phải là cảm nắng hay sương như cha mẹ nàng nghĩ. Thế rồi mọi việc cũng đã qua; nhưng hôm nay trong sự cố tình nàng Mỹ Lệ muốn đi đưa tiển Kim Quan của Sư Cụ Từ Tâm; nhưng trên thực tế nàng muốn gặp mặt người mình thương, đó là Thầy Ngộ Đạo. Qua sự khuyên giải của mẹ cha rồi nàng cũng nguôi đi; nhưng bây giờ gặp lại người xưa mặt đối mặt thì bao nhiêu nổi tơ vò lại xốn xang trong lòng nàng, chẳng biết diễn tả như thế nào trong bối cảnh nầy nữa. Một nhịp đập khác của con tim bị rối loạn. Đó chính là của Ngộ Tánh. Mặc dầu Ngộ Tánh cũng đã nghe Tứ Thiên Vương trì Kinh Kim Cang xong; nhưng bây giờ những câu Kinh ấy đã bay bổng đi đâu hết rồi. Trong khi đó, Ngộ Đạo nét mặt vẫn điềm nhiên và Thầy quán lại bốn câu kệ rằng:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.“
Và “Như Lai giả vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai.“ Chỉ chừng ấy thôi cũng đã làm cho Ngộ Đạo rõ được lý vô thường rồi và cũng làm cho Thầy an tâm để gìn giữ Như Lai chơn thật tướng của mình. Trong khi đó, nếu lúc ấy có ai nhìn trộm được mặt của Tiểu Thơ thì chắc rằng cũng đã thấy được những cử chỉ vụng về của Tiểu Thơ lúc ấy.
Từ xa xa cách chỗ Kim Quan của Sư Cụ có một người đàn bà mang dáng dấp là một mệnh phụ phu nhân, trông rất đài các và đứng đắn, trạc tuổi chừng năm mươi thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn Ngộ Đạo với một cái nhìn đặc biệt; nữa như van xin nài nỉ, nữa như muốn nói một điều gì đó mà chẳng phát biểu được trong lúc này. Rồi lại thôi không nhìn nữa; nhưng thỉnh thoảng người đàn bà ấy vẫn có một cái nhìn thật là thiện cảm. Không phải là cái nhìn bình thường mà trong cái nhìn ấy còn ẩn chứa một cái gì đó nữa.
Thế rồi giờ di quan đã đến và chiếc Kim Quan từ từ được di chuyển ra giàn hỏa thiêu nhân tạo gần đó. Trong khi chư Tăng tụng sám Khể Thủ Ngộ Đạo và Ngộ Tánh cố nhặt những viên Xá Lợi óng ánh của Sư Cụ cho vào lọ sành mang qua bảo tháp Vạn Thọ để nhập tháp. Văng vẳng đâu đây bên tai hai Thầy những câu tụng giọng trầm bổng của chư Tăng như sau:
“... Ngã cập chúng sanh, khoáng kiếp chí kim, mê bổn tịnh tâm, túng tham sân si, nhiễm uế tam nghiệp, vô lượng vô biên, sở kết tội cấu, vô lượng vô biên, sở kết oan nghiệp, nguyện tất tiêu diệt, tùng ư kim nhật, lập thâm thệ nguyện, viễn ly ác pháp, thề bất cánh tạo, cần tu thánh đạo, thệ bất thối đọa, thệ thành chánh giác, thệ độ chúng sanh...“ cốc, cốc,cốc, boong... cứ theo từng nhịp mõ lời Kinh như thế bài sám Khể Thủ như là bài sám cho chính mình, cho hai người đệ tử của Sư Cụ Từ Tâm. Bởi chính vì mình từ trong vô lượng kiếp đến nay cái gốc của mê mờ nằm nơi tâm thanh tịnh nầy là do tham sân si làm cho ba nghiệp nhiễm lây. Rồi không biết bao nhiêu là việc làm tội lỗi, cũng chẳng có không biết bao nhiêu là oan khiên nghiệp chướng trong bao nhiêu đời trói buộc vào nhau... con nguyện được tiêu hết và bắt đầu từ ngày hôm nay con với thân nầy tự nguyện rằng: xa lìa tất cả các pháp ác và thề chẳng tạo nên, siêng tu con đường Thánh và thệ nguyện không bị đọa lạc và mong thành chánh giác để cứu khổ chúng sanh. Đúng là lời thệ nguyện của các vị Bồ Tát. Ta đã làm gì để độ sanh chưa? Và ta bao giờ thì có thể độ sanh được? Và ai là chúng sanh mà ta phải độ trước đây?
Cánh cửa tháp Vạn Thọ đã được mở ra và đặc biệt Ngộ Đạo chỉ một mình mang cao bình tro Xá Lợi ấy thành kính đưa vào bên trong bệ thờ, đoạn quỳ xuống lạy ba lạy. Trong khi bên ngoài câu niệm „Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật“ vẫn còn vang dội khắp núi đồi. Bây giờ các Phật Tử quỳ xuống dâng hương hoa và lễ lạy cúng dường. Đức Vua và Hoàng Hậu là người đứng bên trước phía tháp cũng là người ra sau cùng nhất. Vì Vua muốn chiêm nghiệm lại cuộc đời mình cũng như nghi lễ tống tán hôm nay. Ngài không nói gì nhiều mà khi nhìn nét mặt chỉ thấy Ngài ra dáng đăm chiêu suy nghĩ. Có lẽ về một vấn đề gì đó của Triều Đình chăng? Hay vì lẽ vô thường của diệt sinh sinh diệt?
Phần tro còn lại theo như lời Sư Cụ dặn trong thơ di chúc Ngộ Tánh mang xuống dưới giòng suối và cùng với các Phật Tử khác tụng chú Vãng Sanh để rải tro ấy và cầu nguyện cho giác linh của Ngài được cao đăng Phật quốc.
Sau lễ tống tán hôm đó chư Tăng và triều đình mọi người đã lần lượt ra về; chỉ còn lại một số người làm công quả và chư Tăng trong môn phái ở lại để làm lễ trí giác linh. Ngộ Đạo khệ nệ mang Long Vị của Sư Cụ mình đặt lên trên bàn hương án phía trước bàn thờ Tổ cùng di ảnh. Trong khi đó Ngộ Tánh lo khệ nệ bưng bát nhang của Sư Cụ để vào ngay trước Long Vị, đoạn sụp xuống lạy ba lạy và trở ra ngoài để chuẩn bị làm lễ an Linh.
Cả hai người khi nghe chư Tăng tán bài:
“Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du,
Kỳ vi sanh tử sự,
Thuyết pháp độ xuân thu.“
Nghĩa là:
“Một bát, cơm ngàn nhà,
Một thân, muôn dặm xa,
Chỉ vì sự sanh tử,
Thuyết pháp độ người qua.“
Quả thật là tuyệt vời và vi diệu. Chưa bao giờ lời văn và ý tứ của những câu kệ nầy đập vào tai vào đầu vào mắt vào tâm của Ngộ Đạo và Ngộ Tánh mạnh như hôm nay và nó khắc khỏi làm sao, khó diễn tả được hết. Họ nghe bài tán nầy khiến họ nhớ đến mười năm lưu lạc tại xứ người. Nào Ấn Độ, Népal, Bhutan, Tây Tạng. Rồi Trung Hoa, Đại Hàn, Nhựt Bản. Chừng ấy bước đi, chừng ấy nẽo đường trần và chỉ một mình cô thân lẽ bóng nơi những khung trời xa lạ ấy, có ai biết đến mình và mình cũng đâu có biết đến ai, để ngày hôm nay về lại đây một chuyện não lòng chẳng chờ đợi; mà đã đến. Nhưng cuối cùng rồi cũng phải nối bước của Sư Phụ để hoằng pháp lợi sanh và cũng phải làm sao để chấn hưng Thiền Phái Lâm Tế càng ngày càng được rạng rỡ hơn. Sư Cụ dầu ở cảnh giới nào đó, khi Ngài nghĩ về hai người đệ tử chắc Ngài sẽ gục đầu như tán dương những việc làm hữu ích ấy.
Mọi người đã rời khỏi Tổ Đường chỉ còn lại một người duy nhất. Đó là một mệnh phụ với cái nhìn Thầy Ngộ Đạo một cách chăm chăm hôm trước. Bà ta quỳ lên sụp xuống không biết bao nhiêu lần và nước mắt lưng tròng. Chẳng biết bà ta khấn gì và cầu gì; nhưng trông có vẻ hối hận lắm. Không lẽ nào việc nhà của bà khó khăn đến thế sao? Đến cầu giác linh Sư Cụ giúp đỡ? Hoặc giả bà có chuyện gì thầm kín chẳng thổ lộ cho ai nghe được mà chỉ có lúc nầy bà ấy mới có thể tỏ bày được.
Khi Ngộ Đạo hỏi trong chùa mấy người làm công quả, bà là ai thì chỉ có cái lắc đầu đáp lễ và có người bàn vào.
- Mô Phật bạch Thầy! Người đàn bà ấy có lẽ không ở vùng nầy, mà ở tận chốn kinh kỳ kia?
- Sao Đạo Hữu biết?
- Mô Phật bạch Thầy! Trông dáng ăn mặc và cách đi đứng thì đủ rõ. Đúng là một mệnh phụ phu nhân.
- Đạo Hữu có thấy bà ta đến chùa mình chăng?
- Chẳng bao giờ. Hôm nay là lần đầu tiên bà ấy xuất hiện.
Sau khi lễ Tổ xong bà mệnh phụ ấy xuống nhà trù và có ý muốn gặp Thầy tân trụ trì và nhờ người trong chùa vào thưa. Thầy đồng ý và đây là sở nguyện của bà.
- Mô Phật bạch Thầy! Tôi... tôi... con là Thanh Tịnh, Phật Tử của chùa nầy; nhưng vì công chuyện làm ăn ở, nên ít có cơ hội về chùa và hôm nay nhân việc đưa tang Sư Cụ tôi... tôi... con xin đường đột muốn gặp Thầy và mong Thầy giúp cho một việc...
- Mô Phật! Đạo Hữu cứ trình bày.
- Thưa Thầy! Con thực sự ra từ nhỏ đến lớn vẫn ở một mình; nhưng bây giờ kể ra tuổi cũng già rồi, muốn vào nương náu cửa Phật để sớm chuông chiều kệ và làm công quả thay thế cho hai vị Tịnh Hạnh Nhơn vừa mới qua đời.
- Sao Đạo Hữu biết rõ vậy?
- Mô Phật! Tuy con ở xa; nhưng việc chùa nầy con vẫn dõi mắt từ lâu. Vì con cũng có tâm nguyện như thế đã lâu lắm rồi.
- Nhưng còn chồng và con của Đạo Hữu?
- Con không có chồng; nhưng cũng có một muộn con.
- Bây giờ đã ra sao rồi?
- Người ấy đã ra đi xa lắm rồi. Nên con tự chọn cho con một con đường.
- Thế cũng tốt; nhưng để tôi bàn lại với Sư Huynh tôi đã.
- Mô Phật! Cảm tạ tấm lòng từ bi của Thầy.
Sau đó bà Thanh Tịnh về nhà trù ngồi chờ kết quả của Thầy Ngộ Đạo đi bàn với Thầy Ngộ Tánh là nên thâu nhận thêm một người nữa để cho họ có bạn khi ở chùa. Vì đó cũng là sự dụng ý của Sư Cụ mà. Sau khi bàn tính với nhau như vậy Thầy Ngộ Đạo xuống nhà trù và bảo bà ta rằng:
- Tôi thấy như Đạo Hữu không phải là người làm những công việc nặng nhọc được?
- Nổi nhọc nhằn nào thì con cũng có thể chịu được hết. Miễn sao quý Thầy cho con được toại nguyện là tuổi già còn lại được ở chùa nầy để sớm hôm Kinh kệ và phụng dưỡng quý Thầy thì con toại nguyện lắm rồi.
- Mô Phật! Cửa Phật vốn từ bi. Xin Đạo Hữu cứ tự nhiên và về nhà thu xếp việc riêng sau đó mai mốt dọn vào chùa ở nơi nhà trù nầy, phía sau hậu liêu cùng với một bà vải khác nữa.
- Mô Phật. Xin đa tạ Thầy. Con xin vâng.
Người đàn bà ấy như mừng rỡ lắm và trên nét mặt bà ta trông càng rạng rỡ hơn khi được Thầy Tân Trụ Trì chấp nhận để bà trở thành một Tịnh Hạnh Nhơn của ngôi chùa Sắc Tứ Hưng Phước Tự nầy.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567