Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương III - Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm bổn môn Pháp Hoa Kinh

22/05/201313:04(Xem: 10081)
Chương III - Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm bổn môn Pháp Hoa Kinh

Lược giải Bổn Môn Pháp Hoa Kinh

Chương III - Ý nghĩa thọ trì 7 phẩm bổn môn Pháp Hoa Kinh

Hòa Thượng Thích Trí Quảng

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Quảng

Thọ trì kinh nghĩa là nhận kinh từ Phật và giữ kinh trong tâm, trong việc làm. Nói cách khác, ta nhận lãnh di huấn của Phật và thay thế Ngài hướng dẫn người thăng hoa tri thức, đạo đức.
Tuy nhiên, Phật tại thế, những người trực tiếp với Đức Phật dễ dàng nhận được ý Phật dạy. Chúng ta không trực tiếp với Ngài, nên phải mượn văn tự kinh, nương theo đó tu hành.
Trong kinh Pháp Hoa, chia ra ngũ chủng Pháp sư, tức là năm cách tu : thọ trì, đọc, tụng, biên chép, giảng nói. Đọc, tụng, biên chép, giảng nói là bốn trợ hạnh giúp ta phát huy chánh hạnh là thọ trì kinh.
Trong 28 phẩm kinh Pháp Hoa, có người chọn 10 phẩm cốt yếu để thọ trì, nhưng cũng có vị chọn một phẩm là phẩm Phổ Môn, như Hòa thượng Thiện Hoa lúc sanh tiền, hàng ngày Ngài chuyên trì tụng duy nhất phẩm này. Hoặc Ngài Huệ Đăng chỉ trì tụng từ phẩm Như Lai thần lực đến phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát. Ngài Nhật Liên Thánh nhân thì dạy thọ trì nhứt phẩm nhị bán, nghĩa là thọ trì một phẩm thứ 16 : Như Lai thọ lượng và nửa phẩm thứ 15 : Tùng địa dũng xuất và nửa phẩm thứ 17 : Phân biệt công đức.
Riêng tôi thì chọn 7 phẩm để hình thành Bổn môn. Đó là phẩm Tựa, Pháp sư, Tùng địa dũng xuất, Như Lai thọ lượng, Phân biệt công đức, Phổ môn, Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát.
Tại sao có sự khác biệt như vậy ? Có thể nói dưới dạng Bổn môn hay dạng đổi mới mà nhìn về giáo lý Phật để hiểu, để sống và truyền bá lợi lạc cho người là chính. Không rập y khuôn cũ, không chấp chặt vào văn tự, nhưng hiểu được ý chính của kinh và tuyển chọn những ý nào thích hợp với thời gian và quốc độ để ứng dụng vào cuộc sống là chính yếu.
Vì vậy, sử dụng 1 phẩm hay nhứt phẩm nhị bán, hay 7 phẩm là tùy theo sở ngộ của từng vị tu chứng khác nhau. Và pháp tu chứng ấy cũng thay đổi thích hợp tương ưng với thời kỳ, với hoàn cảnh của mỗi người khác nhau. Đó là nhận thức theo Đại thừa. Ở giai đoạn một, chúng ta học hiểu Phật pháp, phải đạt được sở đắc của riêng mình. Đến giai đoạn hai, đem sở đắc ấy ứng dụng vào cuộc sống, như khi tôi dạy ở các trường Phật học và tiếp xúc với tín đồ, lại gặp những khó khăn khác. Theo Bồ tát đạo, lúc ấy chúng ta có cái học trong nhân gian, làm nảy sinh ra những nhận thức khác. Và đến giai đoạn ba, từ sở đắc tiến đến vô sở đắc, chúng ta dạy, thuyết pháp ứng cảm tùy cơ mới thành công. Nếu Phật giáo theo mô hình cố định, không thể tồn tại. Sự đổi mới tư tưởng theo từng giai đoạn, từng hoàn cảnh, từng nước cho thích hợp để đưa Phật giáo đi lên.
Trong 7 phẩm Bổn môn, tôi không sử dụng y theo chánh văn của bộ kinh 28 phẩm, chỉ rút lấy những điểm chính yếu. Thọ trì Bổn môn nhằm nắm giữ yếu nghĩa kinh. Đến khi thuần thục, chúng ta vẫn thầm đọc kinh trong lòng và giai đoạn ba, không cần đọc thầm, nhưng cuộc sống của chúng ta đã tiêu biểu cho bộ kinh Pháp Hoa.
Bổn môn Pháp Hoa gồm 7 phẩm, con số 7 gợi chúng ta liên tưởng đến thất đại hay 7 nguyên tố hình thành vũ trụ nhân sinh theo đạo Phật là : địa, thủy, phong, hỏa, không, kiến, thức. 4 đại đầu thuộc phần vật chất và 3 đại sau thuộc tinh thần. Chúng sanh khổ sở trầm luân vì chịu sự chi phối hoàn toàn của 4 đại đầu. Đức Phật được giải thoát tự tại vì Ngài không bị chi phối của 4 đại mà còn vận dụng được 3 đại còn lại.
Bổn môn Pháp Hoa tuy chỉ có 7 phẩm, nhưng đó là thoại đầu mà tôi thường suy tư, ứng dụng thế nào để mở rộng tương ưng được với 7 quyển của kinh Pháp Hoa, và mở rộng hơn nữa sao cho thâm nhập pháp giới, nghe được 20 muôn ức bài kệ Pháp Hoa của Phật Oai Âm Vương.

I - Ý NGHĨA PHẨM TỰA THỨ NHẤT

A – VĂN KINH

Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật nơi thành Vương Xá cùng chúng Tỳ kheo một muôn hai ngàn gồm cả La hán và bậc tam hiền còn đang tu học. Tám vạn Bồ tát chuyển được pháp luân bất thoái, tâm từ trải khắp trong các cõi nước, được Phật khen ngợi vì họ đã từng cứu độ vô số chúng sanh thoát khỏi khổ não. Lại có chư Thiên hơn 70.000 từ Trời Tứ Thiên cho đến Hữu Đảnh cũng đều có mặt. Tám vị Long vương, bốn Càn thát bà, bốn A tu la, bốn Khẩn na la, bốn Ca lầu la, cùng nhiều quyến thuộc tham dự pháp hội. Vua A Xà Thế cùng với quần thần, những người hộ đạo quý trọng chánh pháp, thành kính đảnh lễ cúng dường Như Lai.
Đức Phật cũng vì những người phát tâm Đại thừa mà nói kinh Vô Lượng Nghĩa dạy cho Bồ tát những pháp bí yếu của các Như Lai. Nói kinh này xong, Đức Phật liền nhập Vô lượng nghĩa xứ tam muội, thân tâm bất động. Khi đó trời mưa hoa Mạn đà la, ma ha Mạn đà la, Mạn thù sa, ma ha Mạn thù sa cúng dường Đức Phật và cả chúng hội, đất đều rung động.
Bấy giờ, từ tướng bạch hào của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng chiếu khắp phương Đông một muôn tám ngàn cõi nước. Tất cả chúng hội được thấy lục đạo tứ sanh từ ngục A Tỳ cho đến cõi Trời Hữu Đảnh sanh tử luân hồi, khổ não vô lượng. Lại thấy có Phật ra đời thuyết pháp giáo hóa độ chúng nhị thừa và hàng nhơn thiên. Cũng thấy có vị Bồ tát tùy thuận chúng sanh, hiện các loại hình, cứu khổ ban vui, thành tựu lục độ vạn hạnh, trụ bậc bất thoái. Lại thấy sau Phật Niết bàn, phân chia xá lợi, xây dựng tháp báu để trời người thờ.
Bấy giờ Di Lặc và hàng tứ chúng đều rất ngạc nhiên trước việc lạ lùng từ xưa chưa thấy, cho nên mới hỏi Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi vì duyên cớ gì mà có điềm này. Văn Thù Sư Lợi bảo đại chúng rằng vô số kiếp trước có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai, mọi người cung kính vì Ngài biết rõ thật tướng các pháp, giải được mọi việc xảy ra trong đời và vượt khó khăn, làm Thầy Trời người, là bậc tôn quý đã vì Thanh văn nói pháp Tứ đế, vì hàng trí thức nói pháp nhân duyên, vì hàng Bồ tát nói pháp lục độ, làm cho chứng được Nhất thiết chủng trí. Kế đó, đến hai muôn Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh tiếp tục ra đời.
Đức Phật sau cùng lúc chưa xuất gia có tám vương tử lãnh trị bốn phương đều được thái bình. Nhưng khi nghe vua thành Phật, họ liền bỏ ngôi theo Phật nghe pháp. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng nói Vô Lượng Nghĩa rồi nhập Vô lượng nghĩa xứ tam muội như Đức Thích Tôn.
Sau khi xả định, Ngài nói Pháp Hoa khai thị nhất thừa trải 60 kiếp, những người nghe pháp không thấy mệt mỏi như khoảng bữa ăn. Nói kinh này xong, Ngài thọ Phật ký cho Ngài Đức Tạng rồi nhập Niết bàn.
Diệu Quang pháp sư trì kinh Pháp Hoa trải 80 kiếp giáo hóa đại chúng trụ bậc bất thoái. Tám vị vương tử kia đầy đủ đạo hạnh của chư Bồ tát nên đều thành Phật. Người thành sau cùng hiệu là Nhiên Đăng thầy của trời người và cũng là người thọ ký cho Đức Thích Ca.
Trong 800 người học rộng tài cao có một Bồ tát ưa xây chùa tháp, thường đến nhà giàu, nên bị đại chúng gọi là Cầu Danh. Dù bị xem thường, Ngài vẫn tiếp tục vun trồng cội lành ở các Đức Phật. Nay đủ từ tâm, thường ở chánh định, nên được Thích Tôn thọ ký kế đây thành Phật hiệu là Di Lặc. Còn Diệu Quang pháp sư chính là thân ta ở thời quá khứ.
Ta thấy điềm lành này cùng với trước kia đồng nhau không khác, cho nên nghĩ rằng Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sẽ nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa dạy cho Bồ tát những điều bí yếu của các Như Lai.

B - GIẢI THÍCH

Mở đầu phẩm Tựa cho thấy Đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa trên núi Kỳ Xà Quật, nơi thành Vương Xá. Hiểu đơn giản theo Tích môn, thành Vương Xá chỉ là một địa danh ở Ấn Độ. Nhưng theo Ngài Trí Giả, lý giải dưới dạng Bổn môn, thành Vương Xá tiêu biểu cho mạng sống của con người gồm có nhà ngũ ấm hay thân sanh diệt của con người hàm chứa phần tâm linh bên trong.
Kỳ Xà Quật là ngọn núi ở Ấn Độ, còn có tên là Linh Thứu. Thứu là chim kên kên thường bay xuống Thi Lâm ăn xác người chết. Thứu chỉ cho vọng thức của con người. Linh chỉ cho chân tâm. Linh Thứu tiêu biểu cho sự kết hợp giữa chân tâm và vọng thức. Chúng ta có hai phần : chân tâm và thức. Chân tâm của ta và Phật giống nhau, nên gia công tu, chúng ta cũng đạt quả vị như Phật. Tuy nhiên, chúng ta và Phật khác nhau ở phần thức. Đức Phật đã chuyển được 8 thức thành 4 trí, nên thấy biết sự vật hoàn toàn chính xác, không bị phiền não tác động và chuyển vật tự tại theo hướng thánh thiện. Về phần chúng ta, luôn luôn suy nghĩ và hành động theo sự sai khiến của 8 thức thuộc về vọng thức, tạo ra vô số tội lỗi tác hại cho cho các loài hàm linh. Tu Pháp Hoa, chúng ta phải trải qua quá trình chuyển đổi vọng thức, cách ly nó với phiền não, hạn chế nó để dẹp bốn núi sanh già bệnh chết, cho đến dẹp sạch ác xấu của vọng thức để chân tâm lưu lộ.
Kinh Pháp Hoa ghi chúng hội Pháp Hoa có 12.000 vị La hán, có bản kinh lại ghi 1.200 vị đắc La hán. Theo tinh thần Bổn môn không đặt nặng con số chính xác là bao nhiêu vị La hán, vì thêm một người hay bớt một người ở dạng chân tánh không thành vấn đề. Việc quan trọng ở điểm chúng ta phải thực hiện được điều gì lợi lạc cho mình và người trên bước đường tu. Theo tôi, con số 12.000 Tỳ kheo trong pháp hội tiêu biểu cho tất cả những gì Đức Phật thuyết giảng bằng ngôn ngữ lúc bấy giờ và còn lưu lại cho cuộc đời.
Khi Phật nói các kinh khác, vị Thanh văn mở đầu là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên hay A Nan. Trong hội Pháp Hoa, Phật nhắc đến Kiều Trần Như trước. Sắp xếp thứ tự này mang ẩn ý quan trọng đối với hành giả tu Bổn môn, cần suy nghĩ. Ngài Kiều Trần Như là đối tượng thuyết pháp trước nhất của Đức Phật để hình thành Tam bảo đầu tiên. Đức Phật khai tâm họ bằng pháp tứ Thánh đế, nhưng sau đó, tại sao hầu như các kinh đều không nhắc đến Kiều Trần Như ?
Nếu hiểu thông thường, Kiều Trần Như ít nói, không thấy Ngài làm gì nổi bật như Xá Lợi Phất hay Mục Kiền Liên, A Nan, thì Phật nhắc đến làm gì. Tuy nhiên, đến hội Pháp Hoa, Đức Phật muốn chỉ cho chúng ta đừng chấp vào lời nói ; vì cái bên trong của con người không diễn tả được, mới thực sự quan trọng.
Kinh Pháp Hoa diễn tả tướng vắng lặng, vì vậy muốn thuyết Pháp Hoa phải đưa ra mẫu người không nói như Kiều Trần Như mà Trí Giả gọi là vô sanh. Không nói không có nghĩa là không biết. Ngài biết tất cả, vì trong hàng đệ tử Phật, Ngài đắc La hán trước tiên; nhưng không phát biểu, để sau Phú Lâu Na thuyết pháp là ý nghĩa vô sanh hiện ra sanh. Kinh ghi chúng hội thính pháp là Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v... Nghĩa là hiểu theo Bổn môn, người phát xuất từ bản tâm thanh tịnh hiện ra lượng ánh sáng trí tuệ rộng lớn và thể hiện bằng việc làm đầy sức mạnh, dũng cảm, hàng phục được tà ma ngoại đạo, mới tiêu biểu cho Pháp Hoa. Trên tinh thần ấy, hành giả tu Bổn môn cố gắng tìm về nguồn, sống với bản tâm thanh tịnh, sẽ gặp Pháp thân Phật.
12.000 Tỳ kheo gồm có bậc La hán và tam hiền là chúng thường tùy của Phật. Các Ngài tu 37 trợ đạo phẩm phá lần từng lớp phiền não để đắc đạo, nên có những quả vị khác nhau. Trong đó, thấp nhất là người đạt quả vị giải thoát trong hoàn cảnh không giải thoát, tức hàng sơ quả. Họ đã có được tự thọ dụng thân, tâm lúc nào cũng an vui dù sống một mình hay ở với chúng.
Bên cạnh 12.000 Tỳ kheo còn có 80.000 Bồ tát vào đời cứu nhân độ thế. Bồ tát khác với Thanh văn. Thanh văn vui với chính mình, vui ở trong lòng, không cần làm, không cần đến với người. Tám vạn Bồ tát vì tâm từ trải khắp, đến để cứu khổ ban vui cho người, không làm vì tham vọng cá nhân. Đức Phật luôn khen ngợi Bồ tát là vậy.
Tám vạn Bồ tát, chúng ta không nên nghĩ đó là con số cố định. Vì Bồ tát cảm nhận pháp Phật bằng chân tâm, bằng niềm tin, không nghe qua thanh trần như người bình thường. Tám vạn Bồ tát hay con số 8 đối với hành giả Pháp Hoa tiêu biểu cho bát Chánh đạo. Hành giả đã thể nghiệm bát Chánh đạo trên lộ trình tiến tu Bồ tát hạnh và từ đó, đứng trên lập trường bát Chánh đạo vào đời giáo hóa chúng sanh, chắc chắn mang lợi ích an vui cho người.
Từ con số 80.000 Bồ tát, chúng ta liên tưởng đến 8 vạn tế hạnh của các Ngài. Điều này gợi nhắc chúng ta phải hoàn thiện tư cách mới khả dĩ giáo hóa người. Khi còn nhiều lỗi lầm xấu ác, đừng mong làm thầy dạy người, phải lo sửa đổi bản thân mình. Như vậy, hành giả Pháp Hoa cần trang bị bát Chánh đạo và 8 vạn tế hạnh. Đó là ý nghĩa của Bổn môn thể hiện qua hình ảnh 80.000 Bồ tát nghe pháp.
Ngoài ra, còn có bát bộ chúng gồm 70.000 chư Thiên, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la. Các loại hình chúng sanh này cũng dẫn theo vô số quyến thuộc.
Chư Thiên hơn 70.000 vị từ Trời Dục giới và Sắc giới, nhưng không có Trời Vô sắc là Trời Tứ Không thiên đang trụ định. Chúng ta tu phải cẩn thận, đừng lạc vô đó, phóng quang của Phật không tới đó, như Thầy của Uất Đầu Lam Phất trụ ở Tứ Không thiên, chờ hết phước thì rớt xuống.
Tám vị Long vương, bốn Càn thát bà, bốn A tu la, bốn Ca lầu la, bốn Khẩn na la, bốn Ma hầu la già, tất cả vị này họp chung gọi là Thiên long bát bộ thường đến nghe Phật thuyết pháp. Theo Đại thừa, thế lực vô hình chung quanh chúng ta là Hộ pháp long thiên rất quan trọng. Những người này trước kia đã tu hành, nhưng vì không được gặp Phật, nên họ phải chịu lưu nghiệp. Họ đã tu hơn chúng ta vì có quyền năng hơn, giỏi hơn, giàu hơn, nhưng họ thua ta ở điểm còn lưu nghiệp, còn nhiều sân hận, trong khi chúng ta tu, dứt bỏ nghiệp. Vì còn nghiệp sân, họ phải làm A tu la, không được phép xuất gia. Phật chỉ cho loài người xuất gia. Ca lầu la đời trước cũng giữ giới kỹ, nhưng lại phạm tội ngã mạn xem thường người hoặc Ma hầu la già tu nhưng phạm phải tội ghét người xấu, muốn hại người xấu, v.v... Họ tu nhiều, nhưng còn dư nghiệp, phải trả hết nghiệp, mới được thọ ký thành Phật.
Nói chung, từ cõi Trời cho đến hạ giới quỷ thần đều hoan hỷ. Đó là điều kiện thuyết kinh Pháp Hoa mà các kinh khác không có. Khi được thế lực vô hình tùy hỷ cao độ như vậy, trở lại thực tế, Đức Phật thuyết kinh này ở nước Ma Kiệt Đà, thành Vương Xá. Vua A Xà Thế phải phát tâm quy phục và tất cả người quý trọng chánh pháp, giỏi, tốt, đều tập trung đến nghe pháp, cúng dường. Bên cạnh Hộ pháp vô hình, cũng cần có Hộ pháp hữu hình mới an toàn trọn vẹn. Vì vậy, trong kinh Bảo Tích cho thấy Hộ pháp vô hình tác động vào A Xà Thế khiến ông phải phát tâm hộ đạo, nói lên sự hòa hợp của thế lực vô hình và hữu hình.
Theo tinh thần Bổn môn, cấu tạo đạo tràng trên căn bản là Thanh văn, Bồ tát, nhưng vẫn có bát bộ chúng và người cầm quyền sở tại ủng hộ. Từ nền tảng chúng hội đầy đủ thế lực siêu nhiên và sức mạnh hữu hình như vậy, Đức Phật thanh thản nói pháp quan trọng là Diệu Pháp Liên Hoa.
Thiết nghĩ ngày nay chúng ta thiết đặt đạo tràng cũng phải theo kiểu mẫu ấy mới khả dĩ tiến tu an lạc, giải thoát. Làm cách nào chúng ta nhận được lực gia bị của Bồ tát, Thánh chúng, chư Thiên và trở về thực tế, được người trí thức và quần chúng hỗ trợ, chắc chắn sẽ có sức mạnh không gì lay chuyển nổi. Thành tựu đạo tràng đúng pháp như vậy, mới có thể phát huy Phật pháp lợi lạc quần sanh.
Khi đại chúng gồm có Bồ tát, Thanh văn, bát bộ chúng, vua A Xà Thế và quần thần tụ họp đầy đủ, Đức Phật thấy đủ điều kiện, Ngài mới bắt đầu nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa. Như vậy, Phật không mở đầu bằng kinh Pháp Hoa, nhưng triển khai Vô Lượng Nghĩa trước.
Đức Phật nói Vô Lượng Nghĩa là nói pháp bí yếu của Như Lai cho Bồ tát. Từ trước, Phật nói pháp thông thường, nay mới nói bí mật của Như Lai cho người phát tâm Đại thừa. Họ không còn phiền não, thấy được Pháp thân và Báo thân Phật, Ngài mới nói sinh hoạt của hai thân này cho họ.
Từ trước kinh Pháp Hoa là kinh Hữu Lượng Nghĩa (có nghĩa giới hạn), chúng Thanh văn chấp lời thì chữ đâu nghĩa đó. Nhưng Phật dạy Bồ tát không phải như vậy, tất cả gì Như Lai nói thuộc phương tiện pháp nhằm giúp cho người xa rời chấp trước, kể cả chấp kinh. Phật nói Vô Lượng Nghĩa để đại chúng xóa đi tâm cố chấp và phát sinh trí tuệ. Một chữ, một câu của Phật dạy phải được hiểu đủ cách để làm lợi ích chúng hữu tình, sanh vô loài nào thì hiểu theo loài đó. Đó là bí yếu của Như Lai trao cho Bồ tát, hay nói cách khác, trao trí khôn, trao nhận thức cho chúng ta, làm cho chúng ta hiểu được cách sống và cách suy nghĩ. Đức Phật dạy chúng ta trí tuệ để lâm vào hoàn cảnh nào, chúng ta cũng hiểu biết, ứng dụng thành công. Ở Cực lạc thì tu theo địa ngục sao được, đòi dựng địa ngục trên thiên đường thì ai chịu.
Muốn trì kinh Pháp Hoa hay cứu nhân độ thế, hành giả phải thực hiện ba việc quan trọng. Trước tiên, cần rèn luyện đức hạnh để trở thành mẫu người đạo đức trên cuộc đời. Tùy mức độ rèn luyện mà mỗi người có đức hạnh khác nhau. Người xuất gia thọ 250 giới thì phải theo khuôn phép như thế nào, thọ Bồ tát giới thì có nếp sống ra sao... Giới phẩm là đạo đức, nhưng thọ giới mà không giữ giới, không thành đức. Giữ giới đúng thì lâu ngày giới biến thành đức hạnh. Ban đầu ta phải cố gắng giữ giới, nhưng sau trở thành quen, tự nhiên, không phải gò bó; vì vậy có thể nhìn tướng đi, giọng nói là biết được người có đức hạnh. Đức hạnh thể hiện trong lời nói, trong cử chỉ hàng ngày của chúng ta. Điều này chúng ta tập được, thấy người tốt, bắt chước theo, lâu ngày ta cũng tốt. Rèn luyện đức hạnh đến độ cao nhất, đắc quả vị A la hán thì không còn lỗi lầm, đạt được tiêu chuẩn thứ nhất để thọ trì kinh Pháp Hoa, mới đủ tư cách nói việc Phật. Nếu người còn chỉ trích, phê phán được, tự biết ta còn nhiều lỗi lầm, nên sửa mình cho tốt, ví như súc bình sạch để đựng pháp mầu.
Kế đến, hành giả xét về trí tuệ của mình, tức xét xem nhận thức có chính xác hay không. Hiểu biết về đời và đạo còn kém cũng chưa đủ điều kiện để nói kinh Pháp Hoa hay thọ trì Pháp Hoa. Muốn nói chuyện Phật, phải hiểu thế gian trước. Điển hình như Đức Phật có tôn danh là bậc Thế gian giải, việc gì của thế gian Ngài cũng giải được, mới nói đến việc của mười phương Phật. Cần nỗ lực phát huy trí tuệ, tức tu thiền định, trải qua quá trình tập trung tư tưởng soi rọi vào giáo lý Phật để nhận chân được yếu nghĩa và sống với yếu nghĩa của Phật dạy. Không phải chỉ chấp nhận lời Phật dạy bằng tình cảm, nghĩa là thương Phật nên nghe tin theo, mà thực sự không hiểu.
Đạt được hiểu biết thế gian và xuất thế gian, khi tập trung tư tưởng, ngồi yên một chỗ mà việc gì cũng giải được. Có hiểu biết toàn vẹn, đúng đắn, mới có khả năng tiếp thu kinh Pháp Hoa thuộc chân lý tối thượng.
Giai đoạn sau cùng, hành giả kiểm tra việc làm. Trên bước đường giáo hóa chúng sanh, thường có ba cách : giáo hóa bằng ngôn ngữ, bằng hành động và bằng tâm thức. Dạy bằng ngôn ngữ là cách thấp nhất, tương đối dễ, người nghe thực hiện, đạt kết quả. Cách thứ hai là giáo hóa bằng hành động, không sai bảo, nhưng người nhìn thấy tự phát tâm Bồ đề, bắt chước làm theo, hoặc chỉ nhìn hành giả, họ cũng cảm thấy an vui. Cao nhất là giáo hóa qua tâm thức. Tâm hành giả duyên khắp mười phương pháp giới tìm thiện hữu tri thức, nghĩ đến người nào, người ấy hết khổ. Họ không nghe, không thấy, nhưng nhận được sự cứu độ của hành giả.
Phải làm lợi ích chúng hữu tình, khiến cho người giải thoát mới có Pháp Hoa ; bản thân hành giả an lành và người cùng tu cũng an lành theo. Đó là điều kiện thứ ba mà kinh Vô Lượng Nghĩa đặt ra cho hành giả Pháp Hoa.
Đức Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, nhắc nhở chúng ta làm bất cứ việc gì trên trần gian cũng được, không cố chấp việc nào, nhưng phải đạt được thành quả trong ba nghĩa trên : phải là người đức hạnh nhất, phải có hiểu biết vượt hơn mọi người và phải có khả năng cứu nhân độ thế.
Có thể khẳng định rằng kinh Vô Lượng Nghĩa bao hàm tam thừa giáo của Đức Phật, tức rút gọn tất cả kinh điển mà Phật đã dạy cho Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát hiểu và đến Pháp Hoa mới hiểu theo Phật.
Quan sát sự hành đạo của Đức Phật, chúng ta thấy rõ kinh Vô Lượng Nghĩa thể hiện đầy đủ trong ba cách chuyển pháp của Ngài. Phật dạy hàng xuất gia và cư sĩ bằng lời nói. Hàng Bồ tát mười phương quan sát việc làm của Phật để tự trang nghiêm thân tâm. Đối với Bồ tát Tùng địa dũng xuất, Phật chỉ dạy qua tâm thức.
Nói Vô Lượng Nghĩa xong, Đức Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ định, trong khi các kinh khác, Ngài nói thẳng. Điều này gợi ý muốn có kinh Pháp Hoa, phải chuyển đổi nhận thức thông thường thành cái nhìn đặc biệt, tức vô lượng nghĩa hay vô số cách hiểu nội dung, làm sao chọn đúng nghĩa thích hợp với hoàn cảnh của mình để tu cho đạt kết quả tốt. Ai tu cũng giống nhau về hình thức bên ngoài : công phu, nghe pháp, ngồi thiền... Nhưng chính yếu phải nói đến phần chuyển biến sinh hoạt nội tâm mỗi người khác nhau là Vô lượng nghĩa. Và đi sâu vào thế giới tâm linh để tìm được nghĩa lý Phật dạy Bồ tát tu hành thành Phật mới quan trọng.
Nhập Vô lượng nghĩa xứ định, hiểu thông thường là nói kinh xong, Đức Phật nhắm mắt nhập định. Nhưng hiểu theo Bổn môn không phải như vậy. Nhập Vô lượng nghĩa xứ định là sau Phật Niết bàn, Ngài không còn hiện hữu, không nói ; lúc ấy đệ tử Phật bắt đầu hiểu Phật, được kinh diễn tả là đại chúng thấy ánh quang Phật phóng ra chiếu suốt 18.000 thế giới, thấy Phật ra đời thuyết pháp, thấy Bồ tát hành đạo, v.v...
Đức Phật phóng quang, sự kiện này ngụ ý rằng Phật Niết bàn để lại tam tạng giáo điển. Tam tạng giáo điển này phát xuất từ trí tuệ của Phật, do Phật huệ nói ra. Kinh diễn tả là nhìn thấy từ bạch hào tướng Phật phóng ra ánh quang, tức chúng ta nhìn thấy trí tuệ của Phật qua kinh điển, không phải thấy ở ngoài. Nương theo kinh điển, chúng ta hiểu Phật nói về tứ sanh lục đạo hay sanh tử luân hồi, là khổ và nguyên nhân của khổ. Sau thấy Phật ra đời, thuyết pháp độ sanh, tức diệt đế và đạo đế. Chỉ vài câu như thế đã giới thiệu tổng quát về Phật ra đời và nói tứ thánh đế. Kế đó, thấy Phật diệt độ, phân chia xá lợi và xây tháp để thờ, có thể nói đến đây là kết thúc phần Thanh văn tạng và tiếp theo thấy Bồ tát hành lục độ ba la mật trong mười phương, tiêu biểu cho Bồ tát tạng hay Đại thừa tạng. Nói chung, trong định Vô lượng nghĩa có đủ Tiểu thừa và Đại thừa giáo của Phật. Vì vậy, muốn hiểu Phật giáo, tất yếu không thể rời bỏ tam tạng kinh điển. Chỉ có hai câu : Đức Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, rồi nhập Vô lượng nghĩa xứ định, đã gợi ý sâu xa mà người thọ trì Bổn môn phải hiểu như vậy.
Đức Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ định, Ngài yên lặng, không nói bằng ngôn ngữ, nhưng Bồ tát nghe pháp vô ngôn của Phật bằng Bồ đề tâm, họ tự phát triển công đức, tâm tự sáng ra và an lành.
Đức Phật nói Vô Lượng Nghĩa kinh rồi nhập Vô lượng nghĩa xứ định tiêu biểu cho sự kết hợp Tích môn và Bổn môn. Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời thể hiện việc làm thánh thiện, lợi ích cho mọi người, thuộc về Tích môn. Ngài nhập diệt, người người hướng tâm quy ngưỡng Ngài là dạng Bổn môn.
Lúc Đức Phật nhập định, trời mưa hoa Mạn đà la, Ma ha mạn đà la, Mạn thù sa, Ma ha mạn thù sa. Hiểu theo nghĩa sâu, hoa trời không phải là hoa thật. Bốn loại hoa này tiêu biểu cho tâm an vui, hết khổ.
Phật nhập định, không nói, người hướng tâm về Phật, không còn thấy khổ. Đó là thế giới của tâm thức do lực Phật chi phối nên cảm nhận an vui. Thế giới vật chất thì những gì chúng ta nghĩ, mong ước thường trái lại, như muốn giàu sang nhưng chẳng bao giờ nó đến, cái chúng ta sợ thì nó lại dễ dính với ta. Thế giới tâm thức thì ta nghĩ gì, cái đó hiện và người được Phật lực gia bị nên tâm họ luôn nghĩ đến điều tốt và cảm nhận sự an lành. Thuở nhỏ, tôi thường sống ở dạng này, vì khổ với đời, tôi không thích sống với người đời, chỉ thích sống trong yên lặng một mình, nghĩ đến thế giới tốt đẹp thì cái đó luôn hiện trước mắt tôi. Tuy cuộc sống hẩm hiu nhưng tôi vẫn vui vì thấy toàn Cực lạc, thiên đường. Phải nói người tu sống thảnh thơi là nhờ có thế giới lý tưởng để an trú. Nếu không, khó tiến tu. Bước đầu vào đạo, chúng ta phải dứt khổ, chỉ thấy Bồ tát, Phật, nên chúng ta vui, còn nhìn chúng sanh tham lam, dữ tợn, xấu xa thì lòng chúng ta không thể yên.
Đức Phật nhập định, không nói, nhưng có hoa rải xuống, nhằm vẽ lên hình ảnh Phật Niết bàn, không trực tiếp dạy chúng ta. Tuy nhiên, người nào thọ trì pháp Phật, đọc tụng kinh điển, tham thiền nhập định, cho đến chỉ chiêm ngưỡng hình tượng Ngài, v.v... đều cảm nhận an vui. Niềm vui trong pháp Phật tiêu biểu bằng hoa Mạn đà la, dịch là ý lạc hoa, tức vui trong lòng. Thọ trì, đọc tụng Pháp Hoa, cảm nhận nguồn vui, từ vui ít, lần lần vui nhiều, hành giả đã thâm nhập đạo tràng của Phật. Trái lại, đọc kinh không vui, nhưng mệt thở hết nổi, hoặc tụng kinh mà tâm nhớ nghĩ đâu đâu, không phát sanh trí tuệ, không tăng trưởng phước đức, chắc chắn không phải Pháp Hoa. Vui với pháp, sống với đạo, tự nhiên hành giả quên mọi khổ lụy trần gian, tiêu biểu bằng hoa Mạn thù sa.
Trên bước đường tu, không nhận ra vô lượng nghĩa của kinh Phật và không thâm nhập niềm vui tuyệt diệu trong đời sống tu học, thì dù có thọ trì bao nhiêu bộ kinh Pháp Hoa, cũng chỉ là Pháp Hoa của giấy trắng mực đen do phàm phu làm ra. Đạt được trạng thái tâm an vui và hoàn cảnh bên ngoài không tác động, đó là hai điều kiện để thâm nhập Pháp Hoa.
Nhờ bắt gặp hoa Mạn đà la, Mạn thù sa và thâm nhập được thế giới Pháp Hoa, hành giả nương theo hào quang Phật thấy suốt 18.000 thế giới, là chỉ cho căn trần thức hiện ra. Phật nói thế giới tuy nhiều, nhưng đều nằm trong căn trần thức, 3 thứ này hợp lại tạo thành thế giới tâm thức. 18.000 thế giới chỉ cho thế giới tâm thức, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến Trời Sắc Cứu Cánh.
Địa ngục A Tỳ chỉ cho sự đau khổ cùng cực nối tiếp không dừng. Khổ vì tham vọng, nên nghèo cũng khổ mà giàu có quyền uy cũng khổ. Tham vọng nhiều càng khổ nhiều. Khách quan nhìn cuộc đời thấy chúng sanh, nghiệp và phiền não như vậy, chắc chắn chúng ta không ham mê 5 món dục, dại gì chui vào cái rọ khổ ấy.
Thấy theo Phật, cũng thấy chúng sanh từ địa ngục A Tỳ đến Trời Hữu Đảnh, nhưng không khởi tham sân si. Thật vậy, thấy người ở địa ngục, tức người hung ác thì chúng ta khởi tâm thương và muốn cứu vớt họ, vì họ có suy nghĩ ác, lời nói ác, hành động ác, tất nhiên họ phải vào địa ngục ; nhưng nếu thấy theo kiểu thế gian thì lại ghét bỏ người hung ác. Thấy người hiền, biết họ có đức tính của chư Thiên. Nói chung, chúng ta quán sát xã hội, thấy đúng như thật, nếu là súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục thì phải sống như vậy, ăn như vậy, nói năng như vậy, v.v...
Chúng ta suy nghĩ tìm chỗ đứng tương xứng của mình, nhìn thấy được cái thực của cuộc đời và cái của ta, nên luôn được an ổn. Thấy lục đạo tứ sanh đau khổ và thấy Phật xuất hiện trên cuộc đời, trí tuệ và đạo đức của Ngài thật ngời sáng, trời người đều cung kính cúng dường Ngài, thấy Bồ tát hành đạo làm lợi ích cho chúng sanh. Đứng ở lập trường Phật giới quan sát mới nhận đủ toàn bộ pháp giới hay đó là thế giới quan của Bổn môn Pháp Hoa; từ đó chúng ta phát tâm Bồ đề, tiến bước theo Bồ tát đạo thể hiện pháp mầu trong cuộc sống.
Thâm nhập Pháp Hoa, thấy các loại hình chúng sanh ngày nay cũng là loại hình chúng sanh xa xưa có từ thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Nhiên Đăng, Diệu Quang, Di Lặc... không thay đổi, tức chân lý là một, bất biến.
Di Lặc là người thừa kế sự nghiệp của Phật Thích Ca, nhưng nay nhìn thấy hiện tượng ấy liền nghi ngờ. Phật đang nhập định hay Phật Niết bàn, không có trên cuộc đời, kinh Phật có ở đây, nhưng không hiểu thì hỏi ai. Di Lặc liền tự nghĩ đến hỏi Văn Thù.
Văn Thù tiêu biểu cho đại trí, tức không có Phật, muốn hiểu chúng ta phải tìm bậc trí thức để học hỏi. Nghe đâu có danh Tăng đại sư là lặn lội tìm đến học, vì những bậc có trí tuệ bảo đảm nhiều đời họ đã thân cận các Đức Phật quá khứ , đã thâm nhập Phật pháp. Tìm Văn Thù tức thân cận với người nối tiếp mạng mạch Phật pháp, họ thông thái học rộng nghe nhiều, hoặc thân cận trong sách vở.
Di Lặc tiêu biểu cho nghi ngờ, phân biệt, hiểu biết của thức. Từ vô số kiếp tu hành, Di Lặc thường đến nhà sang giàu, ôm cả khối kinh nghiệm, hiểu biết của thức uẩn, không thể nào hiểu được pháp giới. Di Lặc phải nhờ Văn Thù giải thích, vì Ngài đã từng gần gũi vô số Phật quá khứ, nghĩa là luôn sống với trí tuệ, mới hiểu Phật. Nói cách khác, khi hành giả dùng thức suy nghĩ không hiểu được, nhưng lắng yên tâm hồn để trí tuệ vô lậu phát sanh, vấn đề tự giải. Hiểu biết theo Văn Thù hay dùng chơn tâm hóa giải vọng tâm, luôn sống với chơn tâm, đó là con đường dẫn đến Phật quả.
Di Lặc hỏi Văn Thù tại sao có hiện tượng Phật phóng quang cho thấy sinh hoạt các loài và sự hành đạo của chư Phật, Bồ tát trong pháp giới, điều này có thật không ? Theo suy nghĩ thông thường, Đức Phật không còn trên cuộc đời thì đạo Phật cũng không thể tồn tại. Tuy nhiên, dưới lăng kính Pháp Hoa, hay theo lý giải của Văn Thù, sau Phật diệt độ, đạo Phật càng phát triển hơn, được truyền bá khắp năm châu, thuộc về giai đoạn thứ hai do Báo thân viên mãn của Phật Thích Ca nói pháp cho mọi loài. Di Lặc thấy có nhiều Đức Phật ra đời thuyết pháp giáo hóa. Mỗi vị nói một cách, không Phật nào nói giống nhau, nhưng đều cứu độ được chúng nhị thừa và mang an lạc cho Trời người. Di Lặc thấy trong định, trong từ tâm tam muội như vậy.
Văn Thù xác định Di Lặc thấy đúng. Sau Phật diệt độ, các Bồ tát xuất hiện ở Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Việt Nam... đều không giống nhau. Tùy theo yêu cầu của từng nơi mà đạo Phật tồn tại thích hợp với dân tộc tính nơi đó. Đó là cách nhìn mở rộng của kinh Pháp Hoa, bao gồm tất cả Phật, nhưng đều phát xuất từ Phật gốc là Báo thân viên mãn, hiện ra trăm ngàn muôn ức Đức Thích Ca thuyết pháp.
Di Lặc bằng niềm tin thấy mường tượng như vậy. Văn Thù thấy bằng trí tuệ nên biết rõ chính xác từ thời quá khứ có hai muôn Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai cho đến thời hiện tại là Phật Thích Ca đều nói Pháp Hoa, không khác. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh và Phật Thích Ca nói pháp đồng nhau, nên gọi là thường pháp hay pháp thường hằng bất biến, không thay đổi.
Người chấp pháp cho rằng pháp cố định, nhưng Phật cho biết không có pháp nào cố định đưa đến Vô thượng Đẳng giác và kinh Bảo Tích cũng đồng quan điểm, dạy rằng Phật này nói, Phật khác không lặp lại. Nhưng theo Pháp Hoa thì Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh và Thích Ca nói pháp đồng nhau, không khác. Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ.
Phật này nói, Phật khác không lặp lại, nghĩa là không lặp y lời. Ngôn ngữ khác, nhưng điềm lành xưa và nay không khác. Xưa Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói Vô Lượng Nghĩa và nay Phật Thích Ca cũng nói Vô Lượng Nghĩa, tức Phật xưa và nay đều xác nhận không có pháp cố định. Pháp tùy duyên thay đổi, nên Phật xưa và nay đều nói Vô Lượng Nghĩa, đều nhập Vô lượng nghĩa xứ định, đều làm cho người phát Bồ đề tâm. Phật xưa và nay nói pháp đồng nhau là như vậy. Khi chúng ta nghe Phật bằng tai, thấy Phật bằng mắt, thường dễ bị kẹt vào vấn đề sắc thanh. Nhưng nay Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ định, không nói thì Phật hiện hữu ở dạng Phật tâm có sức tác động qua tâm người. Phật xưa và nay đều như vậy, tuy không nói, nhưng sự yên lặng của Phật đều làm cho người hết khổ, an vui, được diễn tả bằng hình ảnh hoa Mạn đà la và Mạn thù sa. Nói cách khác, Phật xuất hiện trên cuộc đời hay nhập diệt đều làm lợi ích cho người. Phật xưa và nay đồng nhau ở trọng điểm này, gọi là Pháp Hoa, là pháp Phật muôn đời không thay đổi, dù nói năng hay yên lặng cũng làm cho trời người an vui. Tu Bổn môn là tiếp thu pháp đó, thọ trì pháp đó và tu tâm Bồ đề đó.
Lúc ấy, Văn Thù là Diệu Quang Bồ tát và Di Lặc là Cầu Danh. Vì Bồ tát Cầu Danh tu tâm từ, lo cho người. Nương lực Phật để cứu giúp chúng sanh nhiều, nên Ngài được đại chúng thương mến, nhưng không nghĩ đến phát huy trí tuệ. Đến khi Phật nhập định thì lúng túng, phải cầu cứu Văn Thù. Ý này nhắc chúng ta tuy nương theo Thầy tu tạo công đức, cũng cần phát triển khả năng của riêng ta. Diệu Quang không ỷ lại vào Phật, chuyên lo phát huy trí tuệ ; vì vậy khi Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nhập diệt, Ngài thay Phật giáo hóa đồ chúng dễ dàng. Tất cả đều thành Phật, người thành sau cùng là Phật Nhiên Đăng và Phật này thọ ký cho Đức Thích Ca. Kế tiếp, Phật Thích Ca thọ ký cho Di Lặc.
Trong quá trình hành đạo từ thời quá khứ lâu xa ấy cho đến ngày nay, Văn Thù đã từng giáo hóa, làm Thầy các Đức Phật, tất nhiên phải biết rõ diệu dụng của pháp cao tột, tức Phật đang thuyết Pháp Hoa. Bấy giờ, tuy trụ thiền định, nhưng nội lực của Ngài tác động qua tâm Bồ tát và chúng sanh trong khắp mười phương pháp giới, khiến tất cả cảm nhận an lành, phát tâm Bồ đề, thăng hoa trí tuệ, đạo hạnh. Chính Diệu Pháp Liên Hoa ấy nuôi sống mạng mạch Phật pháp trường tồn hơn 25 thế kỷ và còn mãi mãi soi đường cho chúng sanh trở về thế giới vĩnh hằng bất tử.
Theo tôi, phẩm Tựa của kinh Pháp Hoa Tích môn bắt đầu từ phần tập họp chúng hội cho đến phần Bồ tát Di Lặc khởi nghi. Nhưng phẩm Tựa của kinh Pháp Hoa Bổn môn thì bắt đầu từ ý Di Lặc Bồ tát khởi nghi cho đến phần Văn Thù Sư Lợi bảo đại chúng chờ Phật nói kinh Pháp Hoa cho nghe. Vì vậy, tôi vẫn xếp phẩm Tựa thứ nhất của bộ kinh Pháp Hoa 28 phẩm vô Pháp Hoa Bổn môn, xem đó là tựa chung cho cả Pháp Hoa Bổn môn và Tích môn.

II - Ý NGHĨA PHẨM PHÁP SƯ

A - VĂN KINH

Bấy giờ Phật bảo Dược Vương Bồ tát, tất cả đại chúng, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Thiên, long bát bộ, người cầu Thanh văn, người cầu Bồ tát hay cầu Phật đạo, mà ở trước Phật nghe kinh Pháp Hoa một câu, một kệ, một niệm tùy hỷ, Ta đều thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép Diệu Pháp Liên Hoa, phải biết người này đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương nhân gian mà sanh lại đời. Nếu ai chê họ, tội còn nặng hơn chửi mắng chư Phật, còn ai khen ngợi thì được công đức vô lượng vô biên, vì kinh này là bí yếu của Phật.
Sau Phật diệt độ, nếu ai thọ trì thì được chư Phật hộ niệm, có đức tin lớn, chí niệm bền vững và được gần Phật, được Phật thọ ký. Nếu ở chỗ nào có kinh Pháp Hoa nên dựng tháp báu để mà cúng dường, không cần xá lợi, vì trong tháp ấy có kinh Pháp Hoa là toàn thân Phật. Nếu Bồ tát mà chưa thọ trì được Diệu Pháp Liên Hoa phải biết họ còn cách xa Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Ví như đào giếng ở trên cao nguyên mà thấy đất khô thì biết cách nước còn xa, nếu tiếp tục đào cho đến đất ướt, đất bùn thì biết sắp được đến nước. Tu đạo Bồ tát cũng lại như thế, nếu nghe được kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì biết đã gần đến Vô thượng Chánh giác. Nếu chư Bồ tát mà nghe kinh này còn chưa hiểu được là mới phát tâm. Thanh văn nghe kinh mà sanh sợ sệt là tăng thượng mạn.
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nào muốn giảng kinh này phải vào nhà Phật, mặc áo Như Lai và lên pháp tòa rồi mới vì chúng mà nói Pháp Hoa. Tòa của Như Lai là trí Bát Nhã, áo của Như Lai là hạnh nhu hòa, nhà của Như Lai là tâm từ bi, quyết lòng độ chúng không vì việc khác. Nếu làm như thế, Ta bảo Trời người cùng với phi nhơn ra mắt pháp sư, nghe pháp cúng dường. Nếu người đến hại, Ta khiến Kim cang bát bộ thiện thần che chở pháp sư. Nếu trụ chánh định thì thân ta, nghe ta thuyết pháp. Ai gần người này, tâm cũng được an và thấy hằng sa vô số chư Phật, mau đến Vô thượng Bồ đề.

B – GIẢI THÍCH

Phẩm Tựa cho thấy Đức Phật trước khi nói kinh Pháp Hoa, Ngài nhập định. Sau đó Ngài xả định, trở lại thực tế cuộc đời, nói với Xá Lợi Phất về pháp phương tiện. Đó là quá trình mà Đức Phật giảng dạy cho con người, hay Tích môn được ghi lại từ phẩm Phương tiện thứ hai đến phẩm Thọ học vô học nhơn ký thứ chín.
Nhưng trên lập trường Bổn môn quan sát, Đức Phật không rời chánh định để trở lại cuộc đời giáo hóa chúng sanh. Ngài từ Thiền định đến với các Bồ tát và sử dụng Báo thân nói với Dược Vương Bồ tát. Trụ thiền định hay thế giới tâm linh, Đức Phật dạy Bồ tát ở dạng tâm hay Báo thân Bồ tát ở thế giới Thật báo, không phải thế giới này, nên hàng Thanh văn không thể nghe được.
Trên tinh thần ấy, tôi kiết tập Bổn môn Pháp Hoa kinh, không đề cập phẩm 2 đến phẩm 9, mà đi thẳng từ phẩm Tựa đến phẩm Pháp sư thứ 10 để triển khai bí yếu Phật dạy Bồ tát.
Mở đầu, Phật nói pháp với Dược Vương Bồ tát. Điều này cho chúng ta suy nghĩ công hạnh và thành quả của Dược Vương lớn lao như thế nào mà Phật nói pháp quan trọng với Ngài.
Qua phẩm Dược Vương Bồ tát bổn sự, chúng ta thấy quá trình tu hành của Ngài kết thành danh xưng là Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn đà la ni, nghĩa là Dược Vương biết rõ chúng sanh muốn gì, có khả năng gì. Ngài hiểu họ bằng tâm, không cần nghe âm thanh, ngôn ngữ. Nhờ vậy, Dược Vương giáo hóa chúng sanh thành tựu một cách nhẹ nhàng, đơn giản, được mọi loài yêu quý, kính trọng, nên Ngài còn có tôn danh là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát. Ngài giải trừ được thân bệnh và tâm bệnh cho tất cả, khiến mọi loài an vui, giải thoát, mới có tên là Dược Vương. Đức Phật chọn vị Bồ tát đầy đủ tư cách như vậy để giao phó pháp chân thật, khó hiểu, khó tin và Dược Vương lãnh trách nhiệm truyền lại ý này cho chúng hội hiện diện cũng như các hành giả Pháp Hoa đời sau.
Trong phẩm Pháp sư có 3 vấn đề quan trọng mà hành giả cần ghi nhớ và thể hiện trong cuộc sống. Trước nhất, hành giả phải được Phật thọ ký hay công nhận, mới có thể tiến tu. Đức Phật chưa ấn chứng, nghĩa là chưa vào nhà Phật, có làm gì cũng vô ích. Ví như người xuất gia phải đăng đàn thọ giới mới có tư cách tu sĩ chân chính, tự mình xuất gia, mặc áo tu chỉ là tu sĩ giả. Khi được Phật thọ ký, hành giả bắt đầu tiến tu và đắc đạo rồi, hành giả mới làm công việc truyền bá Phật pháp.
Trong phần Tích môn, từ phẩm Thí dụ thứ ba đến phẩm Thọ học vô học nhơn ký thứ 9, Đức Phật chỉ thọ ký cho hàng Thanh văn như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, A Nan, La Hầu La, v.v... Đến phẩm Pháp sư, sự thọ ký được mở rộng cho mọi người, mọi loài. Bất luận là xuất gia hay cư sĩ, không phân biệt nam nữ, người cầu Thanh văn, cầu Bồ tát hay cầu Phật đạo, nói chung là hàng tam thừa, cho đến Thiên long bát bộ thuộc thế giới vô hình đang hiện diện trước Phật Thích Ca, và cả chúng đời sau nghe kinh Pháp Hoa một câu, một kệ, một niệm tùy hỷ, đều được Phật thọ ký Vô thượng Bồ đề.
Chúng ta cần hiểu rõ điều này để thấy được tầm quan trọng của việc tu Pháp Hoa, tu như thế nào để thâm nhập mới được thọ ký. Thâm nhập Pháp Hoa ở cấp bậc thấp nhất theo Phật dạy là có một niệm tùy hỷ đối với kinh Pháp Hoa. Chúng ta chỉ có một niệm tâm thanh tịnh thấy Phật và sống trong thế giới Phật là được Phật thọ ký ; ví dụ như có người đến trước mặt tôi, tôi sẽ nói vận mạng của người đó, không đến thì làm sao tôi nói được. Thọ ký là nói vận mạng, không vào thế giới Phật, thì làm cách nào nghe được thọ ký.
Đối với chúng ta còn nhiều nghiệp chướng mà thâm nhập được pháp hội của Phật dù chỉ trong một niệm tâm cũng là cả vấn đề. Giữ cho tâm luôn luôn an trụ trong thế giới Phật thì chắc chắn chỉ có đại Bồ tát làm được. Thật vậy, điều này mới nghe qua rất đơn giản, không cần xuất gia thọ giới, mọi loài chỉ nghe một câu kinh Pháp Hoa cho đến chỉ có một niệm tùy hỷ, liền được Phật ấn chứng quả vị Vô thượng giác. Vậy từ trước đến nay, biết bao người đã tụng hàng trăm ngàn câu kinh Pháp Hoa, thừa sức có đủ điều kiện để được thành Phật. Nhưng sao thân phận họ vẫn èo uột như thế này ? Chẳng lẽ Đức Phật hư vọng sao ? Chắc chắn không thể như vậy.
Thiết nghĩ kinh Pháp Hoa mà chúng ta đối trước Phật nghe được một câu, một kệ hay một niệm tùy hỷ sẽ được thọ ký, không thể nghe qua ngôn ngữ, âm thanh bằng tai, không thể tùy hỷ bằng hiểu biết, phân biệt của ý thức vọng động, phiền não. Và Phật thọ ký cho chúng ta cũng không phải là Phật hiện hữu bằng sanh thân.
Nghe pháp âm Phật hay pháp ngữ bằng bản tâm thanh tịnh mới được thọ ký, giống như Bồ tát Thường Bất Khinh nghe 20 muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa trước khi mạng chung. Mạng chung nghĩa là ngũ ấm thân : sắc, thọ, tưởng, hành, thức không còn tác động ; ngũ ấm đã chuyển thành ngũ phần Pháp thân. Lúc ấy, hành giả ở lập trường Pháp thân nghe kinh và tu hành, nhận được Phật thọ ký dưới dạng Pháp thân, tức thọ trên bản tâm thanh tịnh, hoàn toàn khác với thọ ký cho Xá Lợi Phất ở dạng sanh thân.
Hành giả đời sau cũng như Bồ tát Thường Bất Khinh không còn gặp sanh thân Phật Thích Ca, nhưng lắng lòng, vượt ngũ ấm thân, nghe được pháp âm Phật. Điển hình như Trí Giả thâm nhập thiền định, với bản tâm thanh tịnh, nghe pháp âm của hội Linh Sơn còn vang vọng.
Vì nghe bằng bản tâm và nhận Pháp thân thọ ký, nên thọ ký cả ba đời, không phải một đời. Đứng ở góc độ đó tiến tu, hành giả tái sanh ở đời nào cũng tự nhớ đã tu Pháp Hoa và thăng tiến đạo Bồ đề, không bao giờ thối tâm.
Ngoài ra, Đức Phật cũng thọ ký cho người thọ trì kinh Pháp Hoa sau khi Phật diệt độ. Thọ trì được Pháp Hoa thì phải có cuộc sống trong sạch như hoa sen, trí tuệ siêu tuyệt và làm lợi ích cho chúng sanh, tức thể hiện trọn vẹn tư cách của Đức Phật trên cuộc đời. Đức Phật cho biết đó là người đã thành Vô thượng Đẳng giác, vì thương nhân gian mà sanh lại đời. Thành Vô thượng Đẳng giác nghĩa là đã đạt đến đỉnh cao của tri thức, đạo đức và cứu độ chúng sanh ; hội đủ tư cách như vậy mới có khả năng truyền bá kinh Pháp Hoa.
Người đã thành Vô thượng Đẳng giác, vì thương nhân gian sanh lại đời chắc chắn khác với người nhân gian. Người nhân gian thì luôn bảo vệ thân mạng, tài sản, quyến thuộc của họ. Người ở thế giới Phật sanh lại biết thế giới này tạm bợ, không để tâm tranh chấp. Tâm họ ở thế giới Thật báo của Phật, nhưng thân hiện hữu ở thế gian để làm lợi ích chúng hữu tình, không vì bản thân họ, nên họ có thái độ không giống như người thế gian. Người thế gian thường làm lợi mình hại người. Bồ tát sơ phát tâm tự hành hóa tha làm lợi mình và người, Bồ tát không vì chút tư lợi nào, vô ngã hoàn toàn.
Bồ tát sống trong thế giới Phật, nhưng đến Ta bà để thay Phật giáo hóa chúng sanh. Đó là người trì kinh Pháp Hoa, là sứ giả của Phật. Phật sai họ trở lại cuộc đời làm việc này thì tất phải được Phật hộ niệm, nên họ có đức tin bền chắc, chí niệm vững vàng. Ví như đứa bé ở trong bụng mẹ đâu có sợ sét đánh. Bồ tát sanh lại nhân gian, sự liên hệ giữa Phật và các Ngài cũng giống như vậy, dù ở hoàn cảnh gian lao đến tan thân mất mạng, mà được sống trong sự hộ niệm của Phật thì vẫn cảm nhận được an lành, chẳng sợ sệt gì cả và được Phật xoa đầu, thọ ký.
Tuy nhiên, Đức Phật cho biết thêm rằng muốn thọ trì Pháp Hoa, thương nhân gian sanh lại cuộc đời, nhưng cuộc đời này rất kinh khủng. Nếu không nắm pháp bí yếu thì Phật không hộ niệm được, không thể nào hành đạo ở đây được.
Bồ tát trở lại cuộc đời, Phật giao cho máy để bắt làn sóng liên hệ với Phật. 3 làn sóng để Bồ tát không bao giờ bị lạc mất Phật, đó là nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai. Chúng ta dễ dàng cảm nhận ý này trên bước đường tu. Có lúc chúng ta cảm thấy gắn bó mãnh liệt với Phật, y như mình đang ở Niết bàn. Nhưng có lúc cảm thấy rất bơ vơ hụt hẫng lạ lùng, đó là khi nghiệp nổi dậy làm chúng ta bị lạc mất làn sóng, không liên hệ được với Phật. Tuy là người của Phật sai lại cuộc đời, nhưng vẫn phải giữ trọn vẹn 3 tiêu chuẩn : nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai ; nếu không, Phật cũng không thể hộ niệm.
Vấn đề thứ hai quan trọng đối với hành giả Pháp Hoa là quá trình hành đạo Bồ tát thật khó khăn, cực khổ, được kinh ví như đào giếng trên cao nguyên.
Thật vậy, trên bước đường tu, hành giả luôn luôn phải chạm trán với ba loại cường địch. Ở thế giới Ta bà, hành giả cần ý thức rằng mọi người sẵn sàng hại nhau để tranh dành quyền lợi. Hành giả không cần quyền lợi, địa vị, nhưng vẫn có đầy đủ những thứ này, tất yếu phải bị họ ganh ghét, ám hại. Ở chặng đường một, trên cao nguyên hay trên đồng hoang sanh tử, ai cũng bị thiêu đốt giống nhau. Hành giả vượt cho được sự khuấy phá của hàng thế tục và hơn thế nữa, từ ngũ uẩn thân tu để thấy tâm, không dễ. Mỗi ngày thấy phiền muộn thì dễ hơn, nên phải nỗ lực tu, kinh diễn tả là ra sức đào giếng, không nghỉ, sẽ gặp đất ướt, đất bùn.
Giai đoạn hai, hành giả phải đương đầu với hàng ngoại đạo. Xung đột lớn giữa các tôn giáo cũng là vấn đề trầm trọng. Hành giả tu thế nào để người chống đối phải quay về hàng phục. Người còn phê phán chê bai được, chắc chắn ta còn ở lớp bùn hay còn lỗi lầm, chưa thực tốt hoàn toàn. Hành giả dốc lòng tu, ý thức rằng nhờ thiên hạ chỉ trích mà phát hiện được sai trái của chính mình. Từ đó tìm cách giải trừ sai lầm, cải thiện việc làm cho tốt, ví như cố gạn bùn để lấy nước.
Vượt qua chặng đường thứ hai, hành giả lại gặp bạn đồng tu ganh tỵ, chống phá, cho đến lớp người trên ta có phước báo, quyền thế hơn, thuộc loại tiếm thánh tăng thượng mạn cũng đố kỵ, tranh chấp. Hành giả giải tỏa được áp lực này, tự biết gần đến Vô thượng Đẳng giác, thân tâm được tự tại an vui, tác động cho người an lạc theo, cũng giống như người đào giếng đến mạch nước, tha hồ sử dụng tưới mát mọi thứ.
Tuy hành Bồ tát đạo gian khổ như vậy, nhưng thiết nghĩ hành giả Pháp Hoa không sợ khó, vì không khó thì không khôn. Mỗi lần đụng chạm với đời, hành giả lại phát hiện tồn tại dở xấu của tự thân mình, cần khắc phục. Kinh Pháp Hoa dạy rằng Bồ tát dù được Trời người cung kính cũng không mừng, chê không khổ, vì khen chê, vinh nhục của cuộc đời chẳng khác gì bọt nước nổi trôi, nhanh chóng vỡ tan. Riêng tôi càng gặp khó càng thích, lúc đó đường chúng ta đi thênh thang, chẳng ai dám tranh giành, chúng ta cũng dễ nhận ra người tốt, nhất là ta có điều kiện chứng tỏ tấm lòng mình với Phật.
Hành giả một lòng giữ tâm an nhiên tiến tu, không sợ, không phải liều mạng, nhưng tâm hoàn toàn bình ổn vì đã được Phật thọ ký, che chở. Lúc ấy, chỉ còn duy nhất tâm niệm vì Vô thượng Bồ đề, không còn thứ gì có thể làm vẩn đục tâm hành giả. Được như vậy là biết Phật đã lấy y trùm cho, cứ thanh thản mà vững bước trên lộ trình Bồ tát đạo.
Thông thường chúng ta lầm tưởng chỉ có người giảng kinh mới là pháp sư. Theo kinh Pháp Hoa có 5 loại pháp sư : thọ trì, đọc, tụng, giảng nói, biên chép pháp sư. Phần nhiều chúng ta nghĩ rằng làm pháp sư thuyết giảng mới khó, việc của bốn pháp sư còn lại, ai làm cũng được.
Tuy nhiên, theo tinh thần Bổn môn, thọ trì là chánh hạnh, 4 việc : đọc, tụng, giảng nói, biên chép là trợ hạnh, tạo điều kiện giúp hành giả phát huy chánh hạnh.
Thọ là nhận lãnh yếu chỉ của Phật và trì là giữ gìn, ví dụ Di Lặc Bồ tát được Như Lai trao pháp ấn. Ngài nhận và thay thế Như Lai giữ gìn pháp ấn tồn tại trên cuộc đời. Như vậy, Di Lặc thực sự thể hiện đầy đủ tư cách pháp sư Pháp Hoa.
Trên bước đường tiến tu đến cứu cánh toàn giác, chúng ta chưa thể thực hiện pháp thọ trì, chưa phải là người thay thế Phật, nên cần thực tập 4 trợ hạnh. Trước nhất, phải đọc tụng lời của Phật, tìm hiểu bí yếu mà Ngài muốn dạy. Căn cứ vào ý Phật, từng bước chúng ta ứng dụng trong cuộc sống để tìm thấy Như Lai và nhận pháp bí yếu nghĩa là thọ. Nhận được rồi, chúng ta phải cố gắng giữ gìn, tức trì.
Pháp Phật có công năng đoạn trừ phiền não cho chúng ta, ví như thuốc để diệt vi trùng ; vì vậy, trì pháp là vấn đề quan trọng. Nhưng thực tế tu hành, chúng ta thường phạm sai lầm, chỉ thọ pháp mà không trì pháp. Ví dụ như nghe giảng pháp, nhận được pháp Phật, nhưng nghe xong, chúng ta không nhớ gì cả hay không sửa đổi tâm tánh, nghiệp ác của thân, khẩu, ý còn nguyên như lúc chưa tu.
Hoặc chúng ta tụng kinh cũng nhằm dẹp bỏ phiền não, không phải đọc tụng để trả bài cho Phật. Riêng tôi, thường tụng kinh cho chính tôi nghe. Phiền não nổi dậy, tôi tụng kinh, chỗ nào có phiền muộn, tôi tụng kinh. Áp dụng đúng pháp trì kinh để phá tan phiền não, sẽ có ngay kết quả tốt đẹp. Thật vậy, trước khi đi hoằng hóa, tôi đều trì kinh, tức đem kinh đặt vào lòng. Nhờ siêng năng mang pháp Phật vào lòng, khi bước vào đời, gặp việc đáng nổi giận, tôi liền nhớ lại lời kinh vừa tụng còn trong tim óc, nên pháp này diệt ngay được tham sân phiền não.
Điều chính yếu của việc tu hành là sử dụng được pháp để dập tắt ngay phiền não, ở hoàn cảnh phiền muộn, chúng ta không buồn phiền. Vi trùng phiền não đã bị thuốc Pháp thủ tiêu, thì hoàn cảnh bên ngoài cũng tự đổi khác; tất cả đều phát xuất từ tâm chúng ta.
Trái lại, đối trước một người sắp làm chúng ta điên đảo, nhưng ta lại quên trì kinh, để điên đảo nổi dậy. Lúc ấy, phiền não của ta và điên đảo của họ tác động lẫn nhau, làm cả hai không dằn được, từ từ lửa sân lên đến độ cao, chẳng còn biết phải trái là gì, dẫn đến mọi việc tội lỗi.
Hành giả Pháp Hoa không như vậy. Người nói móc một câu, ta phản ứng bằng cách tụng một loạt danh hiệu Phật. Từ miệng, từ tâm, từ ánh mắt chúng ta lưu xuất toàn hồng danh Phật, khiến họ không còn thấy thân nghiệp của ta, chỉ thấy thánh thiện cao quý của Phật, họ không thể tiếp tục lăng mạ chúng ta. Thiết nghĩ một người thực sự nhịn được từ ngoài mặt đến trong lòng, không ai có thể sân hận với họ.
Ngoài việc đọc tụng, chúng ta ghi chép lời Phật dạy và giảng thuyết, tức áp dụng trong cuộc sống; nói cho người nghe và xem phản ứng của họ, nhờ đó hiểu được cuộc đời. Thực hiện trọn vẹn 4 trợ hạnh, chúng ta mới là người trì kinh Pháp Hoa và trì được mới là pháp sư Pháp Hoa, trong mọi tình huống đều ứng xử tốt đẹp.
Muốn biết chúng ta có tư cách là pháp sư hay không, cần xét xem đã hội đủ ba điều kiện : nhà Như Lai (tâm từ bi), áo Như Lai (hạnh nhu hòa), tòa Như Lai (trí Bát nhã) hay chưa. Đó là vấn đề quan trọng thứ ba mà phẩm này đặt ra.
Tu theo chiều thuận thì vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai. Nhưng với Bổn môn, hành giả đảo ngược lại quy trình này, phải thăng tòa Như Lai trước.
Tòa Như Lai hay trí Bát nhã quan trọng nhất, vì không có trí tuệ, việc làm dễ trở thành tội lỗi. Không có trí tuệ thì thương người, nhịn người, không ích lợi gì, còn tác hại cho ta và người.
Vì vậy, hành giả Bổn môn lấy Bát nhã làm chính, phải rèn luyện hiểu biết vượt trội. Kinh Bát Nhã đặt trí tuệ làm cứu cánh và trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử cầu đạo không mệt mỏi để đạt cho được trí tuệ ba la mật.
Trước tiên, hành giả phải trụ tòa Như Lai hay Không tòa. Nhứt thiết pháp Không của Bát nhã và Hoa Nghiêm không phải là không có gì, nhưng trong không này sanh ra trí.
Trụ ở Không tòa, sanh ra trí, thấy được thật tướng các pháp và theo đó mà hành xử. Người đời dùng thủ đoạn, khôn dại của thế gian đối xử với ta, ta đáp lại bằng trí Bát nhã, chắc chắn giặc đến Bồ đề phải tan.
Thật vậy, hành giả trụ Bát nhã, biết trước việc ở dạng thật tướng, nghĩa là biết nguyên nhân của nó, nên đoạn trừ nhân. Đối với việc đang xảy ra, hành giả biết trước diễn tiến và kết quả, như vậy không thể nào bị vướng mắc vào lưới nhân quả ấy.
Với trí Bát nhã, hành giả thấy chính xác trong hiện tại và tương lai, điển hình như Ngài Trí Giả nhập định thấy vùng núi rừng sình lầy ở Ngọc Tuyền biến thành ngôi đại già lam. Và thực tế không bao lâu, Tùy Dạng Đế lên ngôi phát tâm xây chùa ở đó. Đó là cái thấy của người tu Pháp Hoa do nhãn căn thanh tịnh hay Phật huệ rọi sáng.
Vì tầm quan trọng thiết yếu của trí Bát nhã, hành giả cố gắng học trong cuộc đời, trong Phật pháp, trong Thiền định và học với mười phương Như Lai để nâng hiểu biết ngang tầm với cuộc đời hay trên cả cuộc đời. Nghĩa là trải qua quá trình tu hành, đừng để mất trí Bát nhã, phải ngăn chặn phiền não nhiễm ô, giữ tâm thanh tịnh để phát huy trí tuệ. Từ trí tuệ của hàng nhị thừa tiến đến trí Bồ tát Đẳng giác và đạt đỉnh cao là vô sư trí hay huệ Như Lai, hành giả mới đủ tư cách trì Pháp Hoa, là pháp sư tuyên giảng pháp tối thượng thừa.
Khi đạt được trí tuệ vô thượng, biết rõ tất cả diễn tiến của mọi việc trong ba đời và để giữ cho tâm thanh tịnh, hành giả phải khoác lên chiếc áo Như Lai. Áo Như Lai là hạnh nhu hòa, nhẫn nhục.
Dù thiên hạ đối xử thế nào, chúng ta cũng phải trụ tâm và tùy theo hoàn cảnh đó mà sống. Ví như có sức mạnh nào đó đẩy chúng ta, phải biết khôn nương theo sức mạnh đó để chúng ta bay lên, không phải gồng mình chịu chết. Thực tế có người chống phá, chúng ta cần trụ tâm bình thản, không giận, không khổ và nương vào đó để phát huy tánh tốt, việc tốt của mình. Hòa thượng Thiện Hoa thường nhắc nhở rằng nhờ có người xấu, chúng ta mới có cơ hội làm tốt. Trong tiền kiếp, Đức Phật là vua tu hạnh bố thí cúng dường, Ngài đã bị Trường Thọ tiên nhân là tiền thân của Đề Bà Đạt Đa hành hạ đủ điều, cỡi trên lưng nhưng vua không hề khởi ý niệm sân hận.


Phật dạy Bồ tát đến với chúng sanh, đừng lấy lập trường riêng mà áp đặt họ ; phải đặt mình vào hoàn cảnh họ để hiểu, cảm thông với họ và hòa với họ. Muốn Phật hộ niệm, chẳng những không được xung đột với bất cứ người nào, mà còn phải hòa. Bồ tát lấy nhu thắng cương để vô hiệu hóa sức chống đối của ma, dùng nhu hòa để che chở Pháp thân, thể hiện nhu hòa của người đạt trí Bát nhã.
Thật vậy, áo giáp nhẫn nhục của người truyền bá Pháp Hoa có công năng chống lại tất cả mũi tên độc bắn phá. Nói cách khác, đạo đức của người muốn tuyên dương chân lý phải đạt đến mức độ nào mà người không hại được, nhịn tất cả nhưng không ai dám đụng đến; khác với nhịn của người vô trí thường bị chà đạp cho người hưởng lợi.
Cuộc đời hành đạo của Đức Phật đã tỏa sáng đức nhẫn. Ngài không dùng thế lực lấn át người, không tranh giành bất cứ thứ gì với đời, nhưng người người quy phục, vua chúa phải kính nể. Bước theo dấu chân Phật và muốn thân cận Bồ tát, tất yếu chúng ta phải lập hạnh như vậy, người đánh hay nói xấu, ta không đánh trả, nói xấu lại.
Sau cùng, hành giả vào nhà Như Lai là thể hiện tâm từ bi. Bồ tát hiện hữu trên cuộc đời chỉ có mục đích duy nhất là thương người, cứu người. Bồ tát thương chúng sanh như mẹ thương con, sẵn sàng chịu đựng những bướng bỉnh của họ. Mặc dù có thừa khả năng chống trả những tác hại của người, nhưng Bồ tát luôn xử trí bằng tâm từ bi.
Tâm từ bi phát xuất từ trí Bát nhã, từ chơn tâm, khác với thương người theo kiểu thế gian, khi thương thì cho ăn, nhưng nổi giận muốn đòi lại. Bồ tát có trí Bát nhã không thương ghét theo tình cảm phiền não của người đời. Bồ tát sử dụng lòng từ bi để cảm hóa người ác, khiến họ hướng thiện, để giúp người có ý chí cầu tiến tự phấn đấu vươn lên, không giúp để người gục mặt, xin ăn suốt đời.
Đầy đủ ba pháp ấn : nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai, mới là người trì Pháp Hoa, có khả năng tuyên thuyết Pháp Hoa, người nghe phải tin hiểu, không chống trái và thọ trì có kết quả tốt.
Người thành tựu ba pháp quan trọng này thì ở bất cứ nơi nào, Phật cũng khiến Trời người đến nghe pháp cúng dường. Hạng người có nhiều phước báo ở thế gian và giữ được thập thiện nghiệp tiêu biểu cho chư Thiên, họ mang của báu đến cúng dường để hành giả làm đạo, truyền bá Phật pháp. Và những người thuộc thành phần tốt gìn giữ 5 giới cấm cũng đến nghe pháp hộ đạo.
Nếu có người đến hại, Phật khiến Kim cang bát bộ thiện thần che chở pháp sư, không ai hại được. Lịch sử cũng ghi rõ cuộc đời hành đạo của nhiều vị Tổ sư đã thể hiện điều này. Ngài Huệ Tư giảng kinh Pháp Hoa bị thuốc độc 3 lần vẫn không sao, hay Nhật Liên Thánh nhân bị chém, cây kiếm tự nhiên gãy, khiến cho triều đình hoảng sợ không dám hành quyết.
Nếu trụ chánh định, không thuyết pháp, trở về sống nội tâm thì thấy Phật, nghe pháp âm Phật. Hành giả làm đạo trên cuộc đời vì không tham muốn điều gì nên tâm luôn bình ổn thanh tịnh, nhờ đó hành giả và Phật luôn liên hệ với nhau. Tôi tâm đắc ý này. Khi gặp phiền toái, tôi thường tâm niệm không cần ai biết, chỉ cần Phật biết là đủ. Để mất mối liên hệ giữa ta và Phật là ta đọa. Chúng ta là gạch nối giữa Phật và chúng sanh, ta chìa tay cứu vớt, nhưng không cứu được thì phải rút tay lại để sống. Không gặp thuận duyên làm đạo, nên ẩn nhẫn tu hành để tạo cho tâm thanh tịnh mới liên hệ với Phật được và tăng trưởng Phật huệ của mình.
Ai có duyên gần gũi, nghe pháp sư như vậy thuyết pháp, tâm cũng sẽ được thanh tịnh, trí sáng lần và cũng thấy hằng sa vô số chư Phật, mau đến Vô thượng Bồ đề.

III - Ý NGHĨA PHẨM BỒ TÁT TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT THỨ 15

Sau khi thành tựu tam pháp ấn : nhà Như Lai, áo Như Lai, tòa Như Lai mà Đức Phật dạy trong phẩm Pháp sư thứ 10, chúng ta được Bát bộ chúng bảo vệ và các hóa Bồ tát đến trợ duyên tu, đạt được trạng thái tâm yên tĩnh ở độ cao. Từ đó, thấy được bổn Phật, mà phẩm 11 diễn tả là thấy tháp Đa Bảo xuất hiện. Thấy tháp, mở được cửa tháp và vào sống trong tháp. Nghĩa là thấy đạo, ngộ đạo, thành Phật, mới có được pháp chân thật, các giai đoạn tu trước chỉ là pháp phương tiện. Đối trước Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, các Bồ tát phát nguyện thọ trì kinh Pháp Hoa ở cõi Ta bà. Trước tâm nguyện đó, Đức Phật đưa ra bốn pháp an lạc mà người muốn tu Pháp Hoa cần phải tuân thủ.
Người tu lấy an lạc làm chính, vì pháp Phật nhiều, nhưng chỉ có một vị giải thoát. Trước tiên, chúng ta phải thực hiện cho được thân an lạc. Cắt bỏ phiền não mà gốc của nó là lòng tham, ta sẽ an lạc ngay tức khắc. Vì vậy, bỏ tục xuất gia, tức bỏ vật chất, không còn ham muốn những gì người đời ham, nên được giải thoát. Đây là mẫu tu của Thanh văn, muốn giải thoát ở Ta bà không còn cách nào hơn là vào chùa tu, không nhìn, không nghe, không nói việc của người.
Riêng tôi, ít nhất cũng thực hành pháp này trải qua 8 năm, từ lúc vô tu ở Ấn Quang đến năm 1963. Tôi ít giao thiệp, kết thân với ai, thường ở trong phòng, không để ý đến việc của người xung quanh. Họ coi mình như không có, bất tài vô tướng, nhờ vậy tôi rảnh rang học và tu, đem kinh sách vào lòng. Ngoài ra, tự biết thân phận mình, nên tình nguyện quét rửa nhà cầu, không ai tranh giành những việc ấy. Nhờ ẩn tu được an thân, chúng ta mới phát triển đạo nghiệp.
Trong khoảng thời gian dài, thọ trì chánh pháp, nuôi lớn giới thân huệ mạng, nên tâm sáng ra, tánh tình dễ thương. Nhưng đạt được thành quả này, cần phải cẩn trọng hơn. Phật dạy Bồ tát tu Pháp Hoa nên thể hiện pháp nội bí ngoại hiện, nghĩa là ta phát triển khả năng cho thật giỏi, mà bên ngoài hiện tướng bình thường, không để lộ ra tài giỏi của mình, để tránh khỏi bị dập chết từ trong trứng nước. Ẩn nhẫn tu hành giữ cho thân, khẩu, ý an lạc, đến khi phát huệ, thấy được việc cần làm, chỗ cần đến, lúc nào nên độ người, chắc chắn sẽ thành công.
Các Bồ tát mười phương phát nguyện hoằng truyền kinh Pháp Hoa ở Ta bà, sau khi Như Lai diệt độ, Đức Phật từ chối. Ngài cho biết việc tuyên dương chánh pháp ở Ta bà đã có Bồ tát bổn địa là Bồ tát Tùng địa dũng xuất thừa sức đảm đương. Chỉ có kinh Pháp Hoa mới nói đến Bồ tát Tùng địa dũng xuất và Phật phú chúc kinh này cho các Ngài. Trên tinh thần này, Bồ tát bổn địa quan trọng hơn, giữ vai trò chính yếu, Bồ tát mười phương chỉ trợ lực mà thôi.
Phật vừa dứt lời, có đến 6 vạn hằng hà sa Bồ tát xuất hiện. Các vị này sẽ thành Phật ; nói cách khác, ở Ta bà có điều kiện tu hành thành Phật hơn các thế giới khác. Thanh văn rất ngạc nhiên, vì từ trước, Phật thường ca ngợi Phật và Bồ tát ở thế giới khác và nơi đó cũng dễ tu, dễ thành Phật hơn. Nhưng chỉ có hội Pháp Hoa, Phật ngợi khen Bồ tát ở Ta bà, nơi có nhiều tệ ác. Điều này nhằm gợi ý giúp chúng ta thoát ly tánh đối lập ở trong vòng tương đối của thế giới nhị nguyên : tốt xấu, giỏi dở, ô uế, thanh tịnh. Thí dụ như A Xà Thế phạm tội ác nhất, nhưng cũng phát tâm cao nhất, hộ đạo mạnh nhất. Sống trong hoàn cảnh ác, chúng ta mới phát hiện được cái nào là phiền não nghiệp để xóa. Nếu ở thế giới an vui, chúng ta tưởng phiền não không còn, mà kỳ thật nó tiềm ẩn bên trong không mất.
Sống với người tốt, phiền não khó có cơ hội bộc phát. Trái lại, sống với người ngang bướng nhiều, nên nghe chướng tai, thấy gai mắt, thì tự biết tôi còn hai cái xấu là chướng tai, gai mắt. Tưởng mình không biết giận, biết buồn, nhưng nay có người làm mình giận, buồn, phải sợ mà lo khắc phục sai trái ấy. Nếu thực tốt, ở trong hoàn cảnh đáng buồn, nhưng không buồn, đó là con đường đi lên cõi Thánh.
Ở Ta bà ngũ trược, đủ thứ phiền não quấy rầy, chỉ riêng đòi hỏi của thân ngũ ấm cũng đủ mệt, làm sao lòng không phiền theo. Lòng hay tâm Bồ đề của chúng ta ở ngay trong thế gian này mà không bị hoàn cảnh sống, phiền não chi phối, mới thành Phật. Kinh Pháp Hoa diễn tả rằng trong Ta bà, trong lòng đất có vô số Bồ tát Tùng địa dũng xuất, trong khi các kinh khác gọi là hạt châu hay Phật tánh.
Theo văn tự kinh, các Bồ tát này từ trong lòng đất hiện ta. Hiểu theo Tâm địa quán, Phật ví tâm như đất, cỏ dại hay hoa màu đều từ đất mọc lên ; cũng vậy, tốt lành, xấu ác đều từ tâm sanh ta. Trong tâm chúng ta có Bồ tát, Phật hiện ra, nếu chỉ nhìn xác thân sẽ chẳng thấy Phật; kinh ghi là Di Lặc không hề biết mặt một vị Bồ tát cựu trụ nào. Nói cho dễ hiểu, khi A Xà Thế chưa phát tâm cúng dường Phật, mọi người vẫn nghĩ ông phá Phật. Nhưng đến khi tâm ông rúng nứt, vị Phật trong tâm A Xà Thế xuất hiện, biến con người cực ác thành cực thiện, có công đối với đạo.
Vì vậy, điều quan trọng là đất rúng nứt để tâm Bồ đề phát ra, nên Phật khuyên Bồ tát mười phương đến Ta bà chỉ làm cho người thấy được cái tốt để họ phát tâm và tự tu, không thể tu thay. Trong kinh ghi, Phật vừa dứt lời, ba ngàn thế giới rung động biết bao tâm hồn nhân thế.
Ý này thể hiện rõ nét qua lịch sử của đạo Phật tồn tại hơn 25 thế kỷ. Từ Phật Niết bàn đến nay, tiếp nối việc làm của Đức Phật, vô số Bồ tát ra đời cứu nhân độ thế. Ở thời tượng pháp, tiêu biểu có Trí Giả Đại sư phát huy tinh thần Pháp Hoa, được tôn kính như Tiểu Thích Ca tái sanh ở Trung Quốc. Đến thời mạt pháp, Nhật Liên Thánh nhân xuất hiện canh tân Phật giáo, được xưng tán là Thượng Hạnh Bồ tát. Thời kỳ nào cũng có người tương ưng giữ gìn mạng mạch Phật pháp.
Các Bồ tát này thân màu hoàng kim, đủ các tướng tốt, đạo hạnh viên mãn, nghĩa là không còn lỗi lầm, giới đức thuần trong sạch, đáp ứng được mọi yêu cầu của chúng sanh, mới có khả năng hoằng truyền chánh pháp ở thế giới đầy ác trược . Đức Phật đưa ra mẫu Bồ tát Tùng địa dũng xuất để nhắc nhở chúng ta muốn tu hành, giáo hóa chúng sanh cần phải theo mô hình hành đạo ấy.
Sáu vạn hằng hà sa Bồ tát đặt dưới sự lãnh đạo của bốn vị Bồ tát thượng thủ : Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh. Thượng Hạnh Bồ tát tiêu biểu cho người làm được những việc khó làm nhất. Ý này gợi nhắc chúng ta thực có tài thì lúc khó khăn phải gánh vác; hoàn cảnh dễ, hưởng lợi để dành cho kẻ thấp chí bạc tài. Quan trọng là chúng ta cần rèn khả năng giỏi thật sự và nằm trong lòng đất, tức chuẩn bị thật đầy đủ để khi khó dang tay nhận lãnh.
Vô Biên Hạnh Bồ tát chỉ cho khả năng đa dạng, làm được nhiều việc. Từ việc lớn đến việc nhỏ, không từ nan, đều hoàn tất, mới là mẫu người hữu ích cho đời. Bồ tát Tịnh Hạnh hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh, tác động cho người kính phục, phát tâm, mới có khả năng lãnh đạo chúng. Theo Bồ tát Tịnh Hạnh, chúng ta tự quán sát bản thân để tu sửa không còn lỗi lầm hoặc lắng nghe người phê phán mà sửa đổi. Cuối cùng là An Lập Hạnh Bồ tát hay mẫu người sống không đua đòi, bằng lòng với hoàn cảnh của mình để từ đó tiến tu đạo nghiệp. Không phải an phận để mặc cảm, buồn tủi, thoái chí, sanh ra các tánh ác.
Tóm lại, chúng ta phát tâm đi trên lộ trình Bổn môn Pháp Hoa ở Ta bà, muốn tìm Bồ tát Tùng địa dũng xuất hay tìm Đạo sư, tìm pháp lữ tu hành, chúng ta tìm người có nếp sống theo mô hình kiểu mẫu của 4 vị Bồ tát thượng thủ nói trên để nương theo tu tập. Mặt khác, nỗ lực rèn luyện tự thân, phát triển hạnh đức theo việc làm của Bồ tát Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập hạnh. Kết hợp lực gia trì của các Ngài với khả năng thực chứng của chúng ta, đó là Niết bàn tịnh lạc mở ra cho chúng ta an trú ngay trên cõi đời ác trược này.

IV - Ý NGHĨA PHẨM NHƯ LAI THỌ LƯỢNG THỨ 16

A – VĂN KINH

Bấy giờ Phật bảo đại chúng Bồ tát : Các ông phải tin lời nói chân thật của Đức Như Lai, các ông phải tin lời nói chân thật của Đức Như Lai. Đến lần thứ ba, Bồ tát Di Lặc đại diện chúng hội mà bạch Phật rằng chúng con đã tin lời Phật, chúng con đã tin lời Phật
Bấy giờ Như Lai thấy chư Bồ tát đã ba lần thỉnh mới bảo đại chúng : Các ông lóng nghe bí mật thần thông của Đức Như Lai, tất cả thế gian đều cho Đức Phật xuất thân họ Thích đến cội bồ đề gần thành Già Da mà thành Chánh giác. Nhưng thiệt từ Ta thành Phật đến nay trải qua vô lượng bô biên a tăng kỳ kiếp, thường ở Ta bà thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ thuyết pháp giáo hóa vô số chúng sanh, thọ mạng sai khác, tùy theo loại hình mà khai phương tiện chỉ bày thậm thâm vi diệu.
Nếu thấy chúng sanh ưa pháp Tiểu thừa, đức mỏng tội nặng, không thể thấy xa, Ta phải thị hiện thân hình giống nó, bỏ tục xuất gia, thành đạo thuyết pháp rồi nhập Niết bàn, để nó nhận được mạng người ngắn ngủi, vạn vật vô thường, sanh tâm nhàm chán, thâm nhập Phật đạo. Bởi Đức Như Lai thấy rõ thực tướng của mọi chúng sanh ở trong ba cõi không có sanh tử, nhưng vì vô minh vọng kiến ngăn che, nên sanh các tánh ham muốn khác nhau, tạo tội sai biệt, nên Đức Như Lai phải dùng các pháp đối trị như thế mới sanh căn lành. Nhưng thiệt từ Ta thành Phật đến nay trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nhờ kinh Pháp Hoa cảm thành thọ mạng, thâm nhập Pháp thân vĩnh hằng bất tử, nhưng dùng phương tiện nói sẽ diệt độ. Vì nếu Như Lai ở lâu trên đời thời người đức mỏng không trồng cội lành, ham ưa ngũ dục sanh tâm lười biếng, vì họ nghĩ rằng Đức Phật toàn năng luôn che chở họ, không cần khổ công tu Bồ tát pháp. Ví như có một ông thầy thuốc giỏi chữa được nhiều bịnh, lại có nhiều con. Khi có việc xa phải đi lâu ngày, các con ở nhà uống lầm thuốc độc làm mất bản tâm ; xa thấy cha về quỳ lạy, cầu xin thương xót cứu hộ. Nhìn thấy bịnh trạng, ông biết cách chữa, nhưng khi đưa thuốc thì không chịu uống. Ông bèn tự nghĩ những đứa con này muốn được khỏi bịnh, nhưng sợ thuốc đắng nên mới bảo chúng : Ta nay có việc lại phải đi xa, nếu con uống thuốc thì khỏi bịnh hoạn. Nói xong, ông liền bỏ đi, rồi lâu sau đó cho người về báo ông đã từ trần, các con nghe tin rất đỗi kinh hoàng, bèn lấy thuốc cũ đem ra sử dụng. Bấy giờ người cha hiện thân trở lại mà bảo các con : Cha thật thường còn, không bao giờ chết. Phật bảo đại chúng Ta cũng như vậy, thường trụ Ta bà nhưng dùng phương tiện nói sẽ diệt độ để cho mọi người không còn ỷ lại có Ta mà không chịu tu rồi đọa ác đạo.

B - GIẢI THÍCH

Trong kinh Pháp Hoa, ba phẩm Tùng địa dũng xuất, Như Lai thọ lượng và Phân biệt công đức, có liên quan mật thiết với nhau. Từ phẩm Tùng địa dũng xuất thứ 15, chúng ta bắt đầu bước vào thế giới siêu hình của tâm thức, của niềm tin. Ai không có độ cảm tâm như vậy, khó nhận được tính siêu thực mầu nhiệm của kinh Pháp Hoa, vì không thể dùng lý luận hiểu biết bình thường.
Phẩm 15 giới thiệu Bồ tát Tùng địa dũng xuất, chỉ cho chúng ta thấy đức tánh đặc biệt của con người, không xét qua thân vật chất bên ngoài và thấy Bồ tát bằng tâm, không phải bằng mắt. Tâm của chúng ta phát sanh lòng kính trọng vì nhận ra bốn đức tánh cao cả hàm chứa trong Bồ tát Tùng địa dũng xuất. Nói cách khác, qua hình ảnh bốn vị Bồ tát thượng thủ: Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh và An Lập Hạnh, gợi nhắc chúng ta bốn đức tánh cao quý, tiêu biểu cho vô số thánh thiện siêu việt của Đức Phật.
Từ bên ngoài thân tướng Phật trang nghiêm 32 hảo tướng, ẩn chứa bên trong trí tuệ vô lậu, chỉ đạo cho mọi lời nói, việc làm cao thượng, lợi lạc cho người. Trải qua vô lượng kiếp cho đến hiện đời, Đức Phật từng xả thân cứu giúp người, không một việc thiện nào Ngài từ khước. Dấn thân trên vạn nẻo đường đời, từ việc nhỏ như xỏ kim cho bà già đến giáo hóa các đại Bồ tát, tâm hồn Phật vẫn an nhiên, trong sạch, không vướng bận mảy trần, đến đâu Ngài cũng hòa đồng, tùy duyên giáo hóa.
Nhìn về Phật bằng niềm tin và căn lành, chúng ta nhận ra bốn đặc tánh siêu tuyệt nơi Ngài và từ bốn điều cao cả ấy phát triển thành vô lượng vô biên công đức, dùng đó cảm hóa người tốt đẹp theo, kinh diễn tả là xây dựng Phật quốc, thành tựu công đức trang nghiêm. Như vậy, công đức hình thành nhờ trí tuệ tuyệt vời chỉ đạo cho vô số việc làm thánh thiện. Tổng hợp trí tuệ và hành động thiện, kết tụ thành Báo thân Phật. Lấy Báo thân, hay thân phước đức, trí tuệ làm thân mạng Như Lai, thì ở đâu cũng biến thành cảnh giới an lạc, giải thoát.
Thật vậy, khi Đức Phật chưa đắc quả Vô thượng Bồ đề, Ngài tu chung với 5 anh em Kiều Trần Như, họ chẳng nghe Ngài. Nhưng thành đạo, Phật đến độ họ, chưa nói lời nào, mà đã cảm hóa được, từ xa trông thấy Ngài, họ đã phải sanh tâm cung kính. Đó là đặc thù của tính tôn giáo mà chúng ta phải rèn cho được, chỉ có đức hạnh mới có khả năng thuyết phục nhẹ nhàng như vậy.
Đức Phật mang thân tứ đại, với 32 tướng tốt, giáo hóa độ sanh, nhằm chỉ chúng ta Báo thân viên mãn, đầy đủ phước đức, trí tuệ của Ngài và thân đó soi rọi đến người nào, thì người đó là Phật. Trên bước đường tu, chúng ta dễ kiểm nghiệm ý này. Có một lúc nào đó, chúng ta tu, chẳng màng phú quý lợi danh, khi vào định, tâm lắng yên, nhận được Phật lực truyền đến, tự nhiên chúng ta có những hiểu biết vượt bậc và tánh tình trở nên cao thượng. Nhưng bất giác, vô minh, trần lao ham muốn nổi dậy, những gì tốt đẹp tan biến như mây khói. Như vậy, tự biết thánh thiện ấy không phải thực của ta, mà do Như Lai lực truyền cho, nên ta làm được việc bất khả tư nghì. Nhưng đánh mất lực Như Lai, ta chẳng khác gì bướm rụng cánh. Lúc nào Đức Phật cũng chiếu cố đến ta, vấn đề tùy ở ta tu hành như thế nào để tiếp thu và giữ được vĩnh viễn lực Như Lai.
Từ thấy Phật qua Sanh thân, tiến đến thấy cao quý của Phật đầy đủ phước đức, trí tuệ tức Báo thân viên mãn và sau cùng, nhận ra thường trú Pháp thân hay đức Phật vĩnh hằng, bất tử, là đỉnh cao nhất giới thiệu cho chúng ta Đức Phật thực.
Để chỉ Đức Phật thực, sống vĩnh viễn ấy, Ngài gọi Bồ tát Di Lặc, nhắc lại ba lần rằng : Các ông phải tin lời nói chân thật của Đức Như Lai. Nghĩa là Đức Phật nhấn mạnh đến con người thực, bất tử của Ngài là giới thân, huệ mạng hay đạo đức, tri thức. Ngài khuyên chúng ta nên tin và tu theo Phật thọ mạng không cùng tận, đừng chấp vào Phật sanh thân, hiện hữu có giới hạn 80 năm ở Ấn Độ.
Trên nền tảng ấy, chúng ta nương vào huyễn thân sanh diệt tu, nhưng phải chứng được thân bất tử. Chúng ta thường phạm sai lầm, chỉ lo bận rộn với cái hình thức, vật chất không cần thiết, nên con người thực bị ốm o, bệnh hoạn. Riêng tôi, tiến tu đạo nghiệp đến ngày nay nhờ chuyên nỗ lực phát triển giới thân huệ mạng của chính mình, không để tâm đến người bên ngoài. Săn sóc con người tâm linh lớn mạnh là điều chính yếu, một ngày chưa làm thêm được việc công đức, chưa phát hiện được một ý tưởng thánh thiện, chưa đạt được một sở đắc nào, tôi cảm thấy thiếu thốn, mất mát lớn.
Thân xác tứ đại tất yếu phải bịnh, chết, nhưng đánh mất phần tâm linh của chúng ta, quả là uổng công tu hành. Ngày nay, đa số bị vật chất chi phối, thân tâm vướng mắc bên ngoài nhiều quá, trí tánh trở nên mờ lần, ác nghiệp theo đó sanh ra, và kết quả sẽ rơi vào ba đường ác. Vì sáng suốt không còn, dẫn đến việc làm sai trái, tác hại, mất uy tín với người. Thực tế dễ thấy, khi chúng ta hiểu biết, phán đoán đúng đắn, người kính phục bao nhiêu, thì lúc không còn tài giỏi, họ xem thường bấy nhiêu. Không làm lợi ích gì, ắt cuộc đời sẽ coi nhẹ ta.
Ra công tu bồi phước đức, trí tuệ, thì sau khi bỏ thân giả tạm này, thân phước đức trí tuệ còn phát triển hơn nữa. Nói cho dễ hiểu, khi sống thì phước ít, chết rồi thì phước nhiều hơn. Cuộc đời của Đức Phật thể hiện rõ ý này. Lúc sanh tiền, Ngài giáo hóa dọc sông Hằng, được vua chúa và dân chúng vùng Ngũ hà quy y, kính ngưỡng. Nhưng Ngài vào Niết bàn, chẳng những không mất trên cuộc đời, mà người ta còn nghĩ đến Đức Phật nhiều hơn, đệ tử tôn thờ Ngài khắp năm châu, tự nguyện bước theo dấu chân Phật mỗi ngày một nhiều thêm. Tri thức, đạo đức của Đức Phật truyền đến ai, người đó cảm đức từ bi của Ngài mà làm việc giống như Ngài. Đó là cốt lõi của cuộc sống người tu, chúng ta cần phải học, thể nghiệm cho được trong cuộc sống của chính mình. Những bậc chân tu, thật học không nắm giữ của báu trong tay, nhưng phước đức trí tuệ các Ngài tỏa sáng, tô bồi thành con người cao quý trên cuộc đời.
Đức Phật nhắc nhở chúng ta cần hướng niềm tin vào Báo thân Phật, từ đó phát huy được Báo thân chúng ta, trang nghiêm phước đức, trí tuệ cho chính mình.
Di Lặc Bồ tát đại diện chúng hội đáp lời Phật 3 lần rằng họ đã tin lời Phật. Đối trước thâm tín của đại chúng đã nhiều đời từng theo Phật tu hành, Ngài mới nói sự thật bất tư nghì mà từ trước chưa hề đề cập. Nay, đến hội Pháp Hoa, đúng nhân duyên thuyết chân lý, Ngài cho biết Trời, Người, A tu la lầm tưởng Phật vừa xuất thân họ Thích, đến cội bồ đề, gần thành Già Da mà thành Chánh giác. Chúng ta phải rời bỏ hiểu biết nông cạn ấy để tiến sâu vào thế giới siêu hình, thấy được Đức Phật vĩnh hằng : "Từ Ta thành Phật đến nay trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, thường ở Ta bà thị hiện sanh thân trong nhiều quốc độ, thuyết pháp giáo hóa vô số chúng sanh, thọ mạng sai khác, tùy theo loại hình mà khai phương tiện, chỉ bày chân thật thậm thâm vi diệu...".
Nương với con người sanh diệt của Phật để tu, và phải vượt qua cái sống chết bình thường ấy, nhận ra con người vô tận vô cùng của Phật, sống với hằng hữu ấy. Nghĩa là, nhận chân được Phật thực và Phật tùy duyên giáo hóa khắp nơi, với nhiều danh xưng khác nhau. Phật không chết, Ngài chỉ vắng bóng ở Ta bà và ứng hiện giáo hóa ở thế giới khác.
Tóm lại, cốt lõi kinh Pháp Hoa chỉ cho chúng ta Pháp thân bất tử của Phật đã thành tựu từ vô lượng kiếp. Chúng ta bước theo dấu chân Ngài, thể nghiệm pháp bất tử, phát huy phước đức trí tuệ, thực chứng được chân linh hay pháp thân của chính mình. Sống dưới dạng chân linh vĩnh hằng, thì Phật hiện thân giáo hóa ở đâu, chúng ta cũng theo Ngài đến đó hành đạo, tuyên dương pháp mầu, chẳng khác gì thập đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca cách đây hơn 25 thế kỷ. Thiết nghĩ hoài vọng này của chúng ta cũng là hoài bão của Đức Phật vậy.

V - Ý NGHĨA PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC THỨ 17

A – VĂN KINH

Bấy giờ Đức Phật lại bảo Di Lặc Bồ tát khi Ngài diễn nói thọ mạng dài lâu của Đức Như Lai thì có vô số Bồ tát không thể tính đếm chứng được vô sanh pháp nhẫn hoặc văn trì đà la ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển được pháp luân bất thoái và phát đại tâm cầu vô thượng đạo.
Đức Phật vừa mới dứt lời thì trời mưa hoa cùng bột chiên đàn và các thiên y, bảo ngọc như ý, trân châu ma ni để cúng dường Phật và hàng tứ chúng. Đức Phật lại bảo Di Lặc Bồ tát, chúng sanh nào nghe thọ mạng dài lâu của Đức Như Lai mà sanh một niệm tín giải sẽ được công đức vô lượng vô biên, nhiều hơn công đức của người bố thí, trì giới, nhẫn nhục trong 80 muôn na do tha kiếp. Nếu hiểu ý nghĩa thọ lượng Như Lai thì có thể phát sanh Phật huệ nhứt thiết chủng trí, lại có thể thấy Thích Ca Như Lai ở Kỳ Xà Quật thuyết pháp giáo hóa chúng đại Bồ tát và thấy thế giới Thật báo của Lô Xá Na. Nếu thấy như thế thì không cần xây chùa tháp cúng dường mà chính người ấy đã đến đạo tràng, trong thân của họ có sẵn Đức Phật. Ông bảo Trời người phải nên cúng dường như cúng dường chư Phật.

B – GIẢI THÍCH

Mở đầu phẩm Phân biệt công đức, Đức Phật nói với Di Lặc Bồ tát rằng : "Khi Ngài diễn nói thọ mạng dài lâu của Đức Như Lai thì có vô số Bồ tát không thể tính đếm, chứng được vô sanh pháp nhẫn hoặc văn trì đà la ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển được pháp luân bất thoái và phát đại tâm cầu Vô thượng đạo".
Đoạn kinh trên cho biết công đức vô lượng của người thấy được và tin được thọ mạng dài lâu của Đức Phật ; nói cách khác, đó là thọ mạng của phước đức trí tuệ của Ngài. Nói đến phước báu của Phật, người đời thường dùng câu "Của vua thua của Phật" để chỉ những gì mà Đức Phật mang lại cho chúng ta không bao giờ cùng tận. Ngài vắng bóng trên cuộc đời hơn 2500 năm, nhưng kho vô tận của Ngài chẳng hề vơi cạn. Với tướng hảo và phước báu tràn đầy, khả năng siêu tuyệt, được người người kính mến, Ngài sử dụng những thiện quả ấy để cứu đời, giúp người, hoàn toàn vị tha, khiêm tốn, thể hiện đức hạnh ngời sáng thánh thiện. Trí tuệ của Đức Phật thì vô song, thấu suốt muôn sự từ quá khứ đến tận vị lai kiếp, mới có thể thọ ký cho người tiến bước tu tập trên đường giác ngộ.
Bồ tát nghe Đức Phật có phước đức trí tuệ thọ mạng lâu xa như vậy, soi rọi lại tâm mình, liền chứng vô sanh pháp nhẫn. Pháp này nói theo ngày nay là con người, thiên nhiên và hoàn cảnh xã hội không có khả năng tác động Bồ tát. Họ hoàn toàn tự tại, giải thoát giữa lòng thế gian lắm phiền toái, hình thành được Pháp thân Bồ tát. Từ đó, tu ở dạng Bổn môn hay sống với chân thật pháp, nên bình thản trước nhục mạ của chúng sanh và tự tại trước khắc nghiệt của thời tiết.
Riêng đối với chúng ta, trên bước đường tu tập, nếu bị người mắng nhiếc, ta trả đũa hay không nói lại, nhưng vẫn ấm ức trong lòng. Nay nghe được phước đức thọ mạng dài lâu của Đức Phật, biết được nhẫn nhịn tu hành sẽ tạo cho chúng ta công đức, chúng ta không bỏ lỡ cơ hội tốt cho sự nghiệp chóng thành đạo quả. Ý thức sâu sắc như vậy, tôi thường mong gặp nghịch duyên để được thể nghiệm lời Phật dạy, khắc phục những tồn đọng không tốt trong tâm mình.
Bồ tát đắc vô sanh nhẫn coi khó khăn nguy hiểm là môi trường tốt cho họ tu tạo công đức. Từ đó, đối mặt với cám dỗ, không sa ngã, không khởi tâm nao núng trước sự mua chuộc của phàm phu, đe dọa cũng chẳng thể làm sờn lòng Bồ tát. Chúng sanh phàm phu thì ngược lại, bình thường khoe khoang đủ thứ, đụng việc khó bỏ chạy, gặp danh lợi tối mắt, ập vào.
Thâm nhập vô sanh nhẫn, sống với pháp này, hữu tình lẫn vô tình chúng sanh chẳng thể chi phối Bồ tát, tâm hoàn toàn thanh thoát mới có khả năng tiếp nhận vô tận tạng của Đức Phật. Riêng chúng ta còn phàm phu, tuy bươn chải kiếm ăn cũng không đủ, nhưng chúng ta không quan tâm đến điều đó, chỉ một lòng thực tu, bước theo dấu chân Phật, chắc chắn Ngài sẽ gia bị, thì mọi thứ vẫn hiện hữu đầy đủ cho chúng ta. Trái lại, tự nghĩ thừa sức lo toan cho bản thân, thì Phật sẵn sàng để mặc ta tha hồ lăn lộn kiếm sống. Thật vậy, theo kinh nghiệm tu hành của riêng tôi, cảm nhận sâu sắc cuộc sống làm tôi cho Phật, chỉ làm theo Phật, mà tôi nhận được quá nhiều nơi Ngài. Những gì Phật cho thật vô tận, từ quá khứ dẫn đến hiện đời và mãi đến khi chúng ta đạt quả vị Vô thượng Đẳng giác. Thiết nghĩ, chúng ta trắng tay ở thế giới này, chẳng có gì đáng lo, chỉ sợ nhất chúng ta mù tối trên con đường trở về đất Phật. Chứng vô sanh nhẫn, sống ngoài ảnh hưởng của con người, mới có thể tiếp nhận gia trì lực của Đức Phật truyền đến và đủ tư cách là sứ giả Như Lai, thay thế Ngài đến với đời, mang an lạc cho người.
Ngoài pháp nhẫn, người nghe thọ mạng dài lâu của Phật còn được sức nhớ dai, nhanh lẹ, kinh gọi là văn trì Đà la ni. Pháp Phật dạy nhiều vô số trong các kinh sách, chúng ta đọc qua đều thu nhận đầy đủ, giữ lại trong tâm. Khi gặp việc, tự động lưu xuất pháp tương ưng, giúp chúng ta ứng xử đúng như pháp.
Họ cũng được nhạo thuyết biện tài, nghĩa là phát ra ngôn ngữ đầy tính thuyết phục, thu hút người nghe không biết chán, dù chỉ một câu, một chữ, triển khai nghĩa lý không cùng tận.
Đặc biệt họ có khả năng chuyển pháp luân bất thoái, nghĩa là ai theo tu với họ thì đều gắn bó lâu dài, mật thiết. Người chưa được pháp này mà hành đạo, pháp của họ rao giảng còn thoái chuyển nên ai theo họ một thời gian cũng chán nản, bỏ tu. Trái lại, khi tiếp cận được Báo thân Phật và nhận được pháp âm từ thọ mạng vĩnh hằng đó, chúng ta tự trang bị cho mình pháp bất thối, từ đó tác động cho người lực bất thoái chuyển, khiến họ càng nghe pháp, càng vui sống với đạo.
Ngoài Bồ tát thành tựu được bốn sở đắc trên, hạng người thứ hai thấp hơn, tuy chưa đạt đến chứng ngộ như vậy, mà chỉ có niềm tin nơi Phật không bao giờ hư vọng và tin mình cũng có khả năng ấy nếu tiến tu, người đó cũng được công đức vô lượng vô biên, nhiều hơn công đức của người bố thí, trì giới, nhẫn nhục trong 80 muôn na do tha kiếp. Tại sao khác nhau xa về công đức đến như vậy ? Tôi suy nghĩ ý này rất nhiều.
Theo tôi, tu bố thí, trì giới... trong 80 kiếp giống như cọ cây để lấy lửa, tức nhằm xóa nghiệp ác của chúng ta. Trong thời gian này, chúng ta cọ hoài vẫn không có lửa, tu trầy trật mà phiền não nghiệp vẫn bủa vây ta. Nhưng biết đánh một cái, có lửa liền, nghĩa là tâm bừng sáng rồi thì công phu rị mọ kia không cần nữa. Vì vậy, thực tế cho thấy có người tu suốt đời không được gì, người mới tu lại chứng đắc. Kinh Pháp Hoa muốn nhắc chúng ta nên đánh giá về kết quả hơn là chấp chặt vào công phu tu lâu.
Trên tinh thần ấy, tu một niệm, phát sanh Phật huệ, vẫn hơn là người tu 80 kiếp không có huệ. Vì từ một niệm tâm sanh, tiếp nhận Phật lực, Bồ tát lực, thâm nhập thế giới Thánh Hiền, vào kho báu trí tuệ của Phật, cuộc sống chúng ta tất phải trở nên siêu tuyệt, vượt xa những bình thường hữu hạn của thế gian, con đường tiến đến Nhất thiết chủng trí tất cũng dễ dàng. Trong khi người đọc tụng nhiều, chỉ đọc suông ngôn ngữ văn tự, tâm trí chẳng thể khai mở, thật uổng phí công phu tu tập.
Đối với hành giả Pháp Hoa, Phật huệ là mục tiêu phải đạt đến. Đó là hiểu biết vượt trên tất cả sở học của thế gian, không hạn hẹp như phiền não trí hay đi theo vết mòn của kinh nghiệm. Học và chấp theo kinh nghiệm dễ thất bại vì lịch sử chẳng bao giờ tái diễn giống nhau. Với Phật huệ Nhất thiết chủng trí, chúng ta biết đúng những gì xảy ra và giải quyết đúng theo : giáo, cơ, thời, quốc. Nghĩa là nhìn người bằng Phật huệ, chúng ta biết họ muốn gì, làm được gì thì giúp họ, nhất định thành công. Chúng ta sống hợp thời, không phải làm y hệt như con ong cái kiến. Hành đạo cũng phải thích hợp với nếp sống, nếp nghĩ của từng nơi khác nhau để tồn tại lợi ích. Tiến tu như thế nào để thông minh sáng suốt, cho đến biết rõ diễn biến sinh hoạt của tất cả loại hình chúng sanh.
Quá trình tu hành theo phẩm Phân biệt công đức dạy chúng ta tu từ một niệm tín giải, sanh ra công đức và thấy Phật, nghe Phật thuyết pháp ở Kỳ Xà Quật, chứng được Nhất thiết chủng trí. Kế tiếp, Phật dạy rằng người đạt sở đắc như vậy, không cần xây chùa tháp cúng dường vì chính trong thân họ có sẵn Đức Phật ; hàng Trời, Người phải nên cúng dường như cúng dường chư Phật.
Tóm lại, kinh Pháp Hoa dạy chúng ta hướng nội để chứng Nhất thiết chủng trí, khác với người tu hướng ngoại thường van xin nhờ vả, không tự phấn đấu cải thiện thân tâm. Đức Phật không xây dựng mẫu người ăn hại như vậy. Chư Phật, Bồ tát đã đạt cứu cánh giác ngộ, giải thoát. Các Ngài trải lòng từ giúp đỡ những ai mang chí hướng thượng, muốn đi cùng lộ trình với các Ngài, nhưng còn vướng mắc nhiều khó khăn. Vì vậy, trên bước đường tu, chúng ta tạm thời nhận trợ lực của Phật, Bồ tát, để tự phát triển bản thân, không phải nhờ cậy suốt đời. Nỗ lực tiến tu là điều chính yếu của chúng ta, là điều kiện cần thiết tất yếu để nối liền các Ngài với chúng ta và càng được gia trì lực của Hiền Thánh, chúng ta càng dễ thăng hoa trên đường đạo hạnh. Khi tu học thành đức, thành tài rồi, chúng ta truyền dạy sở đắc cho người, nâng đỡ người phát huy tri thức, đạo đức như chúng ta từng được giúp vậy. Đó là tâm huyết của Đức Phật gởi lại cho Tăng Ni Phật tử, thực hiện được điều cao quý ấy để ngọn đèn chánh pháp còn mãi ngời sáng trên hành tinh này.

VI - Ý NGHĨA PHẨM PHỔ MÔN THỨ 25

Trong phần cuối kinh Pháp Hoa có 5 vị đại Bồ tát : Dược Vương, Diệu Âm, Hoa Đức, Quan Âm, Phổ Hiền. Bổn môn Pháp Hoa kinh chọn 2 vị Bồ tát tiêu biểu là Quan Âm và Phổ Hiền. Tuy không nhắc đến các vị Bồ tát ấy, nhưng phải ngầm hiểu trước khi đạt đến khả năng siêu tuyệt của Bồ tát Quan Âm, hành giả phải thành tựu các pháp tu của Bồ tát Dược Vương, Diệu Âm, Hoa Đức.
Các vị đại Bồ tát đầy đủ phước đức trí tuệ, mới có khả năng cứu nhân độ thế. Về phần chúng ta tập sự tu Bồ tát đạo, còn đang rèn luyện đạo đức, tri thức, chưa đủ năng lực độ sanh như các Ngài, cần phải kết làm quyến thuộc với Bồ tát lớn, để nương công đức các Ngài mà phát triển tự thân.
Dược Vương Bồ tát chứng Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Đà la ni, tức hiểu rõ chúng sanh nghĩ gì, muốn gì, có khả năng nào, từ đó nâng đỡ họ phát triển tài đức dễ dàng. Thành tựu tam muội ấy, Dược Vương Bồ tát được xưng tán là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ tát, ai nhìn thấy cũng an vui, phát tâm và muốn mời thỉnh. Đức Phật lại đưa tiếp mô hình Diệu Âm Bồ tát đến Ta bà bằng tâm trong sạch, hoàn toàn vì người, tiêu biểu bằng 84.000 hoa sen báu, rồi lặng lẽ trở về thế giới Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí. Xuất hiện cho người phát tâm và ra đi để người khát ngưỡng tu hành, đó là cách hành đạo của Diệu Âm Bồ tát.
Trở về thế giới hiện thực, Đức Phật giới thiệu Bồ tát Quan Âm. Muốn hiểu và thấy Ngài, chúng ta phải nhìn thẳng vào xã hội. Quan Âm hiện hữu giữa lòng cuộc đời này, không cần tìm kiếm ở đâu khác.
Trong phẩm Phổ môn thứ 25, Đức Phật nói về công hạnh siêu tuyệt của Đức Quan Âm mà chỉ có Phật mới biết trọn vẹn. Quả đức ấy của Bồ tát Quan Âm phát xuất từ nhân địa tu hành Bát nhã, quán sát cùng tột thật tướng các pháp, thấy được ngũ uẩn dưới dạng không tưởng, kết hợp hai mặt vật chất và năng lượng một cách tự tại, gọi là Ma ha Bát nhã. Đó là trí tuệ bậc nhất, biết tất cả pháp không chướng ngại, nên Ngài còn có tôn xưng là Quán Tự Tại Bồ tát. Từ đại trí tuệ Bát nhã, phát đại từ bi tâm, trở về ngọn nguồn tâm thức, lưu xuất Đà la ni, tức mật ngữ hay thần chú đại bi. Tuy không hiểu mật ngữ, nhưng qua công phu hành trì, chúng ta nhận được linh nghiệm của thần chú Đại Bi.
Từ Bát nhã và tâm đại bi kết hợp thành hiện thân Quan Âm có khả năng độ sanh rộng tới mức : thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng, đồng một lúc một ngàn nơi cầu cứu, Ngài đều hiện thân cứu thoát đủ, không phải hiện hữu giới hạn một chỗ. Thu hẹp lại, Ngài giáo hóa dưới 32 dạng hay một thân mà hành đạo liên hệ với 32 dạng hình khác nhau. Tùy yêu cầu, Ngài xuất hiện từ thân Như Lai, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, nói chung là từ Thánh thân cho đến thân chư Thiên là Phạm Vương, Đế Thích. Ở trần thế, Ngài hiện Chuyển luân Thánh vương, tiểu vương thân, kế là thân tể quan, cư sĩ, trưởng giả, tức ba lớp người thuộc thượng tầng xã hội, nói theo ngày nay là lãnh đạo cao cấp như thủ tướng, bộ trưởng, người trí thức, người giàu có. Thậm chí hiện thân phụ nữ, trẻ con, quỷ thần v.v..., tổng cộng 33 thân (một thân chính và 32 ứng hiện thân).
Đức Phật cho biết không thể nào nói hết biến hóa thần thông của Bồ tát Quan Âm, vì thật ra Ngài là vị cổ Phật với tôn danh là Chánh Pháp Minh Như Lai, vì thương nhân gian mà thị hiện cứu độ chúng sanh. Vì vậy, trên tượng Quan Âm, thường có Đức Phật Thích Ca trên trán, thể hiện ý nghĩa dù hiện hữu chung sống với các loại hình, nhưng Phật huệ của Quan Âm vẫn không thay đổi.
Điều này gợi nhắc chúng ta khi hành đạo, hòa với người là tất yếu, nhưng đừng đánh mất vị Phật trong ta. Trên đường tu tạo công đức, chúng ta quét dọn, rửa cầu, trồng trọt..., nhưng xong việc rồi, không kể nữa. Không phải lao động để trở thành người lao động. Làm tất cả, mà ta vẫn là ta, dù hoàn cảnh khó khăn nào, chúng ta cũng dùng Phật huệ hóa giải, đừng để khó khăn nhận chìm.
Để giáo hóa người, Quan Âm hiện hình tương ưng thế gian, đồng cảnh ngộ với họ. Vì vậy, gặp người dữ hay cô hồn, Quan Âm không thể là người mẹ hiền lành. Ngài phải làm Tiêu Diện Đại sĩ, mắt xếch ngược, nhe nanh vuốt đáng sợ, sẵn sàng nuốt chửng cô hồn.
Trường hợp khác, Quan Âm hiện thân Thị Kính, một người đàn bà bất hạnh như bao người nữ khác ở thế gian. Tuy nhiên, không bao giờ oán hận, chỉ lo tu hành cho tiêu tan nghiệp ác và cuối cùng đắc đạo, Thiện Tài cũng bay theo. Quan Âm đã vẽ ra hướng đi cho những người nữ muốn chuyển khổ đau thành hạnh phúc và biết như pháp tu hành, thì tất cả hàm oan sẽ chắp cánh cho chúng ta thăng hoa.
Trường hợp khác, làm vua nước nhỏ (tiểu vương) phải đương đầu với nước lớn mạnh tham tàn, một khó khăn nhất của người lãnh đạo. Quan Âm cũng hiện thân loại hình này, khéo léo điều động nhỏ để thắng lớn. Thông thường, nước nhỏ phải sợ sệt, triều cống nước lớn mà chưa yên thân. Ở đây, đặc biệt tiểu vương chỉ nói đạo giải thoát, dạy chúng tu thiền mà giữ vững biên cương. Nói khác, làm cho đại chúng thanh tịnh, trí sáng suốt. Trí khôn và tâm định tĩnh không thể bị đánh cướp được, nhưng làm đối phương phải nể sợ. Thực tế cho thấy ý này, trong lịch sử nước ta còn ghi dấu công lao to lớn của vua Trần Thái Tôn, Trần Nhân Tôn, những vị vua nổi tiếng tu thiền, đã dẹp tan quân Mông Nguyên mạnh gấp trăm lần ta.
Có lúc Bồ tát hiện tể quan, cụ thể như Khuông Việt Thái sư, giúp vua điều hành việc nước tốt đẹp.
Đất nước bình yên, vua thoái vị hoặc giúp vua ổn định việc nước thì rũ áo từ quan, thể hiện tinh thần vị tha vô ngã hoàn toàn, nên sống trong cảnh phú quý lợi danh tột đỉnh mà chẳng hề sanh tâm tham đắm, vì thấu rõ danh lợi ràng buộc ta ở mãi trong sanh tử, chẳng bao giờ trở lại thế giới Phật được. Nhìn vào cách hành xử thánh thiện ấy mà biết được vua, quan này là Quan Âm Bồ tát hiện thân, còn vua quan của thế gian thì bám chặt địa vị, ưa thích hưởng thụ, cho đến cái chết kề bên vẫn không buông bỏ.
Riêng tôi, trên bước đường tu, đã từng gặp người rất ác, nhưng không giết, không đánh, không nhục mạ, mà lại dễ dàng tha mạng. Tôi cảm nghĩ Bồ tát Quan Âm đã tác động, khiến họ phải đối xử tốt với tôi. Nói chung, bất cứ ai có lòng tốt giúp đỡ tôi vượt qua hiểm nguy, hoạn nạn, tôi tin đó là lực gia bị của Quan Âm sai khiến họ đến cứu tôi.
Hoặc như cha tôi thoát chết cũng nhờ Quan Âm. Khi bị lính Pháp bắt, lấy búa đập lên đầu, ông liền niệm Quan Âm và nghe tiếng búa đập mà không có cảm giác đau. Sau đó, chúng nhốt ông vào khám, chờ sáng hôm sau đem bắn, nhưng đến khuya, tên lính này đi hành quân bị mìn nổ chết.
Trong kinh cũng ghi tác động mầu nhiệm của Quan Âm trong thất nạn, nhị cầu. Ai thọ nạn : nước cuốn trôi, lửa cháy, quỷ hại, bị đánh đập, sát hại, gông cùm xiềng xích, nạn cướp, hết lòng niệm Quan Âm, Ngài cứu. Theo tôi, điều này không đơn giản, không thể hiểu bình thường. Ở dạng vô hình, hiểu theo chiều sâu căn lành, chúng ta gieo trồng chỗ nào, sẽ được nơi đó cứu thoát bằng mọi cách. Tuy nhiên, không phải ai cũng được cứu, vì nghiệp lực của mọi người khác nhau, quan hệ của từng người đối với cuộc đời, đối với thế giới siêu hình không ai giống nhau. Tuy lòng từ của Bồ tát chan hòa tất cả, nhưng ta và Bồ tát có quan hệ tương ưng mới cứu được. Nghiệp thức ta liên hệ với tà ma quỷ thần, nó cũng xúi giục ta làm ác.
Khi chúng ta chí thành chánh niệm Quan Âm đến mức vô tâm, đạt đến siêu thức, ngang với hạnh nguyện của Ngài, mới nhận được lực gia bị kỳ diệu, làm thay đổi người ác thành người thiện, hoàn cảnh xấu trở thành tốt. Trái lại, vừa niệm vừa run, hoặc niệm trong hữu ý, còn suy nghĩ, hiểu biết được, không thể nào tiếp nhận gia trì lực của Quan Âm.
Tóm lại, bước theo hạnh nguyện của Bồ tát Quan Âm, chúng ta tùy duyên hành đạo, tùy yêu cầu từng nơi, từng lúc, mang an vui, lợi ích cho người mà tâm vẫn nhẹ nhàng, thanh tịnh. Đồng hạnh, đồng nguyện với Quan Âm như vậy, làm bạn lữ với các Bồ tát bất thối chuyển, ra vào tam giới tự tại. Ước nguyện ấy hằng ấp ủ trong tâm niệm của từng hành giả Pháp Hoa vậy.

VII - Ý NGHĨA PHẨM PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT THỨ 28

A – VĂN KINH

Bấy giờ Phổ Hiền Bồ tát dùng sức thần thông tự tại, oai đức vô song, cùng chúng Bồ tát, Bát bộ Thiên long vượt qua các cõi, đến Kỳ Xà Quật, ra mắt Thích Tôn và bạch Phật rằng sau Phật diệt độ phải làm thế nào để có kinh này, xin Đức Như Lai từ bi chỉ giáo.
Đức Phật liền bảo nếu ở đời sau muốn có kinh này, tất cả quý Thầy phải đủ bốn pháp : quyết lòng tu tập theo kinh Pháp Hoa phải biết nhìn xa như các Đức Phật, thấy đúng sự thật của tam thế gian, quyết trồng căn lành ở tâm niệm chúng, bảo vệ sự sống cho mọi hàm linh và phải chuyên tinh tu tập Thiền quán. Tâm được bừng sáng thì có Pháp Hoa, bốn biển là nhà, thân trùm pháp giới. Nếu được như thế, tức Phật hiện tiền, tứ chúng bình yên mà lên bờ giác.
Phổ Hiền thấu đạt tôn ý Như Lai, nhìn khắp trong ngoài, rồi mới phát nguyện. Nếu người tu thiện trì tụng Pháp Hoa mà gặp chúng ma thường đến nhiễu hại, con giữ chúng lại, làm ma phát tâm, hộ trì Diệu pháp. Nếu người chất phác có tánh ôn hòa, học kinh Pháp Hoa mà không hiểu nghĩa, nên ngồi suy nghĩ thường trú Pháp thân, con sẽ ân cần hiện hình dạy bảo, làm cho thấu đáo tôn chỉ của kinh, quán sát chúng sanh như là quyến thuộc. Nếu kẻ hạ liệt muốn trì kinh này mà không có Thầy tận tình chỉ giáo, đối trước Tam bảo phát nguyện trì kinh, nhờ Phật quang minh và Phổ Hiền lực, tu rất tích cực trong suốt ba tuần, được thấy Phổ Hiền ngồi trên bạch tượng, phước đức vô lượng, vô số hằng sa chư Thiên tán hoa cùng trỗi kỹ nhạc, tâm hồn thanh thoát, vượt khỏi thế gian, đến cõi Thiên đàng, ra mắt Di Lặc, được làm quyến thuộc Đâu Suất Đà thiên ; khi đã hết duyên Ta bà uế độ, sanh vào tịnh thổ của Phật mười phương. Tất cả trí nhân cần nên suy nghĩ, những gì đáng quý trên cõi thế gian, đến lúc mạng chung còn đem theo được, rồi nên tích cực đúng pháp tu hành, nhờ sức Phổ Hiền mà lên bờ giác.
Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi Phổ Hiền là bậc đại Tiên hộ trì Diệu pháp, làm cho an lạc khắp cả Trời người, giữ được kinh này thật là hy hữu. Như vậy đã đủ mười hạnh Phổ Hiền, đại chúng tinh chuyên thành tâm tu học. Người nào làm được những việc như trên thì thấy Thích Tôn cùng hàng tứ chúng kinh hành tinh tấn ở Linh Thứu sơn, cùng khắp mười phương không bao giờ dứt. Mặc dù Phật diệt trên cõi thế gian, Bồ tát đăng tràng thay Ngài giáo hóa, độ khắp Trời người, không thích việc đời, cơm ăn, chỗ nghỉ và cũng không bị tam độc làm phiền, tâm họ là Thiền, thân làm giống Phật, giảng pháp chân thật, khai thị nhất thừa, được Phật xoa đầu và trao y bát. Ngoại đạo kẻ ác muốn hại người này, tự chuốc họa tai đời đời không dứt, người khen pháp thật công đức không lường.
Bồ tát Phổ Hiền cũng nên nhắc nhở đại chúng phải nhớ theo đó tu hành, nếu đủ lòng thành thì được thấy Phật, thế giới chân thật, thường trú Pháp thân. Đại chúng ân cần thành tâm tín thọ, tất cả gồm có vô số hằng sa trăm ngàn muôn ức, những người trí thức đủ đạo Phổ Hiền, Hộ pháp long thiên đều được tam muội. Tất cả chúng hội đều rất vui mừng cùng với Phổ Hiền đầu thành đảnh lễ.

B - GIẢI THÍCH

Mở đầu phẩm, chúng ta thấy Phổ Hiền Bồ tát dùng sức thần thông tự tại, oai đức vô song, cùng chúng Bồ tát, Bát bộ Thiên long, vượt qua các cõi, đến Kỳ Xà Quật ra mắt Thích Tôn. Đó là hình ảnh Phổ Hiền của hội Pháp Hoa, đã thành tựu quả đức nên không còn gì có khả năng làm chướng ngại bước chân hành đạo của Ngài.
Bồ tát Phổ Hiền thay cho chúng ta hỏi Phật rằng sau khi Như Lai diệt độ, phải làm thế nào để có kinh Pháp Hoa, tức Phật tại thế thì có kinh Pháp Hoa, nhưng Phật nhập diệt, kinh này không còn. Câu hỏi của Phổ Hiền nhằm nhắc nhở chúng ta kinh là sức sống thực, không phải cuốn sách giấy trắng mực đen, thường được Phật ví như hình ảnh lá trong tay lìa khỏi sự sống. Trên tinh thần ấy, kinh Pháp Hoa tiêu biểu cho cuộc sống toàn thiện toàn mỹ, hay chính Đức Phật thể hiện trọn vẹn bộ kinh Pháp Hoa.
Thật vậy, cuộc đời của Ngài gồm đủ hai khía cạnh, bên trong hàm chứa trí tuệ siêu tuyệt (Diệu pháp), bên ngoài là mẫu người thánh thiện tột bậc, không lỗi lầm, ví như hoa sen không nhiễm bùn (Liên hoa). Như vậy, phải hiểu kinh Pháp Hoa tổng hợp phước đức và trí tuệ của Phật. Không lãnh hội ý này, tụng 28 phẩm suốt đời cũng như dã tràng xe cát.
Đức Phật hiện hữu, tức còn Pháp Hoa hay trí tuệ và đạo đức soi sáng cho đời. Nhưng Phật nhập diệt thì sao ?
Phật dạy, nếu ở đời sau, muốn có kinh Pháp Hoa hay thành Phật như Ngài, cần tu bốn pháp : phải biết nhìn xa như các Đức Phật, thấy đúng sự thật của tam thế gian, quyết trồng căn lành ở tâm niệm chúng, bảo vệ sự sống cho mọi hàm linh và phải chuyên tinh tu tập Thiền quán.
Phải biết nhìn xa như các Đức Phật, xa về thời gian lẫn không gian, thấu suốt pháp giới, không nên nhìn thiển cận, tức phải suy nghĩ đến 5, 10 năm sau cho đến trăm ngàn kiếp tới, chúng sanh và ta hành đạo như thế nào, đừng rơi vào cục bộ. Thực tế chúng ta thường thấy có người ham lợi trước mắt, nhưng không biết cái hại lâu dài, nên họ thành công chỉ một lần, để mười lần khác gãy đổ, hoặc chỉ hưởng trong một kiếp này, nhưng kiếp sau đọa địa ngục. Riêng tôi, từ thuở nhỏ, trên bước đường tu, thường nghĩ sẽ làm gì trong tương lai gần cho đến các kiếp sau nữa. Vì vậy, những gì hiện tại tôi dễ dàng vứt bỏ để suy tư cho việc kế tiếp tốt đẹp hơn. Trái lại, bám giữ cái nhỏ nhặt hiện tại sẽ làm hỏng tương lai tươi sáng của chúng ta.
Trở lại thực tế cuộc sống, chúng ta hành đạo phê phán đối tượng không qua bề ngoài, nhưng cần thấy rõ căn tánh hành nghiệp của họ, theo đó mà giải quyết. Giải được nghiệp, tức xét đoán vấn đề tận gốc rễ, chẳng còn gì tồn đọng khó khăn. Theo dấu chân Phật tu, chúng ta nhận rõ ý này. Tuy Ngài im lặng, không rầy mắng, nhưng thật sự đã nói thẳng vô nghiệp của chúng ta. Thiết nghĩ, thật sự tu hành, ai mà không nhói tim khi tự xét thân phận mình còn nhiều lỗi lầm sai trái, từ đó nỗ lực cải sửa thân tâm, thấy rõ ác nghiệp chúng ta giảm và công đức dần dần tăng trưởng.
Tu tạo cho đạt hiểu biết rộng xa và thấy đúng sự thật của tam thế gian, không phải nhìn theo biên kiến, tà kiến của chúng sanh. Tôi áp dụng ý này bằng cách quan sát sự kiện và dự đoán 10 năm nữa sẽ ra sao. Sau đó, theo dõi xem xét kết quả có đúng như chúng ta phỏng đoán hay không. Làm như vậy là tu tập kiểm tra nhận thức của chúng ta, cho đến khi hiểu biết về hiện tại và tương lai chính xác 100%, đạt đến quả vị Toàn giác.
Thấy đúng sự thật của tam thế gian, tức thấy ngũ ấm, quốc độ và chúng sanh. Nghĩa là Đức Phật thấy rõ, không hề sai lầm, chúng sanh trôi lăn trong sáu đường sanh tử, thấy cả thay đổi trong vũ trụ. Chẳng những biết diễn biến của chúng mà còn soi rọi bằng trí Bát nhã, thấu suốt nguyên nhân cấu tạo nên ngũ ấm, chúng sanh và quốc độ. Trái lại, thấy biết của chúng sanh còn quá hạn hẹp, dẫn đến nhiều hậu quả tệ hại mà trầm trọng nhất là phá hủy môi trường sống của mọi loài.
Trang bị thấy biết đúng đắn lâu dài rộng lớn như vậy để nhằm mục đích gieo trồng căn lành ở tâm niệm chúng. Cuộc đời hành đạo của Đức Phật thể hiện rõ pháp này, hoằng hóa độ sanh đến nơi nào, Ngài đều tạo cảm tình tốt đẹp, khơi dậy tâm Bồ đề cho họ. Vì vậy, đi theo lộ trình của Phật, tôi thường cân nhắc xem có thể làm gì giúp người thăng hoa đạo đức, phát triển khả năng, lưu lại trong lòng họ niềm hoan hỷ. Tôi sợ nhất làm mất lòng người, dù là trẻ con hay gà vịt, muỗi mòng. Đôi khi vì vô tình, chúng ta đã làm hại mạng sống của loài hạ đẳng, nên đời này gặp lại nhiều oan trái, chướng duyên. Để trồng căn lành nơi tâm chúng sanh, tôi thường sám hối những lỗi lầm vô tình đã tạo với các sinh vật hay người, làm sao để họ không oán giận. Và tiến xa hơn nữa, phải bảo vệ mạng sống cho mọi hàm linh. Đó là điều cần thiết, vì ý thức được rằng, chúng ta phải hiện hữu và phát triển trong mối tương quan, tương duyên cộng tồn của tất cả muôn loài. Trong quan hệ hỗ tương ấy, vòng rào tình thương che chở cho ta an toàn nhất.
Điều kiện cuối cùng nhưng quan trọng nhất là phải chuyên tu Thiền quán. Vì thành tựu ba pháp trên mà không có định tâm, không phát sanh trí tuệ vô lậu, tâm còn u mê với tam độc tham, sân, si cũng không có Pháp Hoa. Tâm bình ổn tức định, nhìn sự vật chính xác theo đúng thời điểm hiện tại là huệ, không phải y theo những gì của 2000 năm trước. Trên tinh thần ấy, các Thiền sư Việt Nam ứng dụng cốt lõi Pháp Hoa, nên tâm sáng của các Ngài, điển hình như Vạn Hạnh, Khuông Việt, đã giúp vua Đinh, vua Lý thay đổi được cục diện đất nước tốt đẹp. Hoặc vua Lý Thái Tông dạy Ỷ Lan nhất tâm thiền định để thay ông điều hành việc nước, thành công đến độ được người đời ca ngợi là Quan Âm.
Nếu đầy đủ bốn pháp trên thì có Pháp Hoa, bốn biển là nhà, thân trùm pháp giới. Không được như vậy, tất không có Pháp Hoa, tức không thành Phật.
Đối trước điều kiện quá khó, đại chúng ngơ ngác, muốn nhập diệt. Tiêu biểu như Xá Lợi Phất, trí tuệ bậc nhất trong hàng A la hán, nhập Niết bàn trước Phật một ngày vì chỉ kính nể Đức Phật, chỉ hành đạo được dưới sự dìu dắt của Ngài.
Nhìn thấy khó khăn ấy, Phổ Hiền Bồ tát liền phát nguyện sau Phật diệt độ, Ngài sẵn sàng gia bị cho hành giả đời sau tu để giữ pháp tồn tại trên thế gian. Nếu người hoằng dương chánh pháp, tất yếu phải gặp sức cản của ma : ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên ma, tử ma. Bốn loại ma này thường liên kiết nhiễu hại người tu. Nếu quyết tâm tu, Phổ Hiền sẽ giải quyết giúp chúng ta. Ngài chặn ma lại và dùng thần thông làm ma phát tâm, hộ trì chánh pháp.
Phổ Hiền phát nguyện như vậy, nhưng thực hiện được hay không lại là việc khác, vì thực tế, có người được Ngài giúp đỡ, ngăn ma lại, có người Ngài cứ để mặc cho ma phá. Riêng tôi, tu Phổ Hiền hạnh, đối với người chống phá, tôi không phản ứng, chỉ gia công tu hành, tin tưởng ở lực Phổ Hiền gia bị, kết quả người chống trở thành người ủng hộ.
Nếu hàng trung căn, không hiểu nghĩa lý kinh, Phổ Hiền dạy nên suy nghĩ thường trú Pháp thân. Theo tinh thần phẩm Như Lai thọ lượng, thường trú Pháp thân của Phật hiện hữu trong sanh thân của tất cả những người tu hành trên thế gian, nếu họ đi đúng lộ trình, minh tâm kiến tánh.
Ý thức sâu sắc Pháp thân Phật truyền thông cho ta, tâm chúng ta hoàn toàn đổi khác, quán sát chúng sanh như là quyến thuộc. Phát triển tình thương cho người, giúp người, nhưng thật sự chúng ta nhận được nhiều an vui, lợi lạc. Kinh nghiệm tu hành riêng tôi, ứng dụng lời Phổ Hiền dạy, tôi không có gì cho người, ngoài tình thương và tôi nhận được thành quả tốt đẹp cũng nhờ tình thương của đại chúng đáp lại.
Với người thấp kém, Phổ Hiền dạy trì kinh Pháp Hoa trong 21 ngày sẽ thấy Ngài, được tam muội, đến Trời Đâu Suất, ra mắt Di Lặc. Riêng tôi, chứng nghiệm pháp tu gia hạnh Phổ Hiền trong ba tuần, bao nhiêu phiền não trần lao tự tiêu tan, tâm hồn thanh thoát, thấy được diễn biến của cuộc đời chính xác hơn.
Tóm lại, khi hành giả nhận được lực Phổ Hiền gia bị, thấy được Thích Tôn và tứ chúng ở Linh Thứu sơn. Trở lại thực tế hành đạo, tâm hành giả yên tĩnh, trí sáng suốt, làm việc lợi ích cho người, theo tinh thần vị tha vô ngã. Công đức của hành giả thật vô cùng. Không mũi tên làn đạn nào có thể xuyên thủng đức hạnh và việc làm thánh thiện. Hiện hữu của hành giả Pháp Hoa tiêu biểu như vậy, xứng đáng cho Trời, Người cúng dường, đảnh lễ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567