Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thượng

21/05/201316:46(Xem: 9996)
Quyển thượng

Kinh Trung Bổn Khởi

Quyển thượng

Thích Chánh Lạc dịch

Nguồn: Cố Thượng Tọa Thích Chánh Lạc dịch

1.- PHẨM CHUYỂN PHÁP LUÂN .

Tôn giả A Nam nói:

Trước đây tôi từng theo hầu đức Phật, nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở dưới gốc cây Nguyện Kiết, đạo tràng Thiện Thắng, nước Ma Kiệt Đề, có oai đức hùng mạnh hàng phục các ma, giác huệ thần tịnh, tam đạt vô ngại, độ 2 người khách buôn, là Đề Vị và Ba Lợi, trao cho họ ba quy y, rồi truyền năm giới, làm Thanh–tín-sĩ . Bởi ngày xưa, có đức Phật đầu tiên tên là Định Quang, ta nhờ lễ bái danh hiệu đức Phật này, nên đức Phật ấy thọ ký rằng:

- Về sau, 91 kiếp nữa, người sẽ thành Phật tên là Thích Ca Văn, hiệu là Như Lai Chí Chơn, Đẳng Chánh Giác, Minh hạnh thành, Thiện Thệ Thế gian-giải, Vô thượng sĩ, Đạo pháp-ngự, Thiên-nhơn-sư, Phật, Chúng hựu, cứu độ người đời như ta hiện nay vậy. Từ ấy đến nay ta tu tập bổn tâm, tu lục độ đến chổ tột cùng, tích lủy công hạnh với pháp tu tứ đẳng (Từ, Bi, Hỷ, Xả) không mệt mỏi, vạn hạnh đặc thù, nhẫn khổ vô lượng, công đức báo ân không hề thiếu sót, nhờ phát khởi đại nguyện mà kết quả viên thành.

Đức Thế Tôn nghĩ rằng:

- Ta đã phát tâm thệ nguyện: Vì các quần sanh, Phạm Thiên Đế Thích đến thỉnh pháp, mà cam lồ mở ra, ai thích hợp được thì nghe trước.

Ngày xưa ta xuất gia, trên đường dẫn đến phạm chí, A Lan Ca Lan, Chờ lúc ta chứng ngộ, hai người sẽ được độ trước: Nhờ nghĩ vậy nên bây giờ ta muốn độ họ.

Chư Thiên vâng theo thánh chỉ, ở trên không trung thưa rằng:

- Hai vị ấy đã mất cách đây 7 ngày rồi

Đức Phật bảo:

- Khổ thay, này A Lan Ca Lan, cửa cam lồ đang mở, sao ngươi không được nghe.

Đức Phật lại nghĩ rằng:

- Cam lồ đang mở ra, kế đến, ai là người đáng nghe?

Uất Đầu Lam Phất là người đáng nghe tiếp theo, Ngài mới đứng dậy muốn đến đó, chư Thiên lại thưa rằng:

- Người này mới mạng chung vào chiều hôm qua.

Đức Phật nói:

- Người ấy mãi bị suy thối, cam lồ đang mở ra mà không được nghe, bị sanh tử qua lại, làm sao có thể chấm dứt sự luân chuyển trong 5 đường, đau khổ biết bao.

Đức Phật lại nghĩ rằng:

- Trống pháp cam lồ vang rền cả Tam thiên đại thiên thế giới, ai có thể nghe được? – Ngày trước phụ vương ta bảo 5 người: 1) Câu Lân. 2) Ái Bệ. 3)Bạt Đề. 4)Thập Lực Ca Diếp. 5) Ma Nam Câu Lợi. Cung cấp mè lúa cho ta, hầu hạ ta khổ sở, công ấy cần được báo đền.

Khi ấy 5 người này đều ở tại nước Ba La Nại. Bấy giờ đức Như Lai mới từ dưới gốc cây đứng dậy với tướng tốt oai nghiêm, hào quang chiếu diệu thế gian, oai thần chấn động, ai thấy cũng hoan hỷ. Ngài đi thẳng đến nước Ba La Nại, giữa đường Ngài gặp một Phạm chí tên là Ưu Hu, thấy đức Thế Tôn thần diệu, nên làm cho ông mừng sợ giao xen, đứng một bên đường cất tiếng khen ngợi:

- Ngài thật là người oai nghiêm linh cảm, nghi dung đỉnh đạc. Ngài thờ ai làm thầy mà được tư dung như vậy?

Đức Phật vì Ưu Hu nói bài tụng:

- Nhờ được tám chánh giác
Không ly không nhiễm ô
Hết thọ, phá lưới dục
Tự nhiên, không có thầy
Ta tu hành, không thầy
Quyết chí, không bạn lữ
Tích lũy đến thành Phật
Nhờ đó thông Thánh Đạo!

Ưu Hu hỏi đức Phật Cú Đàm:

- Ngài đi về đâu?

Đức Phật nói với Phạm Chí:

- Ta muốn đến nước Ba La Nại, đánh trống pháp cam lồ, chuyển pháp luân vô thượng mà các thánh nhân trong ba cõi chưa từng chuyển pháp luân, làm cho mọi người đều nhập Nê hoàn như ta hôm nay vậy .

Ưu Hu rất vui mừng nói:

- Lành thay, lành thay! Như lời Cù Đàm nói, xin Ngài mở cam lồ, như vậy mà thuyết pháp.

Bấy giờ đức Như Lai liền đến dưới gốc cây nơi vườn Nai chỗ của Cổ Tiê Nhân, nước Ba La Nại, Ngài đến chổ 5 người kia .

Năm người ấy từ xa trông thấy đức Phật đi đến, họ cùng nhau nghị luận rằng:

- Chúng ta cần khổ, xa lìa nhà cửa, leo núi vượt đèo cô cùng cực khổ, chính là vì để cung cấp mè lúa cho người này, song vị ấy không thể chịu nỗi, nhân vì bị ma chiến bại, cho nên mới mềm yếu trốn tránh như thế. Vì vậy nay vị ấy đến đây, một hạt mè, hạt lúa mà không chịu nổi, lại đi cầu ăn thì làm sao có thể thành đạo được? Chúng ta chỉ nên trải tòa ngồi ra đó, nhưng không quỳ, không hỏi han chi cả. Khi bị đối xử tệ như vây chắc chắn vị ấy phải tụ bỏ mà đi.

Bấy giờ đức Thế Tôn vì 5 người này hiện đạo thần hóa, làm cho họ hân hoan, sung sướng bất giác đứng dậy đảnh lễ, hầu hạ Ngài như trước, Đức Phật bảo 5 người ấy:

- Các ngươi cùng nhau bàn luận là không được đứng dậy, vì sao nay lại đảnh lễ?

Họ đều thưa rằng:

- Chúng tôi ngồi ở đây là vì Tất Đạt, nên phải trải qua các thứ cần khổ. Vua Duyệt Đầu Đàn bạo nghịch vô đạo là do Ngài đó.

Đức Phật bảo 5 người ấy:

- Các người đừng nên coi thường bậc Vô-thượng-chánh-chơn. Như Lai bình đẳng giác, là bậc Vô-thượng-chánh-giác, không nên có ý sanh tử đối với Ngài. Vì sao các ngươi lại lại đối với ta mà lại nói tên của cha ta?

Ngài lại bảo 5 người:

- Các ngươi hãy xem thân của ta có giống như lúc ở dưói gốc cây trước đây chăng?

Năm người kia đáp rằng:

- Lúc ấy Ngài tiều tụy, nay lại sáng lạng, Nhưng khi ấy Ngài ở dưới gốc cây, ngồi ngay thẳng mắt nhắm, ngày ăn một hạt mè, hạt lúa, mà còn gọi là chẳng phải đạo, huống chi nay Ngài vào nhân gian, thân, miệng muốn ăn muốn mặc gì tùy thích, sao gọi là đạo được?

Đức Phật bảo 5 người ấy:

- Thế gian có hai việc, làm cho bị xâm lấn khinh thường.

Những gì là hai? – Đó là sát sanh, dâm dật, dựa vào sự giàu có, tham dục; nghèo khó, lao khổ, bên trong không có đạo tích. Không có 2 việc này, chẳng phải là chơn đạo nhân sao? – Ta đối với 96 học thuật cũng không xả bỏ, hướng vào trung đạo không vướng vào hai cực đoan. Vì sao hướng vào trung đạo mà được giác huệ hạnh, đạt được các trí, ngộ lục thông đầy đủ 8 chánh hạnh?

- Đó gọi là hướng vào trung đạo, an trú ở Nê hoàn vậy .

Đức Phật nói pháp ấy, nhưng năm vị kia vẫn chưa hiểu, ba người đi khất thực, thì hai người ở nhà cúng dường. Đức Phật thuyết pháp cho hai người nghe:

- Sắc là khổ, tất cả các tai hoạn, đều do sắc dục mà ra, vạn vật đều vô thường, con người cũng không thường trụ. Giống như nhà huyễn thuật, ý muốn làm trò biến hóa, nhưng kẻ ngu thấy vậy thì ái luyến, tham đắm không nhàm chán. Nhưng nhà huyễn thuật quán biết sự huyễn hóa ấy, cho nên không nhiễm ô không đắm trước. Vì sao vậy? – Vì nó là giả chứ không phải chơn.

Đức Phật vì hai người ấy nói bài kệ:

- Tâm buông lung dục hạnh
Gốc tham dục thêm sâu
Tham đắm thêm oán, họa
Lìa dục không tai họan.

Ba người ở nhà cúng dường, hai người đi khất thực Ngài nói cho họ nghe:

- Tham là khổ, nó làm cho thích điều lợi, cầu vinh hoa người ngu mê đắm đuối, đưa đến sự tác hại và thất đức, đều do nơi tham: mừng giận, được mất, kẻ tham dục không nhàm chàn vì tư lợi nên có sự nguy khốn, sự vật như mây bay. Khi già bệnh chết đến, chẳnh có gì mà chẳng phân tán. Giống như người nằm mộng, thức dậy chẳng thấy gì cả. Người trí tuệ có thể bỏ tham mới được an ổn lớn.

Đức Phật vì ba người ấy nói bài kệ:

- Ý tham dục là mộng
Tâm không chán là mộng
Dứt tham, bỏ cầu lợi
Không còn ưu sầu nữa.

Bấy giờ đức Thế Tôn nhân thuyết pháp rộng rãi, theo thứ lớp, 5 người liền hiểu đạo, xin làm đệ tử.

Đức Phật bảo:

- Thiện lai tỳ kheo!

Họ đều thành sa môn. Đức Phật bảo:

- Này Tỳ kheo, có hai việc nếu làm phải rơi vào chỗ thấp kém. Một là nghĩ đến sắc dục, không có tâm thanh tịnh. Hai là do ái dục mà tham trước, không thể làm cho tâm ý thanh tịnh. Hai việc làm đó khiến con người rơi vào tà hạnh sanh ra không gặp Phật, chống trái lìa xa chơn đạo. Nếu ai có thể đoạn trừ tham, tinh tấn tu hành sáng suốt, người ấy có thể đắc đạo Nê Hoàn. Kẻ học đạo trước tiên phải biết Tứ Đế. Sao gọi là Tứ Đế?

- Đó là: 1) Khổ. 2) Tập. 3) Tận. 4) Nhập đạo. Như vậy, này Tỳ kheo, tiếp theo phải giữ giác huệ, một lòng nghĩ đến Thiền, nhận rõ sự báo ứng của đạo. Pháp nhãn đã sáng, liền hiểu bốn đế ấy, lần lần nhập vào dòng Dự Lưu.

Sao gọi là Khổ?

- Đó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, ưu bi não là khổ, ân ái xa lìa là khổ, oán thù gặp nhau là khổ, cầu mong không được là khổ. Tóm lại, từ năm ấm mà chấp thủ là khổ.

Sao gọi là Tập?

- Do ái trước tập hợp, nếu không có ái trước thì cũng không tập.

Sao gọi là Tận?

- Do Trí giác đoạn diệt ái, nên không ái, không niệm, mà được giác ngộ.

Sao gọi là Nhập đạo?

- Đó là Bát chánh đạo: 1) Chánh kiến. 2) Chánh lợi. 3) Chánh ngôn. 4) Chánh hành. 5) Chánh mạng. 6) Chánh tri. 7) Chánh trí. 8) Chánh định.

Đó là Khổ, Tập, Tận, Đạo. Chơn đế là vô sanh, vì vô sanh cho nên vô tử. Vì vô tử cho nên vô bệnh, vì vô bệnh cho nên vô tử, vì vô tử cho nên không khổ đau, vì không khổ đau cho nên được tốt lành vô thượng, hướng đến Nê Hoàn. Bấy giờ đức Như Lai liền nói bài tụng:

- Đạo màu không qua lại
Huyền vi, thanh diệu chơn
Không tử cũng không sanh
Chính đó là Nê Hoàn
Nó tịch tịnh vô thượng
Rốt ráo không tạo tác
Tuy cõi trời có đẹp
Nhưng không bằng Nê Hoàn.

Ngài thuyết pháp như vậy. Năm người là Câu Lân....., liền được pháp nhãn.

Đức Phật hỏi:

- Này Câu Lân, ngươi hiểu chưa?

Tôn giả đứng dậy thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn, con chưa hiểu.

Đức Phật lại bảo:

- Này Câu Lân ở thời quá khứ lâu xa về trước, có mọt vị vua tên là Ác Sanh, ông ta đem các kỷ nữ vào núi vui chơi, ra lệnh quan thuộc hạ đứng dưới chân núi, ông ta chỉ dẫn các kỷ nữ theo, từ từ đi lên đỉnh núi, lúc ấy nhà vua rất mệt mỏi nên nằm nghỉ, các kỷ nữ ấy để nhà vua ở lại, còn họ thì đi hái hoa. Họ thấy một vị đạo nhân ngồi ngay thẳng dưới gốc cây, nên trong lòng hân hoan đều đến để đảnh lễ. Vị đạo nhân cầu nguyện cho họ:

- Các cô hãy đến đây! Ngài bảo họ ngồi xuống, Ngài thuyết pháp cho họ nghe.

Khi nhà vua tỉnh giấc đi tìm các kỷ nữ, thấy họ đang ngồi trước vị đạo nhân ấy, nên trong lòng đố kỵ, sanh ra ác tâm liền hỏi đạo nhân:

- Tại sao ngươi dụ dỗ các kỷ nữ của ta? Ngươi là người gì mà ngồi ở đây?

Đạo nhân biết ý của vua hung bạo, độc hại, nên đáp rằng:

- Tôi là người nhẫn nhục!

Nhà vua liền rút kiếm chặt đứt 2 tay của đạo nhân, rồi hỏi tiếp:

- Ngươi là người gì?

Ngài đáp:

- Quả thật tôi là người nhẫn nhục!

Nhà vua lại cắt tai và mũi của đạo nhân. Nhưng tâm của đạo nhân vẫn kiên cố bất động, Ngài vẫn nói: Tôi là người nhẫn nhục .

Nhà vua thấy nhan sắc của nhà vua không di động, mới giật mình đến trước sám hối lỗi lầm. Đạo nhân bảo nhà vua:

- Nay Ngài vì nũ sắc nên đã dùng dao cắt đứt thân mình của ta. Nhưng sự nhẫn của ta như mặt đất, chắc chắn ta sẽ được quả bình đẳng chánh giác. Ta sẽ dùng nhất thiết trí để đoạn trừ sanh tử cuả Ngài.

Nhà vua suy nghĩ mình tội nặng, chắc chắn phải gánh lấy tai ương dữ dội mới đập đầu xuống đất, xin Ngài tha tội.

Đạo nhân bảo nhà vua:

- Nếu ta quả thật là người nhẫn nhục, máu trong thân ta sẽ biến thành sữa, làm cho những chổ bị đứt sẽ lành lại như xưa!

Đúng như lời Ngài nói, sữa chảy ra và thân hình lại bình phục như xưa.

Nhà vua thấy sự chứng minh về đức nhẫn đó của Ngài, mới mong Ngài cứu tế, lại nói lời chân tình rằng:

- Nếu như Ngài thật sự thành đạo xin Ngài độ cho con trước tiên.

Đạo nhân đáp rằng: - Xin vâng.

Nhà vua liền hết mê muội, cáo từ trở về cung.

Đức Phật bảo Câu Lân:

- Vị đạo nhân nhẫn nhục lúc ấy chính là thân của ta. Còn vua Ác Sanh lúc đó chính là Câu Lân vậy.

Này Câu Lân! Ngươi đã hiểu chưa? Lúc ấy Câu Lân bạch đức Phật:

- Con rất hiểu, bạch Thế Tôn!

Khi đức Phật thuyết bài pháp ấy xong, Câu Lân..... 5 người, được lậu tận, ý giải thoát đều chứng La-hán, và tám vạn chư thiên ở trên đều được pháp nhãn, ba ngàn thế giới bị chấn động mạnh.

Đó là lần đầu tiên Như Lai ở nước Ba La Nại dùng vô thượng pháp luân cuyển cho người chưa được chuyển, cứu độ tất cả, không ai mà không vui mừng.

2. PHẨM HIỆP BIẾN ( Còn Gọi Thiện Lai )

Bấy giờ ở trong thành Ba la nại có một trưởng giả tên là A Cụ Lợi, ông ta có một người con tên là Dã Dã (nước Tấn gọi là Bảo Xứng) lúc 24 tuổi, Xứng sanh điều kỳ lạ, có đôi guốc bằng lưu ly, hể giở chân lên thì liền hiện. Cha Mẹ quý sự lạ lùng ấy cho nên đặt tên là Bảo Xứng, họ làm cho chàng một ngôi nhà, chổ ở tùy theo thời tiết nóng lạnh khác nhau, có kỷ nữ vui chơi không kể ngày đêm. Bấy giờ vào lúc nữa đêm, Bảo Xứng bổng thức giấc, thấy các kỷ nữ đều như những thây chết, máu mũi chảy đầy, tay chân rã rời, đầy cả gian phòng, in như bãi tha ma, chàng hoảng hốt bỏ chạy ra cửa thì cửa lớn tự mở, lúc ấy đất trời tối tăm mù mịt, chỉ thấy một tia ánh sáng, chàng chạy đến cửa thành phiá Đông, cửa thành lại tự mở, ánh sáng tỏa chiếu vườn Nai, chàng tìm theo ánh sáng đi đến chỗ đức Phật, chàng xem thấy tướng đức Phật tốt đẹp lạ thường, sáng láng, vòi vọi nên sợ hãi đứng lại, lúc ấy chàng như người nữa mê nữa tỉnh cất tiếng than rằng:

- Lâu nay ta ở trong ngục ân ái, bị gông cùm danh sắc trói buộc, nay ta theo đấng Thiên tôn, há không được giải thoát sao?

Lúc ấy đức Phật bảo:

- Này Đồng tử! Đã khéo đến với bậc giác ngộ. Nơi đây không có sự lo âu, các hành đầy đủ.

Đồng tử đến trước lạy dưới chân đức Phật rồi đứng qua một bên. Đức Phật thuyết pháp cho chàng nghe, chàng liền được con mắt pháp vô cấu, lùi lại bạch đức Phật:

- Xin đức Phật cho con được làm đệ tử.

Đức Phật nói:

- Thiện lai Tỳ kheo.

Đồng tử liền thành sa môn.

Sáng sớm các kỷ nữ thức giấc hoảng hốt tìm kiếm khắp nơi, kêu gào khóc lóc, trưởng giả hoảng sợ mới hỏi cớ sự, các kỷ nữ thưa rằng:

- Không biết Bảo Xứng nay ở đâu?

Trưởng giả lo sợ, liền bảo người cỡi ngựa tìm kiếm khắp nơi. Còn trưởng giả thì cởi xe của con mình chạy thật mau để tìm kiếm. Con đường dẫn ông tới một dòng nước yên là Ba La Nại. Khi ông qua dòng nước ấy thì thấy đôi guốc báu của con cởi bỏ lại bên bờ sông. Ông liền theo dấu chân đến vườn Nai. Đức Phật dùng phương tiện, khiến cho cha con hai bên không thấy nhau.

Trưởng giả thấy đức Phật là bậc tôn nghi có tướng đẹp, nên trong lòng mừng lo lẫn lộn quên mất sự cung kính mới hỏi đức Phật rằng:

- Con của tôi tên là Bảo Xứng, dấu chân của nó tới đây, vậy Cù Đàm có thấy không?

Đức Phật bảo trưởng giả:

- Nếu con của ông ở đây, lo gì mà không thấy.

Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe:

- Sanh tử là do si mê, sự ân ái nào cũng có chia ly, phá bỏ 20 ức điều ác, liền chứng Tu Đà Hoàn .

Lúc ấy tâm của Bảo Xứng khai mở, liền chứng La Hán, cha con gặp nhau, tình ân ái mỏng dần, trưởng giả vui mừng thối lui bạch đức Phật:

- Hôm nay tâm con sung sướng, trong lòng có hai điều vui: Một là gặp và hiểu pháp nên vui. Hai là xa lìa ân ái nên hoan hỷ.

Khi ấy Bảo Xứng có 4 người bạn thân: 1) Phú Nhục. 2) Duy Ma La. 3) Kiều Viêm Bát. 4) Tu Đà. Họ nghe Bảo Xứng đã làm sa môn, kinh hoàng, lông tóc dựng đứng nói rằng:

- Bạn của ta đức cao, trí thấy xa, cả nước đều biết, chúng ta đều nương tựa vào người ấy, nay đã làm sa môn. Có lẽ đạo ấy chân thật mới khiến bạn của ta bổng nhiên bỏ sự vinh lợi ở đời như thế? Họ cùng đến gặp đức Phật, cùng hầu thăm Bảo Xứng. Họ liền cùng đi, thấy đức Phật, nhờ bổn hạnh nguyện đời trước của họ nên tâm được khai mở, đầu mặt đảnh lễ, đến trước bạch đức Thế Tôn rằng:

- Chúng con khao khát sự giáo hóa của Ngài, tâm hồn trống rỗng lâu ngày, xin Ngài đừng cho chúng con là thô lậu, cho chúng con xin làm đệ tử của Ngài.

Đức Phật nói:

- Thiện lai Tỳ kheo!

Tất cả đều thành sa môn. Ngài nói về ý chỉ của bổn tâm, để biểu sự thanh tịnh. Họ nghe ý nghĩa mà tâm được khai ngộ liền chứng La-hán.

Bấy giờ ở gần Ba La Nại có huyện gọi là Đồ, có 50 người, nhân có việc đi đến nước ấy nghe Bảo Xứng, Phú Nhục.... đều làm sa môn, họ đều sanh ý nghĩ:

- "Những người con của các trưởng giả nầy kiêu ngạo, hoan lạc, tự buông lung, tài nghệ hơn đời, nhưng chúng thảy đều cảm sự hóa đạo, có lẽ Cù Đàm là vị thần mới khiến bọn quý tộc không cần nghĩ đến vinh hoa" . Những người ấy đều phát tâm muốn đến chỗ phật. Họ cùng đi dến vườn Nai. Nhờ bổn nguyện ứng hợp với sự hóa độ, thấy đức Phật họ liền hiểu và xin làm đệ tử. Đức Phật nói:

- Thiện lai Tỳ kheo!

Họ đều thành sa môn. Nhờ thuận theo những lời dạy căn bản, nên họ mau thành thục pháp yếu, hết trần cấu, thoát khỏi trói buộc, đều chứng La-hán.

Bấy giờ ở tại vườn Nai có đông người tụ hội để ăn uống ca múa. Khi ấy có một người nữ sắc đẹp phi phàm, đang múa ở trong hội ấy. Mọi người đều hân hoan, trong lòng rất ưa thích cô ta. Cô gái múa chưa xong thì bổng nhiên biến mất. Mọi người hỏi đức Phật:

- Vừa rồi có một cô gái cùng ca múa với chúng tôi, đi đến đây. Cù Đàm có thấy nàng chăng?

Đức Phật bảo mọi người:

- Hãy tự quán sát thân mình, quán sát người khác làm gì? Sắc dục là vô thường, có hội hiệp thì có chia ly, nó giống như bong bóng, bọt nổi. Kẻ ngu luyến trước sắc dục nên tai họa do đó sanh ra. Thân là vật chứa sự khổ, chúng sanh ai cũng vậy.

Khi nghe xong tâm của mọi người bừng tỉnh, xin làm sa môn. Đức Phật đều truyền giới cho họ, dẫn cho họ thấy chánh đế, họ đều đắc quả ứng chơn (La hán).

Đức Phật bảo rằng:

- Này Tỳ kheo, các ngươi hãy ra đi mà rộng độ chúng sanh, tùy theo chỗ thấy pháp của mỗi người mà làm cây cầu, chỉ đường, rộng thí pháp nhãn, tuyên xướng ba đấng tôn qúi, bạt trừ ái hữu, làm cho ai nấy đều nhập Nê Hoàn. Nay ta độc hành đến Ưu Vi La.

Các Tỳ kheo thọ giáo, đầu mặt đãnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh ba vòng, từ đó ra đi.

3.- PHẨM HÓA ĐỘ CA DIẾP.

Bấy giờ đức Như Lai trở lại nước Ma Kiệt Đề, đến vùng Ưu Vi La, buổi tối Ngài dừng chân ở trong vườn Tư Nại. Đức Phật hiện ánh sáng vàng, chiếu thẳng vào ngôi nhà của Phạm chí. Ông có 2 người con gái, cô chị tên là Nan Đà, cô em tên là Nan Đà Ba La. Họ thấy ánh sáng nên vui mừng, liền đến chổ đức Phật, lễ bái thỉnh Phật. Đức Phật bước vào nhà dạy cho 2 cô gái quy y Tam Bảo, thọ trì 5 giới xong, đức Thế Tôn dạy rằng:

- Thân không phải là vật sở hữu của ta, vạn vật đều trở về không.

Tâm hai cô gái khai mở, cúi đầu phụng hành. Đức Thế Tôn nghĩ rằng: "Từ lúc ta bắt đầu học đạo đến nay là để cứu độ chúng sanh làm cho ma vương của dục giới quy phục trở về với đạo".

Gần ở bờ sông Ni Lan Thuyền có một Phạm chí họ là Ca Diếp, tên là Uất Tỳ La, đã 120 tuổi, có danh tiếng đồn xa, được người đời phụng thờ, kính ngưỡng, tu theo đạo thờ lửa, ngày đêm không mệt mỏi, ông ta có đến 500 người đệ tử hiếu học. Ca Diếp có hai người em. Tông sư là anh tự cho là mình đã đắc đạo. Mỗi người đều có đệ tử riêng, đều sống dưới hạ lưu của sông Ni Lan Thuyền. Ca Diếp tự nghĩ: "Danh tiếng của ta ngày một cao, người trong nước đều kính ngưỡng. Nếu tài nghệ mà ít ỏi thì ta dễ bị cùng đường, nếu đã cùng đường thì danh cũng bại liệt. Vậy ta hãy tạo một kế hay để toàn quốc đều ngưỡng vọng". Ông liền đi kiếm rồng, dùng chú thuật để đến đó làm một cái nhà yên tĩnh, mà bảo với con rồng rằng:

- Nếu có ai khinh suất đột nhập vào ngôi nhà yên tĩnh này thì ngươi hãy phóng lửa phun nọc độc để tiêu diệt kẻ đó.

Con rồng vì vậy đến ngày tiết hội, nó thường phun lửa, cho nên người gần kẻ xa đều nói:

- Đạo của đại sư là thần!

Tôn giả Ca Diếp nhờ vậy mà công danh ngày một phơi phới. Đức Thế Tôn nghĩ rằng: "Ngày xưa ta xuất gia giữa đường gặp vua Bình sa. Nhà vua có nói: - Khi nào ta thành đạo thì độ cho nhà vua trước tiên".

'Ta nhờ tất cả mọi người nên mới được đắc đạo như vầy. Nay ta quán sát lòng dân, họ đều ngưỡng vọng Ca Diếp đâu dễ gì mà họ liền theo ta được! Giống như quả ngọt ở trên cây cao không thể ăn được. Tất cả những khó khăn đều do con rồng mà ra cả. Trước tiên ta phải hàng phục nó, thì Ca Diếp sẽ theo ta. Như vậy thì đạo lớn mới có thể giáo hóa rộng rãi, không cùng tận.'Đức Như Lai nói rằng:

- Mặt trời chiếu soi thiên hạ, có 3 đức:

Ánh sáng tỏa ra phá trừ tăm tối, chỗ nào cũng thấy rõ ràng.

Năm màu xen nhau tuần tự mà chiếu soi hình dáng.

Làm nở mầm mộng tinh hoa của vạn vật.

Đức Như Lai cũng có 3 đức:

Bậc nhất thiết đại trí chiếu trừ ngu tối.

Ngài phân bố 5 đường, đó là nguyên do của lời nói và hành động.

Dùng phương tiện trí huệ để cứu tế làm chúng sanh được lợi lạc và an ổn.

Bậc Chúng-hựu nghĩ như vậy xong, Ngài liền đến vườn Tư Nại vào lúc chiều tối, đến ngôi nhà mà tôn giả Ca Diếp đã làm. Khi chưa đến nơi Ngài liền hiện sắc vàng lên cây cối, đất đá đều có sắc như vàng ròng.

Lúc ấy người đệ tử của tôn giả Ca Diếp thấy sự biến hóa này, tâm động cho là lạ, ngoái đầu mà nhìn, từ xa thấy đức Thế Tôn, ánh sáng bao trùm đất trời, y không biết vì sao mà có sự mầu nhiệm ấy, mới chạy đến thưa với Thầy. Thầy trò cùng đi ra xem, thấy đức Thế Tôn oai thần, oai nghi, rực rỡ, sáng rạng!

Trong tâm tôn giả ca Diếp lo sợ, hồi hộp, hoang mang không rõ việc gì tự nghĩ rằng: "Đây là mặt trời mà mắt ta thấy được chăng? Đó là Thiên nhân sao? Mắt của vị ấy như tia điện". Sau đó ông suy nghĩ mới hiểu rằng: - Đó há không phải là thái tử Tất Đạt con vua Bạch Tịnh sao? . Ta thường nghe một cách đầy đủ rằng: - Con vua Bạch Tịnh, có phước Thánh vương, không thích sự vinh hoa, tương lai sẽ được làm Phật. Ngày trước ta nghe vị ấy xuất gia, có lẽ nay đã thành đạo rồi chăng?

Đức Như Lai bỗng đi đến, tôn giả Ca Diếp rất vui mừng nói:

- Thiện lai Cù Đàm! Ngài có bình an chăng?

Đức Phật nói bài kệ này cho tôn giả Ca Diếp:

- Trì giới, suốt đời an
Chánh tín, chỗ ở tốt
Trí huệ, thân an ổn
Không làm ác, được an.

Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:

- Cúi mong Ngài hạ cố oai đức, đến chỗ tôi để nhận món ăn đạm bạc.

Đức Phật đáp:

- Này Ca Diếp, đạo pháp của chư Phật từ xưa hễ quá ngọ thì không ăn, có lòng thành là tốt rồi. Ta muốn nhờ một việc, ngươi có vui lòng chăng?

Tôn giả Ca Diếp đáp:

- Rất tiếc là tôi không dự bị trước, mong Ngài miễn chấp.

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Ta muốn tá túc lại đây một đêm, ngươi có vui lòng chăng?

Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:

- Pháp Phạm chí của chúng tôi, khi ngủ không được ở chung một phòng. Xin Ngài miễn thứ điều ấy không thể được. Nếu đi ngược lại pháp ấy thì tánh mạng của chúng tôi rất nguy hiểm.

Đức Phật chỉ ngôi nhà yên tĩnh kia hỏi:

- Đó là ngôi nhà gì?

Ca Diếp đáp:

- Trong đó có thần Long, tánh tình nó rất nguy hiểm hung ác. Nếu có ai vào ngôi nhà đó nó liền phun lửa thiêu cháy tức thì.

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Hãy cho ta nghĩ ở đó.

Tôn giả Ca Diếp đáp:

- Thật là rùng rợn, tôi chỉ sợ con rồng hại Ngài mà thôi.

Năm trăm đệ tử của tôn giả thảy đều run sợ, lo thầy của mình chấp nhận lời đề nghị của đức Phật. Song đức Phật yêu cầu đến ba lần như vậy. Tôn giả Ca Diếp trong lòng hoài nghi, nhưng ý không dám chống trái nói:

- Chỉ sợ Ngài bị họa mà thôi!

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Lửa dục trong 3 cõi ta đã tiêu diệt được, thì con rồng không thể hại ta được.

Tôn giả Ca Diếp thưa rằng:

- Cù Đàm là bậc tôn đức, có thể ở chỗ đó được thì tùy ý Ngài.

Đức Phật liền thu oai thần, đi vào ngôi nhà ấy.

Năm trăm người đệ tử của tôn giả Ca Diếp tin chắc là con rồng sẽ hại Ngài, cho nên họ đều rơi nước mắt, tiếc thương cho bậc tôn qúy như vậy mà bị con rồng giết hại.

Đức Phật ngồi trong ngôi nhà đó giây lát thì con rồng từ trong hang đi ra. Nó phun nọc độc quanh mình đức Phật. Đức Như Lai liền hóa những chất độc ấy thành những bông hoa. Con rồng thấy chất độc của nó biến thành những bông hoa bao quanh đức Phật, nó càng tức giận khạt lửa để hại Phật. Nhưng hơi nóng lại bay ngược về phía con rồng làm cho nó uất uất, sầu muộn, muốn chết, nó ngẩn đầu nhìn đức Phật, nó biết Ngài là bậc tôn qúy.

Đức Phật hóa một luồng gió mát thổi đến phía con rồng. Con rồng liền theo hơi mát đó đi đến chỗ đức Phật, Ngài làm cho lửa tắt, độc trừ. Con rồng liền quy y Ngài, vào trong bình bát của Ngài.

Bấy giờ đức Phật liền dùng Hỏa quang (tam muội) lửa khói ngập trời. Các đệ tử của tôn giả Ca Diếp, đứng thẳng để nhìn, họ thấy hào quang của đức Phật mà tưởng là lửa của con rồng, cho nên họ đều cất tiếng bi ai than thở:

- Tiếc thay cho bậc chơn nhân đã bị con rồng làm hại.

Thầy trò của tôn giả Ca Diếp hoảng sợ đồng chạy ra ngoài để xem. Năm trăm đệ tử của tôn giả đồng tách Thầy họ rằng:

- Từ lúc khai thiên lập địa đến nay, chúng ta chưa thấy ai vi diệu như Cù Đàm, Ngài là bậc đáng tôn quý. Hận là chúng ta chưa thấy Ngài kỷ, vậy làm sao có thể thấy lại Ngài được? Họ rơi nước mắt mà nói bài tụng:

- Dung nhan, sắc vàng tía
Mặt tròn, tóc xanh biếc
Đại nhân, trăm phước đức
Thần diệu, ứng tướng tốt
Thân cao, một trượng sáu
Có tám mươi vẻ đẹp,
Hào quang chiếu chỗ tối
Sao bỗng bị vô thường?!

Người đệ tử cuối cùng của tôn giả cho rằng lửa đã thiêu đốt đức Phật, xót thương, ai oán rằng:

- Đức Cù Đàm đã bị hại, ta sống để làm gì?

Nói xong liền nhảy vào trong đống lửa ấy, nhưng anh tháy mát mẻ, điều hòa, nên ngoái lại thưa với thầy mình:

- Đức Cù Đàm không hề gì cả. Chúng ta tưởng đó là lửa của cong rồng, nhưng đây chính là hào quang của đức Phật!

Thầy trò của tôn giả đang buồn rầu xúm quanh bên nhau, đứng một bên lắng lòng chờ bậc Đạt Minh. Thì vào lúc sáng sớm đức Như Lai ôm bát bước ra khỏi ngôi nhà. Tôn giả Ca Diếp hết sức vui mừng nói:

- Bậc đại đạo nhân vẫn còn sống chứ? Cái gì trong bình bát đó?

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Đó là con dộc Long, ta đã hàng phục và nó đã thọ pháp của ta!

Năm trăm đệ tử của tôn giả đều nói:

- Đây là vị Phật thần.

Tôn giả Ca Diếp trong lòng thì thầm phục đức Phật nhưng luyến tiếc tiếng tăm của mình.

Đức Phật bảo:

- Ngươi lại cống cao sao? Đại đạo nhân chính thật là vị thần! Ngươi không bằng ta, vì ta đã chứng A la hán!

Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:

- Xin bậc đại đạo nhân hãy ở lại để chúng tôi được cúng dường.

Sáng sớm tôn giả dọn trai soạn, tự mình đến thỉnh đức Phật. Đức Phật bảo:

- Ngươi hãy đi trước, ta sẽ đến.

Tôn giả Ca Diếp vừa về đến nhà thì đức Phật nhanh như người co duỗi cánh tay, Ngài liền đến nước Phất Vu Đãi xa cả ngàn ức dặm về phía Đông, lấy quả cây tên là Diêm Bức, bỏ đầy cả bát rồi trở về. Tôn giả Ca Diếp chưa vào nhà thì thấy Ngài đã ngồi ở sàng tọa rồi, tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:

- Thưa đại đạo nhân, Ngài đi đường nào mà đến đây?

Đức Phật đáp:

- Ngươi vừa đi, thì ta liền đến nước Phất Vu Đãi ở phương Đông lấy những trái cây Diêm Bức này, nếu ăn vào rất thơm ngon.

Đức Phật dùng cơm xong, tôn giả Ca Diếp nghĩ rằng: "Bậc đại nhân này tuy là vị thần nhưng không bằng đạo chơn thật của ta". Sáng sớm đến giờ ăn, tôn giả lại đến thỉnh Phật. Đức Phật bảo:

- Hãy về đi, ta sẽ đến liền.

Tôn giả Ca Diếp vừa trở về, đức Phật liền đến tận núi Diêm Phù Đề ở phía Nam lấy trái cây Loa Lặc, chứa đầy bình bát rồi trở về.

Tôn giả Ca Diếp đi chưa đến nhà, thì thấy Ngài ngồi trên sàng tọa rồi.

Tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:

- Làm sao Ngài lại đến trước?

Đức Phật bảo:

- Ta đi qua phương Nam, lấy quả cây ngon này, hễ ăn vào thì hết bệnh.

Sau khi đức Phật ăn xong, tôn giả Ca Diếp suy nghĩ: "Vị sa môn này quả thật là thần diệu". Sáng hôm sau tôn giả Ca Diếp lại đến mời Phật. Đức phật bảo:

- Hãy về trước đi, ta sẽ đến ngay.

Đức Phật liền đến nước Câu Na Di ở phía Tây, lấy trái cây A Ma Lặc bỏ đầy bình bát rồi trở về. Tôn giả Ca Diếp chưa đến nơi thì đã thấy đức Phật đã đến ngồi ở sàng tọa. Tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:

- Ngài lại đi hướng nào mà đến đây?

Đức Phật trả lời:

- Ta đến nước Câu Da Ni ở phía Tây, lấy trái cây A Ma Lặc bỏ đầy bình bát rồi trở về, ngươi có thể ăn chúng.

Đức Phật dùng cơm xong. Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: "Việc của vị đại sa môn này làm quả thực là sức của thần". Sáng hôm sau tôn giả Ca Diếp lại đến mời đức Phật. Đức Phật bảo:

- Hãy về trước , ta sẽ đến sau.

Tôn giả Ca Diếp ngoái đầu lại nhìn thì bỗng không thấy đức Phật. Đức Phật đã đến nước Uất Đơn Việt ở phía Bắc lấy thứ lúa gạo tự nhiên. Tôn giả Ca Diếp đi chưa đến nhà thì thấy đức Phật đã ngồi ở sàng tọa.

Tôn giả Ca Diếp hỏi đức Phật:

- Ngài từ đâu đến?

Đức Phật đáp:

- Ta từ nước Uất Đơn Việt ở phía Bắc, lấy lúa gạo tự nhiên này, ngươi có thể ăn nó .

Sau khi đức Phật ăn xong, tôn giả Ca Diếp suy nghĩ:

- Vị đại tiên nhân này có sự thần diệu như vậy.

Buổi sáng đúng giờ thọ thực, đức Phật ôm bát tự mình đến nhà tôn giả để lấy đồ ăn rồi trở về. Khi thọ thực xong, Ngài muốn tăm rửa, súc miệng, nhưng không có nước. Thiên Đế Thích liền hạ xuống lấy tay chỉ mặt đất thì tự nhiên thành cái ao. Tôn giả ca Diếp sau buổi trưa thong dong tản bộ thì thấy có cái ao, cho là lạ mới hỏi đức Phật:

- Vì sao có cái ao này?

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Sáng nay ta được ngươi cúng dường cơm. Ăn xong ta muốn xúc miệng, nhưng không có nước, Thiên Đế Thích mới chỉ mặt đất biến thành ao nước để ta dùng, do đó cho nên có cái ao này.

Tôn giả Ca Diếp suy nghĩ: "Bậc đại đạo nhân này thật là thần diệu, công đức vô lường".

Ngày hôm sau đức Thế Tôn đến gần chỗ Ca Diếp ngồi dưới một gốc cây. Đêm thứ nhất có bốn vị Thiên vương đồng đến nghe đức Phật thuyết pháp. Hào quang của 4 vị Thiên vương ấy chiếu sáng như đống lửa.

Tôn giả Ca Diếp buổi tối thức dậy, thấy trước đức Phật có bốn đống lửa, sáng sớm ông hỏi đức Phật:

- Này Đại đạo nhân, Ngài cũng thờ lửa sao?

Đức Phật đáp:

- Không có! Đêm qua có bốn vị Thiên vương đến nghe ta thuyết pháp, đó là ánh sáng của họ.

Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ:

- Bậc đại sa môn này hết sức thần diệu mới khiến các vị Thiên này đến nghe pháp, tuy nhiên vẫn không bằng đạo chân htật của ta.

Ngày hôm sau, đêm thứ hai, Thiên Đế Thích đến chổ đức Phật để nghe pháp, ánh sáng của Đế Thích sáng gấp bội ánh sáng của Tứ Thiên Vương. Buổi tối tôn giả Ca Diếp thức dậy thấy ánh sáng ở trước đức Phật, trong ý tự nghĩ: ' Chính đức Phật có thờ lửa vậy'! Sáng sớm đến hỏi đức Phật:

- Nếu Ngài không thờ lửa, vì sao ánh sáng lại gấp bội đêm qua?

Đức Phật bảo:

- Vì Đế Thích đi xuống nghe kinh pháp, cho nên đó là ánh sáng của ông ta.

Đêm sau có vị Phạm Thiên thứ bảy lại đến nghe pháp. Ánh sáng của Phạm Thiên sáng gấp bội ánh sáng của trời Đế Thích. Tôn giả Ca Diếp thấy ánh sáng ấy nghi là đức Phật có thờ lửa. Sáng sớm ông hỏi đức Phật:

- Này Đại đạo nhơn , chắc chắn ngài có thờ lửa!

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Đêm qua vị Phạm Thiên thứ bảy đến nghe pháp. Đó là ánh sáng của ông ta vậy.

Tôn giả Ca Diếp tự nghĩ:

- "Bậc đại đạo nhân này có oai thần cảm động mới khiến Phạm Thiên xuống nghe pháp?".

Năm trăm người đệ tử của tôn giả Ca Diếp mỗi người thờ ba ngọn lửa, như vậy có cả thảy là một ngàn năm trăm ngọn lửa. Sáng sớm đốt lửa, lủa vẫn không cháy, họ thấy lạ mới đến hỏi Thầy. Vị Thầy bảo:

- Điều này chắc do Phật làm ra.

Ông liền đến bạch đức Phật:

- Năm trăm đệ tử của tôi sáng nay đốt lửa, nhưng lửa vẫn không cháy. Có phải điều này do Ngài làm ra chăng?

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Ngươi muốn lửa cháy chăng?

Đức Phật hỏi ba lần, và tôn giả đều đáp:

- Muốn cho lửa cháy.

Đức Phật bảo:

- Hãy đi đi, lửa sẽ cháy.

Ngài vừa nói xong thì tất cả ngọn lửa đều cháy.

Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: "Bậc đại đạo nhân này hết sức thần diệu vậy"!

Tôn giả Ca Diếp tự thờ 3 ngọn lửa, sáng sớm thì tắt lửa, nhưng ngọn lửa không thể tắt. 500 người đệ tử và các người thờ lửa đên giúp tôn giả tắt lửa, nhưng vẫn không thể tắt được, tôn giả nghi là việc này do đức Phật làm ra, liền đến thưa đức Phật:

- Con tự thờ ba ngọn lửa nhưng không thể tắt được!

Đức Phật hỏi:

- Ngươi muốn ngọn lửa tắt sao?

Thưa rằng: - Con muốn nó tắt.

Đức Phật bảo: - Nó sẽ tắt.

Ngài vừa nói dứt lời thì ngọn lửa liền tắt. Tôn giả Ca Diếp nghĩ rằng: "Bậc đại đạo nhân hết sức thần diệu, làm việc gì cũng thành tựu".

Ngày hôm sau 500 đệ tử của tôn giả Ca Diếp cùng nhau chẻ củi, song khi mọi người giở búa lên thì đều không thể hạ búa xuống được. Họ liền đến thưa với Thầy, Thầy họ bảo:

- Đó là do đại sa môn làm vậy.

Tôn giả đến bạch Phật:

- Các đệ tử của con vừa rồi cùng nhau chẻ củi, khi họ giơ búa lên thì không thể hạ xuống được.

Đức Phật bảo:

- Hãy về đi, búa sẽ hạ xuống.

Tức thì các cây búa đều hạ xuống. Tôn giả Ca Diếp nghĩ: "- Vị Đại sa môn này chính là vị thấn vậy".

Ngày hôm sau đức Phật lại ngồi dưới một gốc cây, Ngài thấy một tấm vải dơ bị vất bỏ, Ngài muốn giặt nó. Thiên Đế Thích vâng theo Thánh ý của đức Phật, đến trên núi Át Na lấy một tảng đá có 4 mặt và một tảng đá có 6 mặt, dâng cho Ngài để Ngài giặt tấm vải. Tôn giả Ca Diếp đi du hành thấy bên bờ ao có 2 tảng đá lấy làm lạ mới hòi đức Phật:

- Hiện nay bên bờ ao có tảng đá rất đẹp, không rõ nó từ đâu đến?

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

Ta muốn giặt rửa và phơi y, Thiên Đế Thích mới mang 2 tảng đá đến để ta xử dụng.

Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: "Cù Đàm là bậc thần đức, không ai mà không cảm động".

Sau đó đức Phật xuống ao do Đế Thích tạo để tắm rửa xong, khi muốn lên khỏi ao không có gì để nắm kéo lên, thì ở trên ao có một cái cây tên là Ca Hòa rất đẹp, cây ấy cong xuống ao, đức Phật vịn vào để ra khỏi ao.

Tôn giả Ca Diếp thấy cái cây tự nhiên cong xuống lấy làm lạ hỏi đức Phật. Đức Phật bảo tôn giả:

- Lúc sáng sớm ta xuống ao để tắm rửa, khi muốn ra khỏi ao thì cây thần thả nhánh xuống để ta nắm mà lên.

Tôn giả Ca Diếp nghĩ:

- "Bậc Đại đạo nhân này, là bậc chí đức, cảm hóa nhiều loài, làm cho đại thọ phải thả nhánh cây xuống."

Đức Phật muốn khiến cho tôn giả Ca Diếp qui phục, Ngài liền đi vào sông Ni Lan Thiền. Nước sông này rất sâu và chảy rất mạnh. Ngài dùng thần lực cắt đứt dòng nước, làm cho nó đứng lại, dâng cao quá đầu người. Khiến cho đáy sông hiện ra, Ngài đi trong đó.

Tôn giả Ca Diếp thấy đức Phật đi vào nước, sợ Ngài bị chết chìm, liền bảo đệ tử chèo thuyền ra để cứu đức Phật. Họ thấy nước dâng cao, phía dưới hiện rõ đáy sông, và thấy đức Phật ở trong đó nên rất vui mừng, đồng hỏi rằng:

- Đạo nhân vẫn còn sống sao?

Họ lại hỏi:

- Ngài có muốn lên thuyền không?

Đức Phật bảo:

- Ta sẽ lên.

Ngài nghĩ: "Ta sẽ xoi đáy thuyền để lên, nhưng đừng cho nước chảy vào". Tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: "Bậc Đại đại đạo nhân này thật là diệu hóa khó lường.

Bấy giờ quốc vương, quan dân nước Ma Kiệt, nhân ngày hội lễ của năm, đi đến chỗ của tôn giả Ca Diếp, vui chơi trong bảy ngày. Trong tâm của tôn giả Ca Diếp suy nghĩ: "Đức Phật là vị Thánh minh, nếu mọi người thấy được, chắc chắn họ sẽ bỏ ta. Nếu trong bảy ngày này mà Ngài không xuất hiện thì vui biết bao". Đức Phật biết ý của tôn giả, cho nên ẩn mặt trong 7 ngày; đến ngày thứ tám, tôn giả Ca Diếp lại nghĩ: "Nay ta có dư phẩm vật, nếu được cúng dường cho đức Phật thì khoái biết bao". Tôn giả mới nghĩ như vậy, đức Phật liền đến, nên tôn giả rất vui mừng, vì mới nghĩ muốn gặp Ngài để cúng dường thì Ngài liền đến, thật vui sướng biết bao, và hỏi rằng:

- Vừa rồi Ngài đi đâu và nay thì từ đâu đến?

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

-Tâm ngươi suy nghĩ rằng: "Đức Phật là vị Thánh Minh, nếu mọi người thấy Ngài họ sẽ bỏ ta, nếu trong bảy ngày này mà Ngài không xuất hiện thì khoái biết bao". Do đó không xuất hiện. Nay ngươi nghĩ đến ta, cho nên ta lại đến.

Tôn giả Ca Diếp tâm niệm: "Đức Phật đúng là bậc Chí Thần, mới biết được ý niệm của con người" .

Đức Phật biết tâm của tôn giả đã khâm phục, nên Ngài liền bảo:

- Này Ca Diếp, ngươi không phải là La Hán, nếu không biết chơn đạo, sao lại lấy cái hư vọng mà tự cho là quý?

Bấy giờ trong tâm của tôn giả Ca Diếp hoảng sợ lông tóc dựng đứng, tự biết là mình không có đạo, liền cúi lạy thưa rằng:

- Bậc đại đạo nhân quả thật là thần thánh, mới biết được ý niệm của con người. Vậy con có thể theo đại đạo nhân để được thần hóa, lảnh tọ kinh giới, làm sa môn chăng?

Đức Phật bảo:

- Rất tốt! Hãy báo cho các đệ tử ngươi biết, ngươi là quốc sư, nay ngươi đã mặc pháp phục há có thể chỉ một mình ngươi biết sao?

Tôn giả Ca Diếp thọ giáo, quay lại gọi các đệ tử:

- Các ngươi cùng ta đều thấy sự thần hóa của đức Phật. Nay ta đã tin và hiểu sự thần hóa ấy, nên ta làm sa môn. Vậy các ngươi thì thế nào?

Năm trăm người đệ tử của tôn giả đều thưa:

- Chúng con đã biết, tất cả đều thọ ân của Thầy. Thầy đã tôn trọng và tin tưởng đức Phật, chúng con đều nguyện theo Thầy.

Ngay khi ấy thầy trò của tôn giả đến chỗ của đức Phật, đãnh lễ thưa rằng:

- Chúng con đều có ý tin tưởng, nguyện làm đệ tử của Ngài.

Đức Phật bảo:

- Thiện lai Tỳ kheo!

Tất cả đều thành sa môn. Tôn giả Ca Diếp đem áo lông cừu, áo vải to, bình nước, gậy, dép, các dụng cụ thờ lửa đôi hết xuống dòng nước.

Bấy giờ tôn giả Ca Diếp có hai người em. Người thứ nhất tên là Na Đề Ca Diếp và người út tên là Ca Da Ca Diếp. Mỗi người đều có 250 đệ tử, ở trong các ngôi nhà lá, gần bên dòng sông. Họ thấy các y phục, đồ vật lặt vặt, dụng cụ thờ lửa trôi bập bềnh dưới dòng nước. Hai người em kinh ngạc, sợ anh mình và các đệ tử bị người ta giết hại, họ cùng các đệ tử theo dòng nước mà đi lên, thì thấy thầy trò của anh mình đều làm sa môn. Họ kinh ngạc hỏi rằng:

- Đại huynh tuổi lớn, tró tuệ cao vút, nha vua và nhân dân đều kính thờ. Theo ý của chúng em thì anh đã chứng La-hán rồi, sao lại bỏ đạo Phạm chí, học pháp sa môn? Đây không phải là việc nhỏ. Không lẽ đạo Phật là tôn đức, cao qúi sao?

Tôn giả Ca Diếp đáp:

- Đạo Phật tối thắng, pháp môn vô lượng, song thế học của ta chưa có ai đắc đạo, thần trí như đức Phật được.

Hai người em của tôn giả nghe điều đó, họ đều bảo các đệ tử:

- Chúng ta muốn theo anh của ta, còn các ngươi thì thế nào?

Năm trăm người đệ tử của họ đều nói:

- Xin làm như đại sư. Họ đều đến chổ đức Phật đảnh lễ cầu xin làm sa môn.

Đức Phật bảo:

- Thiện lai Tỳ kheo!

Họ đều thành sa môn. Bấy giờ đức Như Lai cùng một ngàn vị Tỳ kheo tăng đi đến ngồi ở dưới gốc cây của khu rừng lớn ở Ca Da Tất. Ngái nhập Tam muội, bỗng nhiên biến mất. Từ phương Đông đến, biến mất ở dưới gốc cây. Ở phương Tây cũng lại như vậy, nhảy lên đứng trên hư không mà vẫn không rớt, trong thân phun ra lửa, nước, lên xuống tự do.

Các Tỳ kheo ngẩng đầu vui sướng mà không hay biết. Đức Như Lai trở về ngồi lại chổ cũ mà chẳng ai hay.

Các Tỳ kheo vui mừng, đến trước đảnh lễ dưới chân đức Phật rồi thối lui, bạch đức Phật:

- Sự thị hiện ấy gọi là gì?

Đức Phật bảo các Tỳ kheo:

- Đó gọi là thần túc thị hiện, còn có tên là giáo thọ thị hiện. Các Tỳ kheo hãy lắng nghe hành động của thân ý và thức, do vì nhiễm trước. Nên nay vì chỉ rõ bộ phận. Cho nên gọi là giáo thọ thị hiện. Lại có tên là thuyết pháp thị hiện. Các Tỳ kheo hãy lắng nghe: - Vì tự yêu sách cho nên bị suy tổn. Sáu tình đắm đuối nên bị suy tổn. Vì bị suy tổn mãi cho nên sanh ra khổ.

Sao gọi là khổ sanh?

Vì lửa dâm, nộ, si, phát khởi liền có sự đau nhức, sự sợ hãi già, bệnh và chết. Do đó phải dùng thuyết pháp thị hiện.

Đức Phật ba lần thuyết pháp như vậy, khi ấy một ngàn vị Tỳ kheo lậu chấm dứt, vọng không còn, tất cả đều chứng quả A La Hán.

Đức Phật nói bài tụng này cho các Tỳ kheo:

- Hôm nay ngàn Tỳ kheo

Trưởng lão có tôn đức

Bỏ tà tu chánh kiến

Vô tưởng nhập thiền huệ.

Khi đức Phật nói pháp này, Thiên, Long, Quỷ, Thần, không ai mà không thích nghe.

4. – PHẨM ĐỘ VUA BÌNH SA.

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn đến La Duyệt Kỳ để độ cho vua dân nước này. Ngay hôm ấy, vua nước La Duyệt Kỳ bảo sứ giả đi đến chổ đức Phật, hết lòng cung kính, đảnh lể xong thưa rằng:

- Quốc vương Bình Sa, cúi lạy trước đức Phật, thân cận, thừa sự đức Thế Tôn, bậc thành đạo hiệu là Phật, nên chư thiên, nhân các loài, vui mừng được gặp Ngài, cúi mong đức Thế Tôn, đem lại lợi lạc khương ninh, mong Ngài dủ lòng che chở, quan tâm đến nước quê mùa của chúng con. Chúng con đang khao khát sự giáo hóa, để được phát khởi và tăng trưởng đạo tâm. Mong Ngài xót thương chúng sanh, làm cho mọi người được giải thoát.

Đức Phật bảo:

- Này các Tỳ kheo! Các ngươi hãy mau chuẩn bị chu đáo, nhà vua mời đến.

Các Tỳ kheo vâng lời, chuẩn bị xong, đi theo đức Thế Tôn. Sứ giả chạy đến bạch đức Phật:

- Xin Ngài hạ cố dẫn theo một ngàn vị Tỳ kheo tăng. Nay theo Tu Đa La, đến dưới gốc cây, cách thành 40 dặm.

Nhà vua trước đó ra lệnh:

- Nếu đức Phật vào nước, chúng ta phải tự mình đi ra nghinh rước, người nào nghinh rước Ngài phước đức vô lượng. Nhà vua liền ra lệnh chuẩn bị một ngàn cổ xe, một vạn con ngựa, bảy ngàn người tháp tùng. Khi đã chuẩn bị xong, nhà vua lên xe, ra khỏi cung, đi đến thành, nhưng lúc đó cửa thành tự đóng lại, làm cho xe ngựa bị cản trở. Nhà vua hết sức kinh hãi, lo sợ có đại hoạn nói rằng, ta có trọng tội nên mới có họa này.

Khi ấy ở trên không trung có tiếng nói:

- Bổn nguyện của nhà vua là nếu được làm người, thì thả người bị giam trong ngục ra.... Vì lời thề ấy rất quan hệ, nên làm cho cửa thành đóng lại. Bây giờ Ngài hãy ân xá giải phóng tất cả tù nhân, thì cửa thành sẽ tự mở, được đến chỗ đức Phật...

Nhà vua từ xa trông thấy đức Như Lai, tướng tốt rạng ngời, liền xuống xe, bỏ kiếm xuống, đức Phật biết bản tánh của vua Bình Sa vốn kiêu mạn, cang cường, cống cao, nê Ngài muốn mau giải hóa nhà vua và các quan theo hầu về nghi thức ăn mặc. Nếu vua Bình sa quay lại nhìn thì thấy các quan theo hầu, in như mình không khác. Nhà vua sợ Phật không biết điều đó, nên đầu mặt lạy dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên mặt ba lần. Lạy xong nhà vua tự trình bày:

- Con là Bình Sa, vua nước Ma Kiệt Đề.

Nhà vua nói như vậy cho đến ba lần. Đức Phật bảo nhà vua:

- Ta chỉ chiếu soi tâm của vua, cần gì hình dáng.

Nhà vua hết sức vui sướng, lui về chỗ ngồi. Quần thần thứ dân đều hết lòng cung kính đối với đức Phật, trong đó có người đến đảnh lễ, có người tự xưng tên họ, có người đến trước đức Phật chấp tay vái chào. Họ đảnh lễ xong thì đứng.

Đức Phật bảo họ đều ngồi xuống, họ vâng lời ngồi xuống.

Đức Phật bảo vua Bình Sa:

- Nhờ phước đời trước của vua nay được tăng trưởng lợi ích, khiến cho nhân dân trong nước của quốc vương, trung hiếu, giàu có, an vui, không lo lắng, được phước che chở, có đức tốt không có điều gì bất lợi.

Trong chúng hội có điều nghi là tôn giả Uất Kỳ Ca Diếp danh tiếng, sớm thành đạt, nay cùng ở với đức Phật, vậy ai là thầy?

Đức Phật quán sát tâm niệm quần chúng, Ngài liền bảo tôn giả Ca Diếp:

- Nếu co người sát sanh để tế tự, mong cầu được phước, người ấy có được phước không? Kẻ đi vào trong núi cầu đạo mà không có thầy, vậy người ấy có đắc đạo chăng?

Tôn giả Ca Diếp bạch đức Phật:

- Kẻ sát sanh để tế tự thì không có phước, vì thiên thần không chứng, kẻ sát sanh phải bị tội. Người học đạo mà không thầy thì không bao giờ thành đạo.

Tôn giả Ca diếp bạch đức Phật:

- Trước đây con thờ lửa, ngày đêm không giải đãi, cần khổ nhiều năm. Các đệ tử giỏi có đến 500 người, đốt lửa một cách tinh nhuệ, không kể trời lạnh hay nóng. Nay con tuổi già, các căn mòn mỏi, không còn thấy rõ nữa. Người trước đã truyền điều không thật cho kẻ hậu sanh, tự gọi đó là đạo, chỉ luống khổ mà không được quả báo. Nay con được Phật dạy, tẩy rữa sự ô uế của tâm, con đã được La Hán.

Đức Phật bảo tôn giả Ca Diếp:

- Nay ngươi hãy hiện thần túc của La Hán.

Tôn giả vâng theo lời dạy của đức Phật, liền nhập định, thân bay trên hư không, cách mặt đất mấy trượng, ở eo lưng trên bốc lửa, eo lưng dưới phun nước, lại từ eo lưng trên phun nước, eo lưng dưới bốc lửa, dùng nước rưới lửa, làm cho y khô không bị ướt, đứng trên hư không, hiện sự biến hóa, bảy lần hiện, bảy lần ẩn, hào quang từ trong thân phóng ra, năm màu rực rỡ, bay từ phương Đông đến, rồi biến mất trước tòa của đức Phật, bốn phương trên dưới cũng hóa hiện như vậy. Khi biến hóa xong, tôn giả liền chấp tay, quỳ xuống bạch đức Phật:

- Đệ tử Ca Diếp, mong nhờ từ ân của đức Phật, giải thoát sự trói buột của tội lỗi. Đức Như Lai rất tôn quý, ba cõi đều cúi lạy.

Đức Phật nói bài tụng này cho tôn giả Ca Diếp:

- Nếu người sông trăm tuổi
Thờ lửa tu dị thuật
Không bằng theo chánh đế
Ánh sáng chiếu tất cả.
Nếu người sông trăm tuổi
Học tà, tâm không thiện.
Không bằng sống một ngày
Siêng năng thọ chánh pháp.

Nhà vua và quần thần mới hay tôn giả Ca Diếp là đệ tử của đức Phật.

Đức Phật bảo vua Bìng sa:

- Con mắt của người trong thiên hạ, không chỉ thấy sắc là khổ, lạc, vô thường thân mạng không trường cửu. Ý của người trong thiên hạ có nhiều điều ác, ít điều thiện, tư tưởng ngổn ngang vạn mối, ý thích chạy theo dục, nếu có thể bỏ được tâm ý đó thì có thể đắc đạo, công đức ngang bằng Ca Diếp. Đừng nên vì sự giàu có mà buông lung tình ý, đừng nên tự do tham dục, không nhàm chán, đừng nêm vì mình mạnh mà xâm lấn kẻ yếu đuối, đừng nên vì sự tức giận mà giết càng kẻ không có tội, đừng theo tâm dâm, đừng theo tâm tham, đừng theo tâm sân, phải bỏ điều ác, theo điều lành, hãy tin dùng lời chân thật, hãy nghĩ đến sự nguy kịch của sự chết, sự bệnh khổ, suy nghĩ những hành động của mình, cũng có thể được thần túc của tôn giả Ca Diếp. Nếu mắt thấy sắc, tâm phải kiềm chế, sắc đẹp hay xấu tâm vẫn không động, tai nghe các thứ tiếng, tâm phải kềm chế, đừng có mừng hay giận, mũi ngửi mùi thơm, mùi thối, tâm phải chế phục đừng có đắm trước, miệng ăn các vị, tâm phải kềm chế, không khởi các tưởng, thân mặc các y phục đáng ưa thích, phải kềm chế tâm, thức không dựa vào các vật bên ngoài của ngũ ấm, phải lấy tâm kềm chế, sáu tình vô chủ, ấm suy vô danh, công đức của tôn giả Ca Diếp, nhờ tu như vậy mà được. Thân hình của con người phần nhiều cảm thọ ưu sầu, khổ não, bị đói khát lạnh nóng bức bách. Kẻ ngu chấp đó là vui, người trí cho đó là khổ, vợ con vinh lợi người đời mê hoặc, phàm các việc ấy, đều phải phân tán, ngàn năm, vạn năm đều bị hủy diệt. Đức Phật nói bài kệ này cho vua Bình Sa:

- Kẻ hướng dẫn thế gian
Theo chánh, không cuồng bạo
Dẫn đường chỉ lễ nghi
Pháp vua là như vậy
Thương yêu, tha kẻ chánh
Nhơn ái làm lợi người
Có lợi phải chia đều
Như vậy, dân thân cận.

Đức phật hỏi vua Bình Sa:

- Từ lúc nhà vua tạo lập cung điện đến nay được bao nhiêu năm?

Nhà vua quay lại hỏi một vị thần bên cạnh, vị cận thần thưa:

- Từ lúc tạo lập cung điện đến nay là bảy, tám trăm năm.

Đức Phật hỏi các vị cận thần:

- Đã trãi qua bao nhiêu đời vua?

Thưa rằng:

- Hơn 20 đời vua.

Đức Phật hỏi vua Bình sa:

- Nhà vua có biết hết các vị vua ấy không?

Vua Bình sa đáp:

- Chỉ biết cha của con thôi, còn các vị khác thì không biết.

Đức Phật bảo vua Bình sa:

- Chỉ có đất là thường còn, con người là vô thường. Vì tự thương thân mình, nên đừng sát hại kẻ khác, không nên phỉ báng người có đạo. Sự sanh tử của chúng sanh đều do ân ái mà có. Cha mẹ tự nói: - Nó do tôi sanh, nó là con của tôi. Song người con không phải do cha mẹ mà có, bởi vì kẻ ấy đời trước giữ giới đầy đủ nay mới được làm người, nếu kẻ ấy làm hạnh ác, sau khi chết phải đọa vào địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Chúng sanh do hành động sanh, chứ không do ai sanh cả, tội phước rất rõ ràng, nhà vua phải suy nghĩ kỷ điều đó.

Đức Phật bảo nhà vua:

- Nếu đứa con ở trong bào thai hoặc bị đui hay điếc thì người mẹ có biết trước được không?

Nhà vua thưa:

- Thật không biết được.

Đức Phật bảo:

- Đó là do hành động tội ác đời trước của đứa bé này, mới bị như vậy, chú không phải là lỗi của cha mẹ. Nếu đứa bé ở trong bào thai là vị Thánh Minh, thì người mẹ cũng không dự biết được. Đó là do hành động hoàn toàn thanh tịnh đời trước của đứa bé tạo nên, chứ không phải năng lực của cha mẹ mà được như vậy.

Lấy lý đó nghiệm thấy rõ ràng, nhà vua hãy khéo suy nghĩ. Người đời bị tội là do hành động của ba chổ: Miệng nói lời hại người, thân hành động giết hại tàn bạo, tâm chuyên ganh tỵ. Nếu ai có thể bỏ được ba hành động ấy thì tuy chưa thể đắc Nê-hoàn liền, nhưng vẫn được ở trên cõi trời, nhân gian hưởng được sự phú quý, tự do, cội gốc là ở con người mà ra. Do si mà có thân hình, do thân hình mà có tình, do tình nên sanh ra thức, do thức sanh ra dục, do dục mà có cha mẹ, do cha mẹ sanh ra ân ái, do ân ái sanh ra ưu bi, qua lại trong năm đường, không bao giờ dừng nghỉ. Con người cũng không biết được sanh từ đâu mà có, chết đi về đâu, không biết được cội nguồn các tướng danh tự, nói rằng: - Đây là cha, đấy là con. Chỉ có người đắc đạo mới biết được cội nguồn của nhân duyên sanh tử là bắt gốc từ si mà có, nên tất cả đều vô thường. Đại vương hãy thọ trì.

Đức Phật bảo vua Bình Sa:

- Nếu có những người lành cẩn thận, hiếu thuận, khiêm trinh, kỉnh nhường, tài cao, trí rộng, ở trong nước, không phạm pháp của vua, nhưng không phải là quý tộc, nhà vua có đối xử khác nhau chăng?

Nhà vua thưa đức Phật rằng:

- Nếu ai có tên tuổi hiển đạt, con sẽ chọn tùy theo khả năng mà phong chức.

Đức Phật bảo:

- Này Đại vương! Đạo pháp không có người thân, chỉ có việc thiện là giúp đỡ, thành thật giữ 5 giới, gọi là Thanh tín sĩ, tinh tấn tu chơn, thấy chơn đế không thối lui, liền đắc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Tất cả đều nhờ bổn tâm, quả vị của đạo đó thì theo thứ lớp.

Khi đức Phật dạy như vậy, nhà vua cùng một vạn hai ngàn người ở trong nước, tám vạn chư thiên đều thấy dấu vết của đạo.

Đức Phật bảo vua Bình Sa:

- Nhà vua đến đây đã lâu, vậy hãy mau trở về cung, trâu ngựa và các người tùy tùng vì đứng lâu nên đã mỏi mệt, để ngày hôm sau ta sẽ đến thành.

Nhà vua đứng dậy đảnh lễ đức Phật thọ giới rồi thối lui, quần thần và các quan theo hầu, vui vẻ đến phía trước để thọ giới, ngay lúc nhà vua và quần thần thọ 5 giới thì người và ngựa, trong và ngoài đều im lặng không có tiếng động, Các Bà la môn đều được cảm hóa, tâm phục, đều đến phía trước để thọ giới, rồi hoan hỷ lui ra.

Nhà Vua lên xe xong, quần thần quỳ xuống chúc mừng công đức của Đại vương nên được gặp đức Phật xuất thế, nên khiến cho quần thần được tắm gội trở thành thanh tịnh.

Vua Bình Sa trở về cung ra lệnh nội cung, giữ tai trì giới, mọi người trong nước đều tín hiểu, hoan hỷ. Thiên Đế Thích ở cung trời Đao Lợi, dùng hoa rãi lên trên đức Phật.

Bấy giờ ở trong toà, có một trưởng giả giàu có tên là Ca Lan Đà, trong tâm suy nghĩ: "Thật đáng tiếc, khu vườn của ta đã thí cho Ni Kiền. Ước gì đức Phật đến trước, ta sẽ cúng cho đức Phật và Tăng. Trưởng giả hối hận vì đã bố thí trước,vĩnh viễn bị bỏ đi. Trưởng giả chí tâm, nằm trên giường mà không yên. Nhờ phước đời trước của trưởng giả theo đuổi, phước đức ứng hiện đầy đủ. Lúc ấy có Đại quỷ tướng quân tên là Bàn Sức, vâng theo thần chú của đức Phật, biết tâm niệm của ông ta, liền gọi Duyệt Xoa xua đuổi Ni Kiền: "Lõa mình không biết xấu hổ, không được ở trong vườn.".

Quỷ Bàn Sức vâng lệnh, lấy chày đánh Ni Kiền, lôi kéo đồ vật, Ni Kiền hoảng sợ bỏ chạy nói rằng:

- Người ác nào đây mà ác độc như vậy?

Quỷ Bàn Sức nói:

- Trưởng giả Ca Lan Đà sẽ đem vườn trúc này làm tinh xá cho đức Phật. Ta là Đại quỷ tướng quân Bàn Sức, được lệnh đuổi ngươi đi.

Sáng sớm, Ni Kiền đi đến chổ trưởng giả, rất phiền trách, tại sao vô cớ đổi ý bố thí, khiến cho bọn chúng ta chẳng biết phải ở đâu? Đó là trưởng giả thấy sự khốn đốn của ta như vậy.

Trong tâm của Ca Lan Đà hết sức vui sướng vì nguyện của mình đã thành tựu. Đức Phật che chở cùng khắp, thấy sự chí tâm của ta, liền đáp với Ni Kiền:

- Các quỷ sứ ấy cường bạo, sân hận, e rằng họ sẽ làm hại Ngài, chi bằng Ngài hãy bỏ đi để tìm chổ an ổn mà ở.

Ni Kiền uất hận, ngay ngày hôm đó tức giận bỏ đi. Trưởng giả vui mừng, liền tạo lập tinh xá, tăng phòng, tọa cụ, thảy đều trang nghiêm đầy đủ, đi đến dưới cây thỉnh Phật và tăng chúng, thọ thí rồi đến đó an trụ, để một thời sư hóa đạo được rộng khắp, không ai mà không được hoan hỷ.

5.- PHẨM XÁ LỢI PHẤT, ĐẠI MỤC KIỀN LIÊN ĐẾN HỌC ĐẠO.

Đức Phật ở tại Tịnh xá Trúc Viên, nước La Duyệt Kỳ, cùng đông đủ một ngàn vị Tỳ kheo tăng, đều là bậc Ứng chơn (La Hán) như Uất Tỳ La .v.v.. trong đó có một người tên là Na La Đà. Ngày xưa có một Phạm chí tên là Sa Nhiên. siêng tu hạnh tiên, một thời gian lâu mới thâu nhận đệ tử, là Thích Tiên Đạo, gồm có 250 người. Trong số môn đồ ấy có hai người đạo cao kỳ túc, khó sánh kịp. Một người tên là Ưu Ba Thế, người thứ hai tên là Câu Luật Đà, tài trí thâm đạt, nghiên cứu tinh thông. Khi Sa Nhiên bị bệnh biết mình sắp chết mới bảo hai người học trò giỏi:

- Các người mới học này, chỉ có đạo hạnh, mong hai con, hãy làm cho chí họ được vẹn toàn.

Hai người kính cẩn vâng lời, thọ giáo phụng hành.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Tỳ kheo Át Bệ:

- Ngươi hãy đi tuyên hóa giáo pháp, đến chỗ người có thể hóa độ, người có thể thấy đạo, trí huệ của họ minh đạt. Ngoài đức Như Lai ra, không ai có thể nghị luận cùng họ. Nếu gặp những người ấy, hãy nói điều căn bản của pháp, đừng có đối đáp với họ, để bị cười chê.

Tôn giả Át Bệ vâng lời, sửa lại y, cầm bát, đảnh lễ đức Phật rồi ra đi. Khi ấy Ưu Bà Thế cùng các đệ tử cùng đi du hóa, từ xa trông thấy tôn giả Át Bệ ăn mặc khác thường mới hỏi:

- Ngài từ đâu đến? Thầy Ngài là ai, co thể nói cho tôi nghe được chăng?

Lúc ấy tôn giả Át Bệ đáp lại bằng bài kệ:

- Tuổi ta hãy còn nhỏ
Học đạ0 chẳng bao lâu
Sao nói pháp chí chơn,
Nghĩa rộng lớn Như Lai?
Gốc tất cả các pháp
Nhân duyên, không, vô chủ
Dứt tâm đạt cội nguồn
Nên gọi là sa môn.

Ưu Bà Thế mới nghe nghĩa của pháp, liền suy tư thấy rất đúng lý, mà tự nghĩ rằng:

- Lúc nhỏ, ta đã ham học, lúc 8 tuổi theo thầy cho đến 16 tuổi, từ đạo thuật đến cổ tiên, không sách nào mà ta không quán xuyến. Trong 16 nước lớn, gọi ta là bậc biết rộng, nhưng ta chưa từng nghe được ý nghĩa chơn chánh trọng yếu này. Nay tình cờ du hóa lại gặp được kho tàng quý giá này. Lời nói ấy vi diệu, ngon như cam lồ, làm cho tâm khai ngộ, ý cởi mở, liền được pháp nhãn. Ông trở về tinh xá, trong lòng hết sức vui mừng.

Câu Luật Đà thấy nhan sắc của vị này hân hoan, nghi là đã được cam lồ, liền hỏi Ưu Bà Thế:

- Bạn đã được pháp cam lồ rồi chăng? Vậy bạn chớ quên lời thề trước, hãy an cho tôi một chút.

Ưu Bà Thế nói cho Câu Luật Đà nghe một cách đầy đủ về bài kệ mà mình được nghe, rằng nghe qua thì tôi không hiểu, vị ấy nói lại lần thứ hai thì tôi hiểu, tôi liền suy tư phản chiếu nên được pháp nhãn.

Lúc ấy hai người nghị luận rằng:

- Nguyện ước xưa nay mong được cam lồ, nay đã được uống, vậy chúng ta hãy cùng nhau đi đến chỗ đại sa môn, nhảy vào trong biển thâm sâu của vị ấy, tắm rửa cho được thanh tịnh.

Khi nghị luận xong, hai vị đồng tâm chuẩn bị lên đường. Bấy giờ Câu Luật Đà suy nghĩ:

- Thầy của ta lúc lâm chung, phó chúc các đệ tử, bảo ta phải tế độ cho họ thành đạo. Nay ta lại bỏ mà đi, thấy lòng không nở, liền bảo các đệ tử:

- Bậc Đại sa môn kia, có vị cam lồ của tiên, hóa giải lưới bại hoại của thế tục, làm cho tâm đình chỉ, hạnh tịch tịnh. Ta muốn đến vị ấy để học hỏi chổ u vi cùng tột để trở về với chơn tâm, vậy các ngươi muốn đi đâu?

Các môn đồ thưa:

- Nay được nghe thấy điều gì, thì đó là ơn của đại sư. Nay đại nhân đã kính ngưỡng tôn thờ vị nào, chúng con cũng xin vui sướng vâng theo, ưa thích vị ngọt cam lồ, xin theo cùng thầy.

Vì chí nguyện của thầy trò hợp nhau, họ liền lên đường đi đến Trúc Viên.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo:

- Nay có hai hiền giả, cùng các đệ tử, nhờ hạnh nguyện xưa, muốn làm sa môn, đó là nhà công đức của tôn giả Át Bệ vậy.

Các Tỳ kheo nghe đức Phật nói, thì thấy họ đang đi đến.

Ưu Ba Thế và Câu Luật Đà.v.v... từ xa trông thấy đức Như Lai, tướng tốt chói sáng, tinh thần chấn động, liền tự khen rằng:

- May mắn thay, chúng ta được tôn thờ những lời dạy bảo của bậc thanh tịnh, thật là vinh hạnh khó nói.

Họ đến phía trước, đầu mặt lạy đức Phật. Lạy xong, trong lòng họ càng thêm vô lượng hoan hỷ. Rồi họ tiến lên, trình bày đầy đủ tấm lòng của họ rằng:

- Bọn chúng con bị tội lỗi che lấp, trôi theo dòng nước mà vào hố thẳm. Mãi đến hôm nay, ngược dòng trở về nguồn. Ngưỡng mong đức Phật chấp nhận cho chúng con được vào hàng tăng chúng.

Lúc ấy đức Phật liền chấp nhận, râu tóc của họ từ rụng đều thành sa môn. Đức Phật bảo các Tỳ kheo:

- Hai người này, nguyện đối với vị cổ Phật, chờ khi ta thành đạo, làm kẻ hầu cận hai bên. Đức Phật nói Ưu Ba Thế hiệu la øCAO THẾ. Có hoa mà không có trái, nên tên thật của người là Xá Lợi Phất. Còn Câu Luật Đà đổi tên lại là Đại Mục Kiền Liên.

Nhân nghe đức Phật thuyết pháp, hai vị liền đắc quả La Hán.

Đức Phật bảo thị giả nói với các vị Tỳ kheo:

- Đừng nên kiết giới, không được đi hai người, chừng nào tăng chúng được 1.250 vị đức Phật mới kiết giới.

Đức Phật kiết giới xong. Các Tỷ kheo hoan hỷ, thảy đều cung kính, đảnh lễ Phật rồi lui ra .

6.- PHẨM TRỞ VỀ BỔN QUỐC.

Bấy giờ đức Như Lai sắp trở về Xa Di cùng với chúng đại Tỳ kheo tăng, đều là bậc ứng chơn (La Hán) tinh thần tĩnh lặng, thông suốt những điều vi tế, hiểu rõ hạnh nghiệp ba đời của chúng sanh. Đó là hiền giả Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Uất Tỳ Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Già Da Ca Diếp .v.v... gồm 1.250 vị.

Khi ấy vua Duyệt Đầu Đàn của nước Ca Duy La Vệ bảo Phạm chí Ưu Đà Da đi đến Trúc Viên, thỉnh đức Phật về nước.

Bấy giờ Ưu Đà Da thấy đức Phật tướng tốt, chiếu sáng đất trời, nên trong tâm rất hoan hỷ, đầu mặt lạy dưới chân đức Phật rồi đứng qua một bên, tâm ý ngay thẳng, quỳ xuống bạch đức Phật:

- Đức phụ vương từ xa gởi lời vấn an Tất Đạt, nghe Ngài thành đạo, lại cứu độ tất cả, riêng đức phụ vương chưa được mong nhờ, vậy Ngài hãy trở về. Do đó hôm nay sai sứ giả đến thỉnh Ngài.

Đức Phật hỏi Ưu Đà:

- Sức khoẻ của phụ vương có bình yên chăng?

Ưu Đà thưa:

- Đại vương không sao cả, chỉ nhớ đến Thế Tôn thôi.

Đức Phật hỏi Ưu Đà:

- Ngươi có thích đạo của ta chăng?

Ưu Đà thưa rằng:

- Con rất thích, bạch Thế Tôn .

Đức Phật chấp nhận cho Ưu Đà làm sa môn, và truyền trao giới pháp. Ưu Đà tự nghĩ: "Nay là đệ tử, làm sao có điều kiện trở về, đức vua đang chờ tin tức, vậy ai báo tin?.

Đức Phật biết tâm niệm của Ưu Đà, muốn trở về. Đức Phật dạy:

- Chớ thân cận sự nghiệp thế gian, tham đắm cửa nhà.

Ưu Đà bạch Phật:

- Đức Phật sẽ về nước Xá Vệ chứ?

Đức Phật đáp:

- Sẽ về!

Ưu Đà vâng lời Phật dạy quỳ xuống bạch đức Phật:

- Không rõ ngày nào đức Thế Tôn sẽ về?

Đức Phật bảo Ưu Đà:

- Sau 7 ngày nữa ta sẽ đến Xá Di!

Ưu Đà hoan hỷ đảnh lễ đức Phật rồi lui về. Bấy giờ Ưu Đà Da trở về đến Xá Di, đến cung nhờ thông báo. Người giữ cửa liền tâu với vua:

- Sứ giả Ưu Đà đã trở về ở ngoài cửa cầu xin yết kiến.

Nhà vua ra lệnh cho vào để hỏi tin và nói:

- Ta mong Ưu Đà như người khát nước mong được uống. Sao lại ngăn cản, rồi mới xin thông báo cho đến 3 lần, rồi mới đến trước?

Nhà vua thấy Ưu Đà đã mặc pháp phục, nên hỏi Ưu Đà:

- Khanh làm sa môn rồi sao?

Ưu Đà thưa:

- Thần đã thọ giáo pháp của đức Phật .

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Tất Đạt khi ở trong cung, chỉ có khanh là thân nhất, khi ra khi vào quấn quít bên nhau, không bao giờ thưa hỏi người giữ cửa. Nay ngươi trở về, sao lại đứng bên ngoài cửa nhờ người thông báo?

Ưu Đà thưa với vua:

- Đức Phật dạy Tỳ kheo đừng nên gần gũi người bạch y, quyến luyến nhà cửa, vì đạo và tục phải khác nhau .

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Con của ta lúc ở trong cung y phục tuyệt đẹp, nay đã thành đạo, mặc y phục như thế nào?

Ưu Đà chỉ cái y mình đang mặc, nói rằng hiện nay Ngài mặc y phục như vậy.

Nhà vua liền rơi nước mắt nói rằng:

- Tất Đạt khi ở nhà, ta đã làm cung điện cho tái tử, có bảy báu chạm khắc tuyệt hảo trên thế gian. Nay nhà cửa của thái tử như thế nào?

Ưu Đà thưa nhà vua:

- Ngài thường ở dưới gốc cây. Đạo pháp của chư Phật Thế Tôn đều như thế.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Con của ta khi ở trong cung điện đệm chiếu êm ấm, đẹp như gấm thêu, mềm mại. Nay tọa cụ của Thái tử như thế nào?

Ưu Đà tâu với vua:

- Ngài lấy cỏ làm tòa, giữ tâm trong sạch, để trừ lòng tham.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Khi Tất Đạt ở nhà, ta cho người nấu các món ăn ngon ngọt cho Thái tử dùng. Nay Thái tử ăn uống như thế nào?

Ưu Đà tâu rằng:

- Đến giờ thì Ngài ôm bát khất thực ở những chúng sanh có phước. Khi Ngài ăn không chọn món ngon hay dở, Ngài chú nguyện cho thí chủ.

Nhà vua nghe những lời ấy liền rơi nước mắt. Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Lúc Tất Đạt ngủ, nếu ta muốn cho Thái tử thức giấc thì ta cho khảy đàn ca hát, sau đó Thái tử mới thức. Nay ở trong núi sâu, làm sao để đánh thức Thái tử.

Ưu Đà tâu vua:

- Đức Như Lai ở trong Tam muội, bất kể ngày hay đêm.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Lúc con của ta ở trong cung, nếu khi tắm rửa, có tám thứ nước thơm, vậy nay tắm rửa thì dùng thứ gì?

Ưu Đà tâu vua:

- Ngài dùng tám thứ nước giải thoát chơn chánh để tẩy rửa tâm ô uế.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Khi Tất Đạt ở trong nước, dùng các loại hương Chiên đàn, tô hợp để xoa thân, con của ta, nay đã tu đạo thì dùng thứ gì?

Ưu Đà tâu vua:

- Ngài dùng hương Giới, Định, Huệ, huân ướp tám thứ.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Lúc Tất Đạt ở nhà ta ra lệnh làm giường cho Thái tử nằm, toàn bằng bốn thứ báu. Vậy nay Ngài ngồi bằng thứ gì?

Ưu Đà tâu rằng:

- Lấy Tứ thiền làm giường, dứt tâm không dục.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Khi con ta ở trong cung có các vệ sĩ theo hầu. Nay thì ai theo hầu?

Ưu Đà tâu rằng:

- Các đệ tử học đạo của Ngài gọi là Tỳ kheo Tăng theo hầu đức Thế Tôn, gồm có 1.250 vị cả thảy.

Nhà vua hỏi Uu Đà:

- Lúc Thái tử ở nhà, nếu lúc muốn đi dạo, có 4 loại xe là xe trâu, xe dê, xe voi, xe ngựa để Thái tử cỡi. Còn nay lúc đi dạo thì cỡi bằng thứ gì?

Ưu Đà tâu vua:

- Lấy Tứ Đế, Thần túc làm xe phi hành .

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Khi con của ta du hành để tham quan thì có cờ lọng, tết bông làm dù che làm vật trang sức đẹp. Nay thì lấy gì để che?

Ưu Đà tâu vua:

- Dùng 4 ân, từ bi rộng rãi, trang điểm cho chúng sanh.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Mỗi khi Tất Đạt đi ra ngoài thì khua chuông, đánh trống, người đi xem Thái tử đứng đầy đường. Bây giờ khi đi hay ở thì có âm thanh gì?

Ưu Đà thưa với vua:

- Lúc đức Phật mới thành đạo, Ngài đi tới nước Ba La Nại, đánh trống pháp cam lồ, năm anh em của Câu Lân liền chứng La Hán, tám vạn Chư Thiên được nhập Đạo tích, 96 chủng loại, chẳng ai mà chẳng hân hoan kính phục. Cái pháp âm vô lượng ấy vang khắp cả ba ngàn Đại thiên thế giới.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Ngày nay Tất Đạt muốn thống lĩnh nước nào?

Ưu Đà tâu vua:

- Đức Thế Tôn thống lãnh không thể nói được. Ngài giáo thọ chúng sanh không một ai mà không mong được độ thoát. Ngài dùng tâm bình đẳng để tế độ tất cả, chẳng chỗ nào mà không thích hợp.

Nhà vua hỏi Ưu Đà:

- Nếu con ta ở trong nước lo nghĩ việc chính trị, giúp ta an dân, hành động đều thuận với lễ nghi, không ai mà không vâng lệnh. Nay thái tử ở một mình, suy tư những gì?

Ưu Đà tâu vua:

- Đức Thế Tôn suy tư về không, khổ, lạc, phi chơn, cái gì có hình tướng phải trở về không, thần tịnh vô vi.

Nhà vua nghe lời ấy nói rằng:

- Tai họa thay Tất Đạt – Tất cả đều có sao ngươi nói là không? Trái ngược thay Tất Đạt, thật là mâu thuẩn với con người.

Ưu Đà tâu vua:

- Chính vì muốn cho người trí khắp trong thiên hạ, người có trăm cái đầu, đầu có trăm cái lưỡi, lưỡi giải thích cả trăm ý nghĩa.Hợp tất cả nhân loại lại xưng tán đức Như Lai hết một kiếp cũng không thể nói hết công đức của Ngài. Huống chi điều tôi nói chưa được một phần ức, thì ăn thua gì. Chỉ có Phật với Phật thì mới thấy được cái đức ấy rực sáng.

Nhà vua nói:

- Lành thay, đức Phật sẽ đến đây chứ? Ngày nào Ngài mới đến?

Ưu Đà tâu vua:

- Bảy ngày nữa Ngài sẽ đến.

Nhà vua rất vui mừng, liền ra lệnh quần thần rằng:

- Ta sẽ nghênh rước đức Phật, đem theo các nghi vệ hầu hạ, thống nhất chuẩn bị pháp tắc khi Thánh vương đi ra đi vào, sửa sang đường đi cho ngay thẳng, lấy nước hoa rưới trên mặt đất, các ngã tư trong thành đều phải treo tràng phan, tất cả đều trang hoàng, hết sức tráng lệ, xe, ngựa, người theo hầu, trong vòng 40 dặm.

Hôm đó đức Thế Tôn từ Trúc Viên cùng câu hội với Đại Tỳ kheo tăng 1.250 người vào Xá Di, con đường đi dẫn đến một con sông tên là A Lâu Na, khi vượt qua dòng sông đứng trên bờ, với thần thông chiếu soi, Ngài biết rõ sự hưng khởi ác tâm bên trong của Điều Đạt, chắc là khó khai hóa. Nên Ngài hiện thần túc, để cho Điều Đạt phải tín phục. Ngài liền bay lên hư không, cách mặt đất bảy nhẫn, chân Ngài giống như bước trên đất nhưng kỳ thật là Ngài đang ở trên hư không. Đức Phật bảo các Tỳ kheo:

Hãy xem xe ngựa của nhà vua năm màu trang nghiêm và đẹp đẽ, giống nhu Thiên Đế Thích đi dạo.

Bấy giờ mọi người thấy đức Phật và tăng chúng, bước chân trên mặt đất, ngước nhìn dấu chân thì thấy nó ở trên hư không, trên cao dần dần đi xuống, thứ lớp đến ngay chỗ nghênh rước, ngang đầu của con người, làm cho những kẻ cang cường không ai không cúi đầu quy mạng lễ bái. Tuy nhiên chỉ có Điều Đạt khởi tâm ác, nói rằng:

- Người đi học đạo chỉ làm trò huyển thuật, mê hoặc mọi người như vậy. Ta cũng làm huyễn thuật để rộng hóa độ cho mọi người.

Khi ấy đức phụ vương từ xa thấy đức Phật đi đến vừa thương vừa kính. Một là kính đạo, hai là thương con, liền xuống xe voi, cởi kiếm, bỏ lọng, nước mắt ràn rụa, đi đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Ngài nói bài tụng:

- Lúc sanh nhờ phước đức
Ba hai tướng ta lạy
Bóng cây không ngã lạy
Thành đạo lạy lần ba.
phụ vương hỏi:
- Lúc con còn ở nhà
Cỡi voi là xe báu
Nay phải đi dưới đất
Vì sao mà khổ vậy?
Thế Tôn đáp lại:
- Cỡi xe ngựa sanh tử
Nguy hiểm, chẳng lâu bền
Ngồi lên xe ngũ thông
Đi đến đâu cũng được.
phụ vương hỏi:
- Xưa mặc y Thất Bảo
Ngọc ngà hết sức đẹp
Nay cạo đầu , y rách
Sao không biết xấu hổ?
Thế Tôn đáp:
- Xấu hổ vì y phục
Thế y thêm trần cấu
Pháp y chơn nhơn mặc
Dừng tâm là Như Lai.
phụ vương hỏi:
- Xưa dùng vàng và bạc
Các đồ ăn thơm ngon
Nay thì đi xin ăn
Đồ dở làm sao nuốt?
Thế Tôn trả lời:
- Pháp vị là đạo thực
Đói khát nay đã trừ
Thương đời nên khất thực,
Ôm bát, phước chúng sanh.
phụ vương hỏi:
- Xưa ở trong cung riêng
Có cung phi hầu hạ
Nay riêng ở núi rừng
Vì sao không sợ hãi?
Đức Thế Tôn trả lời:
- Trừ bỏ sợ sanh tử
Nay đã nhập bổn vô
Không sầu cũng không vui
Chỗ ở gọi Đạo tràng.
Phụ vương hỏi:
- Khi xưa con ở nhà
Tắm bằng các hương thơm
Nay ở trong núi rừng
Lấy gì để tắm rửa?
Đức Phật trả lời:
- Kho Đạo là ao tắm
Đầy tràn nước Chánh định
Tắm xong hết ba độc

Tam Đạt (Thiên nhãn, túc mạng, lậu tận) rất hoan hỷ.

Bấy giờ vua cha thỉnh đức Phật và Tăng đi vào vườn vua, lấy đó làm tinh xá mãi mãi. Đức Phật vâng theo ý vua, liền vào tịnh xá, ngồi dưới cây Ni Câu Loại, rộng thuyết giáo pháp suốt bảy ngày và không mệt mõi. Người nghe hoan hỷ. Trong đó có người phát tâm đại thừa, có người thích hạnh Bích Chi Phật, có người phát ý La Hán, có người làm sa môn, tất cả tùy theo sự phát tâm như sự tu hành mà đắc đạo. Lúc ấy các người mẹ ở trong thành, đều sanh thiện niệm, thương khóc tự trách:

- Đức Thế Tôn đã về nước, các người đàn ông có phước đức, riêng được thấy Phật. Bọn chúng ta vì tội chướng ngăn che, không được uống pháp vị. Sao lại khổ như vậy?

Đức Phật biết tất cả tâm niệm của những người mẹ, Ngài khen rằng:

- Lành thay, đã sanh tâm tốt muốn được nghe pháp để được thoát khổ thực sự.

Đức Phật liền nói với vua cha:

- Chánh pháp khó gặp, đạo giáo khó được. Vua cha hãy ra lệnh các người mẹ ở trong nước ai thích nghe pháp hãy đến nghe.

Nhà vua liền ra lệnh, ai muốn thấy Phật để nghe pháp thì đến. Lúc ấy các người mẹ ở trong thành, đều vui mừng đi đến gặp Phật lễ bái, rồi đứng qua một bên.

Bấy giờ đức Thế Tôn như điều mong cầu của họ Ngài thuyết pháp làm cho mọi người đều hiểu rõ, đều được pháp nhãn.

Đức vua và nhân dân vui mừng lạy đức Phật rồi thối lui. Khi ấy các Tỳ kheo bạch đức Phật:

- Các người nam nữ, già trẻ ở trong nước Xa Di, nghe đức Phật thuyết pháp, như trong tâm họ mong muốn nên tất cả đều được quả quyết, nhưng Phụ vương cũng có nghe pháp mà không được Ngài ghi nhận là có chứng đắc?

Đức Phật bảo các Tỳ kheo:

- Phụ vương của ta vì ân ái chưa dứt, tình cha con càng lúc càng nồng nên tâm cung kính hưa trọn vẹn, vì vậy mà không chứng đắc .

Sáng sớm đức Như Lai chỉ bảo tôn giả Mục Kiền Liên đi đến cung vua, lên ngồi trên điện. Đức Phật bảo tôn giả Mục Liên:

- Hãy biểu hiện đạo lực của người.

Tôn giả Mục Liên vâng lời, bay lên hư không, bảy lần hiện ra bảy lần biến mất, toàn thân phun nước với lửa, từ trên hư không đi xuống, đảnh lễ dưới chân đức Phật, rồi đứng hầu phía bên trái.

Đức vua cha thấy sự biến hóa tâm ý cởi mở vui mừng, nên ân ái đoạn diệt, bên trong phát tâm cung kính đứng dậy đảnh lễ đức Phật:

- Hết sức tốt lành, thưa Thế Tôn. Đệ tử có công đức mới được như vậy. Oai đức của Nhu Lai khó mà độ lượng. Nhờ vậy vua cha liền phát đạo ý vô thượng chánh chơn.

Bấy giờ vua cha mỗi lần đến chỗ đức Phật, thấy Ca Diếp... một ngàn người, hình thể rất xấu, liền nổi tâm bất bình. Nhà vua nói:

- Các Tỳ kheo này tuy lại có tâm tinh tấn, mà không biểu hiện nơi dung mạo, nên khuyên dòng họ của ta, thích đạo vô vi, bảo họ làm sa môn, lựa chọn những người đoan chánh. Nhà vua liền ra lệnh người trong hoàng tộc sáng mai ội họp ở điện. Mọi người vcâng lệnh đến dự. Nhà vua nói với mọi người trong tộc họ:

- Thầy tướng A Di nói: - Nếu đức Phật không xuất gia sẽ làm Thánh vương, thống l4nh bốn thiên hạ, có thị tùng hầu hai bên, dùng sự đoan chánh để dẫn dắt nhân dân. Nay các đệ tử hình dáng khó coi. Ta muốn lễ bái bậc có đạo, đầy đủ nghi dung để sung thêm vào tăng số, rực rỡ cho đức Thế Tôn.

Mọi người đều nói:

- Hết sức tốt lành.

Mọi người nghe rồi hoan hỷ, lui về sửa soạn, bảy ngày nữa sẽ đi.

Điều Đạt liền bảo hành giả:

- Chúng ta là giòng họ của vua chúa, nay bỏ vinh hoa thế gian, xuất gia sống với đạo, đó là điều tốt đẹp nhất của đời, voi ngựa xe cộ giá trị ngàn vàng, nay chuẩn bị ra đi.

Người đến xem đứng đầy cả đường đi. Khi ấy cái mão và cái khăn vén tóc trên đầu của Điều Đạt tự nhiên rơi xuống đất, trật đường, con voi mà ông ta đang cỡi, 4 chân trãi dài dưới mặt đất, cất tiếng kêu như tiếng chim.

Thầy tướng số đoán rằng:

- Mọi người đều đắc đạo, chỉ có hai người là không tốt.

Tất cả đều đi đến chổ đức Phật, đều làm sa môn. Kẻ cang cường thì được hàng phục, không ai mà không an lạc .

KINH TRUNG BỔN KHỞI

QUYỂN THƯỢNG HẾT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567