Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 3: Những chủ đề chung trong A-Hàm ( phần 6)

25/04/201311:57(Xem: 8577)
Chương 3: Những chủ đề chung trong A-Hàm ( phần 6)
A-Hàm - Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não


Chương 3: Những Chủ Đề Chung Trong A-Hàm (phần 6)

Ni sư Thích Nữ Giới Hương
Nguồn: Ni sư Thích Nữ Giới Hương


THẤT GIÁC CHI THAY CHO KHỔ HẠNH

Kinh A-ma-trú (Trường A Hàm, số 20), Kinh Đa Giới (Trung A Hàm, Phẩm 14, số 181), Kinh Câu-Lâu-Sấu (Trung A Hàm, Phẩm 13, số 169), Kinh Ưu-đàm-bà-la (Trung A Hàm, Phẩm 9, số 104), Đức Phật khuyên các ngoại đạo Vô-nhuế, A-ma-trú thay vì tu tập khổ hạnh thì nên tập hành trì Thất giác chi là bảy cành giác tỉnh để lựa cho con đường tu tập chân chánh mang lợi ích thân tâm trong hiện tại và tương lai. Bảy cành bồ đề gồm có trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, niệm, định và xả.

1) Trạch pháp: là có trí tuệ biết phân biệt thiện hay ác, phải hay trái. Đừng có nhắm mắt làm bừa theo các nhà khổ hạnh khác như đứng một chân, ngày ăn một giọt súp, quỳ chân chổng lên trời, nhịn đói khiến thân thể ốm mòn chỉ còn xương bọc da, khiến thân thể gầy mòn không có lợi ích gì và cứ khư khư cho khổ hạnh là tốt, sẽ được sanh lên cõi trời Phạm thiên, rồi cứ đày đọa xác thân; hoặc cứ sát sanh, cứ trộm cắp, cứ nói dối và nói như vậy là chuyện nhỏ, không ăn thua gì. Cho nên đây trước hết phải có trí tuệ phân biệt, phải trái, chánh tà, thật giả. Nếu ai chủ trương những pháp không lành, những đen tối, ô uế, ác hại thì chúng ta phải vứt bỏ những cái này đi, rồi lựa các pháp lành vi diệu của thánh hiền để tu tập. Phải có trí tuệ phân biệt minh bạch ác và thiện rõ ràng như thế thì là gọi trạch pháp.

2) Tinh tấn: Sau khi minh bạch xấu tốt rồi thì buông những ác xấu đi và theo đường lành chân thật. Tinh tấn loại bỏ khổ hạnh bởi vì nó chỉ khiến thân hiện tại mệt nhọc và không phải là chánh nhân để đưa về cõi an lạc. Thân đau đớn thì tâm không an được, nên một lòng bỏ tà và theo chánh nhân thật sự như Tứ niệm xứ để đưa đến an lạc hiện tại và tương lai.

3) Hỉ: niềm vui mừng hiện lên. Do an định vào điều thiện, hoàn toàn sống với điều thiện buông hết ác nên mừng với việc làm của mình được thành công, mừng vì làm chủ được tâm của mình.

4) Khinh an: giũ sạch được những tà bậy thì toàn thân nhẹ nhàng yên ổn, tiến tu để đến an vui. An định vào những đường thiện mà xả tất cả những xấu ác đi. Nếu tu đúng đường như vậy thì sẽ thấy dấu vết của đạo, sẽ thấy được đường đi; còn bây giờ cứ lo khổ hạnh loã thể hành xác để chịu rét, chịu nóng lạnh, hành hạ cái thân như thế mà cứ đi nói dối, sát sanh, tà hạnh thì giới hạnh thật khiếm khuyết. Tri kiến tức trí tuệ hiểu biết của ngoại đạo bị mờ mịt đi, bởi vì để cái thân hành hạ khốn khổ thì làm sao tỉnh táo. Như vậy, liệu các nhà ngoại đạo có đi về sự khinh an được không?

5) Niệm: Đức Phật vạch đường cho các nhà ngoại đạo thấy như thế và khuyên các ông đừng có bận lòng chuyện Đức Phật chê hay khen. Bây giờ ngoại đạo cứ minh định phải thấy cho rõ đường lối của các ông đi. Nếu thấy đường lối sánh tươi tốt đẹp thì ông cứ niệm tức nhớ đi, nhớ giữ, không được quên. Chứ giờ cứ lo hành hạ cái thân thì cái tâm sẽ bị khốn khổ mờ mịt. Nếu tâm mờ mịt thì trí tuệ không khai. Ngoại đạo cứ đường mê đường tà đi mãi, liệu có bao giờ các ông thoát khổ được không? Nên niệm nhớ như vậy mà theo đường chân chánh của Tứ niệm xứ, Thất giác chi, Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo, vv…

6) Định: Vị tu bảy giác chi này nương vào chỉ (dừng), tức (tắt đi), dừng lại không có làm ác nữa. Không tìm sự an định ở hành hạ thân xác, ở các cách thức làm thân thể đau đớn, không dựa vào các trần bên ngoài mà định an trú vào nội lực bên trong.

7) Xả: là buông xả không nuối tiếc những hạnh vô dụng không đưa đến an lạc thật sự. Giác tỉnh thì ai cũng có, chỉ cần quay nhìn lại thì sẽ tỉnh, tuy nhiên hạnh buông xả sáu trần hay pháp khổ hạnh của ngoại đạo thì tùy công phu từng người, có buông xả, không thèm khát nắm giữ các tà kiến, tà hạnh thì mới mong đi đúng, không uổng phí công phu tu tập.

THẾ GIAN GIẢI

Ngoại đạo nói sa môn Thích Tử có nhiều việc chưa biết. Thế thì tại sao lại gọi là Phật? Nếu là Phật thì phải thông minh sáng suốt mà có nhiều việc không biết thì làm sao lại gọi là Đức Phật được. Đức Phật bảo: “Những việc quá khứ, hiện tại, vị lai nếu không chân chánh, hoặc không đem lại an vui thiết thực thì dĩ nhiên là Như Lai không có đề cập đến, mặc dù ngài là bậc Thế Gian Giải, nghĩa là biết hết tất cả trên thế gian. Từ khi chứng đạo cho đến chứng Niết bàn, Như Lai chỉ nói khi nào phải thời. Như lai chỉ nói những việc chân thật, đúng nghĩa, đúng pháp, lợi ích, không có nói phù phiếm vô dụng và nhất là đã nói cái gì thì làm đúng như lời mình nói. Như vậy, Đức Phật không khuyên chúng ta học những gì trừu tượng mênh mông về thế giới vũ trụ bao la mà chỉ học những gì thiết thực lợi ích cho sự giải thoát khổ của con người.

THOÁT LUÂN HỒI SANH TỬ

Lúc nào chúng ta cũng phải sáng suốt để ý hộ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), đề phòng sán trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đang lôi cuốn chúng ta. Ngay từ ‘xúc’ giữa căn trần là chúng ta phải để ý rồi, chứ nhiều khi đến ‘hành’ chúng ta vẫn chưa nhận được mình. Cả ngũ ấm, năm cái này đi nhanh lắm mà chúng ta cứ nhận là mình từ vô thủy đến giờ cho nên ngũ ấm là mình, mình là ngũ ấm. Tỉnh được ra không phải dễ, vì vậy Đức Phật phải trùng tuyên nói lại hoài trong 2.086 bài pháp thoại A-hàm.

Người học Phật mỗi khi gặp cảnh thuận nghịch, bất luận là vui hay buồn, thay vì đem tâm ra ngoài để ý đến âm thanh việc làm của người khác thì quay tâm trở lại ngó mình. ‘Sắc, thọ, tưởng, hành, thức’ đang nổi lên, chúng ta phải nhận rõ ràng, thấy nó và đừng nhận nó là mình. Như vậy, năm ấm sẽ không có chỗ đứng. Năm ấm là cái không hề có chỉ là tập khí vô minh của chúng ta theo nhân theo duyên hiển lên và tắt ngay. Chúng ta từ lâu không biết để cho năm ấm sai sử, chi phối và khiến cho chúng ta phải đọa địa ngục, làm loài súc sanh, con chó, trâu, gà, vịt hết kiếp này sang kiếp khác, không tỉnh được ra sự nguy hiểm đến trình độ ấy.

Bây giờ chúng ta chịu tỉnh, chịu nghe lời Phật để thoát ly sanh tử, đừng mắc vào bụng mẹ nữa. Chúng ta vừa từ bụng mẹ đi ra đấy thì bây giờ đừng ái nhiễm, tham sân si để mắc vào bụng mẹ nữa. Đức Phật muốn giúp là giúp cho chúng ta hoàn toàn an vui, chứ không phải chỉ có giúp vui tạm thời. Chúng ta giúp cho chúng sanh ăn cơm, uống nước hôm nay thì hôm nay nó đỡ đói, đỡ khát thôi; rồi nó đi đường nó, nó cũng sẽ đói khát ngay mai nữa vì nghiệp lực đói khát của nó. Nó rét, nó bịnh chúng ta cho nó cái áo, cho nó thuốc men nhưng rồi nghiệp lực của nó sẽ lạnh rét và bịnh hoạn nữa. Nghiệp phận của chúng sanh là phải đói kém, bịnh hoạn. Chúng sanh thiếu thốn áo, thiếu ăn trầm trọng, vì nó phải trả cái nghiệp rét và nghiệp đói của nó. Những sự giúp đỡ trên chỉ là những trợ giúp tạm thời mà ý Đức Phật muốn cho chúng sanh khỏi khổ vĩnh viễn, thoát khỏi bịnh đói, bịnh rét, thân bịnh vĩnh viễn. Vì thế, chúng ta phải làm cách nào đó để cho chúng sanh biết đường đi, thoát khỏi nghiệp khổ của nó.

Làm thế nào để thoát khỏi khổ vĩnh viễn? Muốn chúng sanh khỏi đói thì làm thế nào giúp cho chúng sanh khỏi nghiệp đói. Muốn chúng sanh khỏi bịnh thì làm thế nào giúp cho chúng sanh khỏi nghiệp bịnh. Hễ còn thân này thì chúng sanh còn chịu sự chi phối của nghiệp đói, nghiệp bịnh không bao giờ khỏi. Muốn cho chúng sanh vĩnh viễn không đói, không già, không bịnh, không chết thì phải giác tỉnh, học Phật pháp để chúng sanh tỉnh được, ra khỏi được luân hồi. Không còn sanh tử nữa thì nó mới hết khổ. Đây là chỗ trọng yếu của Đức Phật dạy khi giúp đỡ chúng sanh.

Từng lời trong A-hàm đã nói lên dụng ý và lòng từ bi của Đức Phật. Chúng sanh thích ăn ngon, mặc đẹp, thích cải nhau, thích những cái để nó đi vào đường luân hồi. Chúng sanh thích chống đối, xoay sở, mưu mô, hại nhau cũng là những đường đi vào luân hồi. A-hàm chỉ cho chúng ta chuyển tâm niệm đau khổ đấu tranh luân hồi đó thành giải thoát an lạc.

Trong Tứ Thánh Đế dạy muốn thoát khổ luân hồi thì phải biết nguyên nhân của khổ. Ta phải chữa bịnh từ cái gốc thì mới hết được. Thiện lành đưa về sanh tử gọi là hữu lậu. Đây là những thiện lành phàm phu, có phước mà không có tuệ. Quả báo chỉ tạm thời, sanh lên cõi trời đỡ khổ đói kém lạnh rét, hưởng phước, hưởng tuổi thọ lâu hơn cõi người nhưng cõi trời vẫn còn bị sống chết nên là hữu lậu. Phước tuệ đưa ra ngoài thế gian, vượt thế gian, không còn bị sanh tử luân hồi nữa thì gọi là vô lậu nghiệp. Chúng ta muốn hoằng pháp phải học và hiểu Phật pháp phải thật hành cho đúng từ thấp đến cao. Trước hết phải chán cái khổ sanh tử, nếu cứ nắm chặt không chịu rời bỏ chỗ cũ thì làm sao tu tiến, nếu cứ quyến luyến thân và cảnh thế gian thì làm sao mà giải thoát? Phải chán khổ sanh tử để cầu phước tuệ hiền thánh. Thân này già, bịnh, chết bao nhiêu thứ khổ, cho nên chúng ta phải tu tập giới định tuệ, đạt tứ thiền, chứng tam minh và giài thoát. Đó là nấc thang để lên lầu A-hàm. Phải biết chán thân này không có bền, không có thật, cho nên hết lòng sớm bước lên nấc thang hiền thánh.

TINH TẤN TU TẬP ĐỂN ƠN TÍN THÍ

Bất cứ pháp tu nào cũng cần phải tinh cần, không biếng nhác mới thành công. Quán Tứ niệm xứ cũng phải tinh cần không biếng nhác, phải ghi nhớ không lãng quên để diệt trừ các tham ưu. Quán thọ thì khổ để diệt trừ những tham ưu trong đời. Thọ là chúng ta nhận một cái gì bên ngoài vào mình như mắt thấy hình sắc, tai nghe âm thanh, lưỡi nhận vị trần, tay lãnh thọ quà cáp hay tịnh tài, như thế là thọ. Chúng ta cho thọ là vui, nên thích thọ, thọ càng nhiều càng tốt, nhưng Phật bảo thọ là khổ. Làm sao Phật tử cúng tiền, gia đình cho thức ăn, bạn bè tặng kinh sách, chúng ta vui lắm, nhưng Đức Phật lại bảo là khổ. Tiền Phật tử cúng cho chúng ta là chúng ta lãnh thọ tịnh tài. Chúng ta sống trong chùa, Phật tử vác gạo và các thứ đến cúng chùa. Hàng ngày chúng ta ăn cơm, chúng ta thấy thế thì mừng, nhưng Đức Phật bảo thọ như thế là khổ. Thập phương đem vải đến cho chúng ta. Áo mình đang mặc đây là của thập phương tín thí. Cơm và thức ăn là của thập phương tín thí, thế chúng ta là người đi vay nợ. Phàm có nợ thì có sung sướng không? Không sớm thì muộn chúng ta phải trả nợ thôi. Người không nợ thì thảnh thơi, còn người mắc nợ thì phải lo mà trả nợ. Đức Phật đưa chúng ta vào một thế khó.

Đức Phật muốn chúng ta phải sống bằng của thập phương tín thí mà đã nhận của thập phương tín thí thì phải mắc nợ thập phương tín thí. Hiện tại chúng ta là những người đang mang nợ những chén cơm mình đang ăn hàng ngày. Nên chúng ta phải tần tiện trong việc sử dụng tất cả các vật mà thập phương người ta cúng như nước, điện, món ăn, y phục đều là những thứ mình đang vay cả. Nếu chúng ta chưa giải thoát, chưa giác tỉnh, chưa bảo đãm làm hiền làm thánh thì chúng ta còn ở trong đường nguy hiểm. Nếu chưa thoát khỏi đường luân hồi sanh tử thì trở lại làm con trâu kéo cày để trả nợ. Trở lại làm con chó, con gà, con vịt để cho người ta bán lấy tiền để trừ nợ của đàn na tín thí. Ăn của thập phương đó là nợ cơm gạo của tín thí, cho nên chúng ta là những người mắc nợ.

Chư Tổ dạy mỗi một hạt gạo nặng như núi Thái sơn. Núi là nặng lắm mà còn như núi Thái Sơn thì nặng vô cùng bởi vì núi Thái Sơn là quả núi lớn nhất nước Trung hoa tức nhắc cho chúng ta nhớ món nợ này khó trả. Chỉ có một cách trả duy nhất là làm hiền làm thánh, làm A-la-hán, làm Phật thì chúng ta mới có đủ phước đức mà trả cho đàn na tín thí. Còn kiếp sau trở lại làm người thì người mắc nợ này cũng trả nhiều gánh lắm, nợ đông nợ tây nay chuyện này, mai chuyện khác xảy ra cũng khó trả. Nếu không giải thoát thì thường làm các con vật để bán thân trả nợ cho nên nguy hiểm lắm.

Đức Phật dạy chúng ta phải thiểu dục tri túc để bớt mang nợ như xài điện, chúng ta đừng có thẳng tay cứ bật tràn lan ra, hưởng ánh sáng của đàn na tín thí mà không biết đây là mắc nợ mà mình phải trả. Bây giờ chúng ta chưa là hiền, chưa là thánh, chưa giải thoát, chưa bảo đãm thì mỗi món nợ là mỗi nổi nguy hiểm. Sẽ có kiểu phải trả mà trả bằng những cách nặng nề, rồi làm thân những loài vật ấy để trả thì bao giờ lại tỉnh cho ra, để mà còn được học A-hàm để mà nói chuyện giải thoát. Ngay bây giờ được học, được tu đây mà chưa giải thoát thì còn đợi đến bao giờ. Thế cho nên mỗi một chút thọ là mỗi một mắc nợ, nên Đức Phật dạy mặc áo chỉ nên những thứ nào vừa ấm, không cần gì những cao sang, những thừa thải, không nên chứa những cái dư, bởi vì đây là của mắc nợ nguy hiểm lắm. Ăn uống cũng thế, xử dụng các vật hàng ngày cũng thế. Đừng thấy của người ta mang lên chùa cho chúng ta, thế là tha hồ xài bừa bãi. Đâu có biết chính là chúng ta đang xài sự phúc đức của chúng ta. Chúng ta đang uổng phí sự giải thoát của mình, cho nên Đức Phật bảo thọ là khổ. Mỗi khi dùng của thập phương, phải hết sức dè dặt. Bởi vì chúng ta phải thế nào làm hiền làm thánh ngay.

Bậc thánh là các ngài đã tu tập theo những gì Đức Phật dạy ở A-hàm và đã giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Còn hiền là các đệ tử của Phật đang tập tu biết gỡ cởi những kiết sử thói xấu tham sân si, thương yêu, mừng giận, thương lo buồn tủi yêu ghét. Chúng ta chưa là hiền, chưa là thánh, chúng ta chưa đủ phúc đức mà trả nợ thập phương tín thí. Cho nên Phật bảo thọ là khổ, chúng ta phải tập nằm lòng và nhớ những ý này. Thói quen của loài vật là khi thấy cái gì, vớ được cái gì là mừng. Nên loài vật được ăn là mừng, được cái gì vào là mừng, bởi vì loài vật không có trí tuệ để biết rằng có vay thì có trả. Còn chúng ta có trí tuệ học A-hàm, chúng ta hiểu ý Đức Phật dạy, chúng ta tập quan sát thọ thì khổ và nếu biết thọ là khổ thì chúng ta không nên khởi lòng tham khi thọ nhận.

Tập được thói quen không tham thì chúng ta đỡ được biết bao nhiêu chuyện ưu phiền. Tham thì cái gì cũng vơ vào mình mà đã vơ vào thì mở ra đủ thứ khổ nạn. Càng vay càng khổ, càng nợ càng khổ chỉ như người không nợ mới khỏe, mới thảnh thơi. Vì thế, chúng ta hàng ngày phải quán thân bất tịnh, quán nội thân, quán ngoại thân, quán nội ngoại thân. Rồi quán thọ thì khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Tứ Niệm xứ là pháp được Đức Phật nhắc đi nhắc lại rất nhiều trong A-hàm. Tu Tứ Niệm Xứ là chúng ta đang học để trả nợ bởi vì chúng ta đã giải được những tham ưu, yêu ghét trong đời. Chúng ta giải được những vướng mắc ở thế gian, đó là chúng ta có phước, có tuệ.

Chúng ta quán thành tựu được Tứ Niệm Xứ, chứng Tứ thiền, thoát khổ sanh tử. Hễ tỉnh được ra bốn chỗ quán về thân, thọ, tâm, pháp này thì chúng ta sẽ đỡ khổ. Do chúng ta có phước, có tuệ thì chúng ta có khả năng trả nợ, những ai cúng dường cũng sẽ hưởng được phước báu. Cho nên chúng ta không thể rời bốn pháp quán của Tứ niệm xứ này được. Tinh cần không biếng nhác để quán chiếu, hôm nay quán, mai cũng quán, chứ không có lười nhác. Quán rồi thì ghi nhớ không có lãng quên để diệt trừ các tham ưu khổ não trên đời và đền ơn đàn na tín thí.

TRÍ TUỆ LÀ KẾT QUẢ CỦA NHỮNG NGƯỜI CHUYÊN TU

Trong kinh Sa Môn Quả (Trường A Hàm, số 27) kể rằng, một hôm vua A-xà-thế thấy đêm trăng rằm sáng tỏa, vua khởi tâm mong mình sẽ phát trí tuệ sáng tỏa như trăng rằm vậy. Nên vua hỏi các quần thần nên đi tìm vị thầy nào để có thể khai ngộ trí tuệ, Thọ mạng đồng tử mới giới thiệu hiện có Đức Phật cùng 1250 vị đệ tử của Phật đang ngự ở vườn Am-ba của Thọ Mạng đồng tử, nếu nhà vua được thắng duyên nghe Đức Phật giảng thì thế nào cũng được khai ngộ trí tuệ. Vua A-xà-thế cùng với năm trăm phu nhân liền tự mình cỡi voi báu, hướng đến chỗ Phật. Khi đến nơi vua rất ngạc nhiên vì không nghe động tĩnh gì cả, Đức Phật và số đông 1250 vị Tỳ kheo hiện diện thì phải ồn náo rộn rịp, người qua kẻ lại. Vua rất ngạc nhiên và nghĩ rằng chắc Thọ Mạng gạt mình, muốn hãm hại và giao mạng mình cho kẻ thù, nhưng khi tiến vào trong thì thấy Đức Phật và các tỳ kheo uy nghi như pho tượng, im lặng tĩnh tọa, vua khởi lòng khát ngưỡng và kính trọng vô cùng. Vua A-xà-thế cảm nhận được sự im lặng thánh thiện này và vô cùng xúc cảm. Như thế, chúng ta biết thiện căn của vua A-xà-thế đối với Phật pháp rất lớn.

Phong cách của một vị vua thì thường hay nói dõng dạt, như ra mệnh lệnh để tỏ ra uy hùng oai vệ, dũng tướng của một vị nguyên thủ quốc gia, nhưng đàng này vua A-xà-thế thấy chư tăng ngồi an tĩnh thì chính vua tự dè dặt, vội vàng nhẹ bước nói nhỏ. Đó là vua bày tỏ lòng kính trọng sự an tĩnh của chư tăng. Từ đáy lòng vua tin tưởng sự im lặng này là tướng mạo của thánh hiền. Người vua A-xà-thế yêu thương nhất trên đời là thái tử Ưu-đà-di, người con trai cưng nối dõi của vua đang ở triều. Đời của vua là ở trong sự náo nhiệt ồn ào và đông người hầu hạ bảo vệ của chốn cung đình. Bây giờ tự nhiên vua cảm thấy hạnh phúc vô cùng trước sự im lặng này, nên vua khởi lòng hướng đến đứa con trai mà vua yêu thương nhất, mong cho thái tử cũng tập học được sự an tĩnh vi diệu này của chư tăng, vua cầu nguyện: ‘Mong sao Thái tử Ưu-đà-di của tôi cũng chỉ quán thành tựu, như thế này không khác’. Đây rõ ràng là tướng mạo thiện căn của vua A-xà-thế rất hiếm có. Khó có một vị vua nào như thế mà sẳn lòng cho con trai mình hưởng niềm vui vô vi này, trừ các vị vua có tâm đi xuất gia. Vua A-xà-thế biết muốn vào đạo thì cần sự tĩnh lặng của tâm. Tâm và cảnh là hai việc, cảnh an tĩnh là tốt lắm rồi, nhưng điều kiện chính yếu là tâm của mình. Nếu tâm tĩnh lặng thì tự nhiên khai phát nhiều đức hạnh tốt đẹp và cũng phát minh được nhiều thứ khác nữa.

Sau khi đãnh lễ Đức Phật rồi, vua cung kính hỏi Phật: “Như người cỡi voi, ngựa xe, luyện tập binh pháp, cho đến, các loại mưu sinh khác nhau, đều có quả báo hiện tại. Nay đây Sa-môn hiện tại tu đạo, hiện tại có được quả báo không?” Đức Phật trả lời phước báo hiện tại của bậc xuất gia là được mọi người cung kính vì vị ấy tinh cần, chuyên niệm không quên, ưa sống một mình nơi thanh vắng, không buông lung, tu học trong pháp của Như Lai chứng tam minh, diệt trừ các tối tăm, phát sanh ánh sáng đại trí, gọi là lậu tận trí chứng. Đó là quả báo hiện tại của Sa-môn.

Chúng ta thấy vua A-xà-thế thiết thực hỏi quý thầy cô xuất gia đang tu tập hiện nay có lợi ích gì không? Vì phần đông mọi người thích hỏi về việc tu để kiếp sau hưởng quả báo tốt, giàu sang, quyền vị, được về cõi lành, được về cõi trời. Nay vua thấy các thầy tỳ kheo ngồi thiền yên tĩnh rất đẹp, rõ ràng các ngài là các bậc hiền thánh, tương lai các ngài chắc chắn sung sướng nhưng hiện tại thì các ngài được lợi ích gì? Đức Phật trả lời phước báo hiện tại là được sự tôn kính của thế gian. Chúng ta phải có hiển một cái gì đó thiện lành, phải có cái gì đó cao quý thì Phật tử mới tôn kính, chứ không phải khi không Phật tử tôn kính. Phật tử tôn kính là tại vì nơi mình hiển lên một công đức lành, một sự tốt đẹp thì tự nhiên không bắt buộc mà tự trong lòng người ta khởi lên sự cung kính và khiến ngay cả một vị vua thống lãnh cả đất nước cũng phải tôn trọng cung kính đãnh lễ. Như thế để thấy các thầy tỳ kheo đang đi trên con đường thắng thiện tốt đẹp, diệt hết si ám phát sanh đại minh tức trí tuệ lớn, chứng lậu tận trí. Tận là hết, lậu là rơi, khiến cho chúng ta phải rơi xuống, đọa xuống, tức nhờ trí tuệ khiến chúng ta đoạn hết những chủng tử đọa lạc, cho nên gọi là lậu tận trí. Vậy quả báo hiện tại của sa môn là đạt được đại minh. Minh thì có ba minh là thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh, nhưng ở đây đặc biệt nói đến một thứ minh là lậu tận minh.

Trí minh này là tận sạch những lậu. Chúng ta phải sáng suốt lắm mới soi được tâm của mình, biết những tâm sân giận, tham đắm là những cái khiến cho chúng ta phải đọa lạc. Phải là người có trí tuệ mới soi thấy được trong tâm thức của chúng ta, còn những người ngu si kiêu mạn vênh váo tự cao cho là mình hay lắm, tài giỏi lắm, chứ đâu có thấu đáo và thấy được những cái đọa lạc đâu, cho nên đây phải là bậc trí tuệ mới tận được hết những cái lậu, biết đào thải những sai lầm trong tâm mình để tránh những đọa lạc. Trong các thứ minh của bậc thánh, đây chỉ nêu có một cái thôi là lậu tận minh, sự sáng suốt thấy được những cái đọa lạc, tự chừa tự bỏ đi, chứ còn nuôi những sân giận, dối láo mà lại cứ cho là mình phải, mình hay thì như vậy không phải là người có trí tuệ.

Người thật tu là có bao nhiêu cái hay, tốt của mình thì mình ẩn giấu, còn bao nhiêu lỗi lầm sai trái thì bày tỏ để chúng ta sám hối. Người không hiểu đạo thì cho rằng điêu ngoa xảo trá là không sao, miễn chúng ta nói sao để người ta nghe tin mình và mình thu lợi là được rồi, cho nên cứ ấn bừa nói láo, tha hồ ăn trộm; còn các thầy tỳ kheo là các bậc xuất gia thì thật thanh tịnh giải thoát với bao nhiêu thứ sáng suốt, biết được kiếp trước, có trí tuệ thấy được cả cõi trời và địa ngục. Như vậy, quả báo hiện tại của các bậc sa môn là do có an định mà các ngài được khai mở trí tuệ sáng suốt. Trí tuệ này không phải là loại trí tuệ mà chúng ta có thể hiểu được đâu. Khi trí tuệ phát được thì các ngài có thiên nhãn sẽ thấy được từ trên trời cho đến xuống địa ngục. Các ngài có thể thấy những ác nghiệp hay thiện hạnh của từng người đang làm sao và mai đây sẽ sanh về nơi nào. Các ngài thấy thật sự rõ ràng chứ không phải như chúng ta chỉ đọc trong sách, chỉ nói bằng lời nói mà không có lực định. Đó là trí tuệ và đó là quả báo hiện tại của các vị tỳ kheo chuyên tu.

Sau khi, vua A-xà-thế nghe Đức Phật giảng xong bài kinh Sa-môn Quả, vua liền bạch Phật: “Con nay quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin chấp nhận con là ưu-bà-tắc trong Chánh pháp. Từ nay về sau, suốt đời không giết, không trộm, không dâm, không dối, không uống rượu. Cúi mong Thế Tôn cùng đại chúng sáng ngày mai nhận lời thỉnh của con.” và vua A-xà-thế tán thán công đức của Thọ Mạng Đồng tử rằng: “Lành thay, lành thay! Ngươi nay làm được nhiều điều lợi ích cho ta. Ngươi trước đã tán thán Như Lai, chỉ dẫn, khơi mở, sau đó đưa ta đến gặp Thế Tôn, nhờ thế ta được khai ngộ. Ta rất cám ơn ngươi, trọn không bao giờ quên.” Vì nhờ có Thọ Mạng đồng tử giới thiệu mà vua được đảnh lễ Phật, nghe pháp, quy y Tam bảo trở thành một vị vua ủng hộ Phật pháp va mang nhiều lợi ích cho mọi người.

TRỤ TÂM NƠI THIỆN, THÍCH HỢP VỚI XẢ

Chúng tăng là một đoàn thể đệ tử của Đức Phật sống hòa hợp với nhau, là người đi theo con đường của Phật, học pháp để thành Phật, thực hiện sống với pháp và sẽ giác ngộ thành Phật, nên gọi là chúng tăng. Chúng ta đang sống với Phật, pháp, tăng, chúng ta muốn có lòng từ như Phật thì phải xả những tâm oán hờn, phiền nhiệt của chúng ta xuống. Nếu có người cầm dao bén cắt thân, nếu mình trụ nơi thiện thì mình phải xả những cái ác đi, tức mình muốn tu lòng thiện thì phải bỏ hết những oán hờn, sân phiền đối với người hại mình, thay vì ngồi thù oán tức giận thì nên tập cười hoan hỉ và khi chúng ta cười đó thì những oán hờn, trách phận tan đi, thế gọi là trụ tâm nơi thiện, thích hợp với xả. Còn nếu được phước ở trong Phật pháp tăng mà không trụ tâm nơi thiện, thích hợp với xả thì phải biết hỗ thẹn vì những hành động xấu của mình vẫn còn.

Nếu không được gặp Phật, không được học kinh sách, mê muội tối tăm thì về sau đi về làm loài súc sanh, làm chó mèo, gà vịt rồi đời sống cứ thế ngàn vạn năm ở trong tối tăm, ở cái xấu độc ác, như thế đáng sợ biết ngần nào. Thế cho nên chúng ta ở chỗ Phật pháp tăng, ở chỗ rất lợi, không có lợi nào khác tốt hơn ngôi Tam bảo. Ấy vậy mà chúng ta không chịu hưởng phúc lợi của mình, cho nên thật là đáng tủi, nên Đức Phật nói ở chỗ công đức mà không công đức. Hàng ngày ở trong chùa, trong đoàn thể đạo tràng cấm chuyện sát sanh, ăn cắp, nói dối, tà hạnh. Hễ chúng ta hơi buông lung phạm giới là liền có người nhắc nhỡ và liền bị phạt tức đại chúng giữ gìn cho chúng ta được thanh tịnh. Còn đời sống ngoài xã hội, có nhiều người xem việc sát sanh là việc bình thường, không có cẩn thận giữ gìn. Họ đi thấy kiến là giẫm lên vì vội vàng đi làm, không có thời gian né tránh. Thấy con bướm thì bắt con bướm, ngắt cánh, ngắt đầu để chơi. Muốn ăn cháo vị, cháo gà, làm giỗ thì cắt cổ, giết heo, giết gà vịt. Còn người học đạo, biết luật nhân quả thì cẩn trọng, cẩn thận đời sống của muôn loài. Cho nên không có gây oán, không muốn tạo nghiệp để đời này sang đời khác chịu khổ và có lòng từ bi thương tất cả chúng sanh.

Trong kinh dạy chúng ta khởi một niệm giữ giới không sát sanh với bất cứ loài vật nào dù trên trời bao nhiêu loài chim đang bay, dưới nước bao nhiêu loài cá đang lặn, trên mặt đất bao nhiêu loài thú vật lớn nhỏ mình cũng không được giết. Chúng ta nguyện hứa một lời trước bàn Phật như thế, tựa hồ như lời nguyện bình thường lắm nhưng thật ra công đức thì mông mênh bát ngát. Khắp các loài trên trời, dưới nước, trên mặt đất, tất cả loài ấy đều ở trong nguyện của chúng ta là không có làm hại chúng sanh: ‘Tôi nguyện suốt đời không có giết hại chúng sanh’.

Công đức nguyện không sát sanh không thể nghĩ bàn mênh mông bát ngát như vậy, chẳng những trong hiện tại mà suốt đời vị lai của chúng ta, chỉ có những người giữ giới, có giới hạnh, mới có những công đức ấy. Ngoài xã hội thì nhiều người nghĩ là sát hại, sân giận, nói láo, uống rượu là sự thường, buông lung rong rỡ là bình thường, một chút có bao nhiêu, không ai để ý đến hậu quả của nó. Còn những người có đạo thì chỉ bảo nhau, nhắc nhỡ nhau, từng niệm quay về ngó lại tâm của mình để đuổi những niệm sát sanh, giết hại, rắn rết ác độc thù hằn ra khỏi tâm mình. Thế cho nên người biết đạo, ở trong Phật pháp tăng, từng niệm vun trồng những giới phẩm này thì công đức mông mênh vô cùng.

Nếu những bậc xuất gia ở trong chúng mà không tròn tiết hạnh, không giữ giới phẩm thì hỗ với người ngoài và thẹn với mình. Chúng ta nghĩ lại lương tâm của mình cũng thấy thẹn. Thập phương Phật tử vất vả bao nhiêu mới được hạt gạo. Nắng mưa giãi dầu mồ hôi cay đắng để mang lên cung kính tha thiết cúng dường. Chẳng những Phật tử biếu cho không mà còn xin lễ lạy để mình nhận cho người ta nữa. Còn mình ngồi mát sớm chiều không có nhỏ một giọt mồ hôi mà mình hưởng các vất vả nhọc nhằn của Phật tử. Chúng ta ngồi không mà Phật tử mang đến người ta cho mình là bởi Phật tử tin là chúng ta tu thánh pháp. Tâm chúng ta không tham, không giận, không si, Phật tử tin như thế cho nên người ta mới cúng dường. Dù chúng ta không nói gì cả nhưng chúng ta nhận của cúng dường của thập phương, đó là mình hứa rồi. Chúng ta là người tu, nhận mình là người tu mà bây giờ lại không tu, thế là mình dối trá. Cho nên tự mình biết sự dối trá của mình, tự thẹn cho lương tâm của mình tự thấy mình sai quấy mà sữa đổi và quay ra xấu hỗ với mọi người. Chị em bạn đạo cùng sống, cùng học với mình, ai nấy một lòng, làm thánh, làm hiền mà chúng ta cứ nuôi rắn nuôi rết trong lòng, mong làm rắn, làm rết thì như thế thật xấu hổ. Cho nên đây Đức Phật dặn nếu không trụ tâm nơi thiện, thích hợp với xả thì phải biết hỗ thẹn.

Bây giờ chúng ta xả hết những hờn giận, oán hiềm, vướng mắc, đọa lạc đi thì gọi là thích hợp với xả. Không nuôi những con vật ấy trong tâm mình. Hiềm hận thì không những làm loài rắn, bò cạp, mà còn có khi vào địa ngục, làm quỷ nữa. Nếu bây giờ chúng ta để tâm hiềm hận làm chủ thì hiện tại tuy tướng làm người nhưng hình ảnh của con rắn lại hiện lên trong tâm; nếu chúng ta không chừa liền để thành thói quen thì lúc lâm chung chợt gặp một cái gì trái ý, chúng ta nổi giận lên thì chúng ta dễ bị làm rắn lắm. Hiềm hận là gốc đi xuống nặng nề cho nên chúng ta không nên giữ các loài ấy trong tâm mà bây giờ quyết định trụ vào làm hiền, làm thánh, nuôi tâm từ bi hỉ xả và trụ tâm ở từ bi hỉ xả. Bỏ tất cả những hờn hận, nhưng tham sân, những kiêu mạn, tất cả những gì là xấu, những cái gì là loài vật chúng ta bỏ đi hết gọi là thích hợp với xả.

TỪ BI QUÁN

Từ bi quán là để đối trị lòng sân giận. Từ là bố thí an vui, tha thứ lỗi lầm cho kẻ khác, bi là cứu khổ. Bản chất của lòng từ là khoan dung, mong mỏi sự tốt đẹp cho mọi người. Bản chất của bi là trí tuệ thấu được sự khổ đau của người khác mà phát tâm cứu vớt. Đức Phật dạy chúng ta phải quán sát những nổi khổ mà loài người phải đối diện như sanh, già, bịnh, chết; quan sát những nỗi khổ vật chất và tinh thần thì tự nhiên chúng ta sẽ khởi lên tình thương đối với mọi người. Từ bi quán không phải chỉ có tác dụng đem an vui cho người mà chính mình cũng được tiêu tai giải nạn. Bất cứ một hành động hay một lời nói phát xuất từ tâm từ bi, muốn tháo gỡ sự đau khổ cho người hay vật, đều đem an vui hiện tại và vị lai cho mình. Có chất liệu từ bi trong tâm thì lời nói, nét mặt, cái nhìn đều có phép lạ khiến những trái tim khô héo khôi phục lại lòng tin mà vui sống.

Lòng từ bi vẫn kiên cố, không thay đổi ngay cả có người xúc phạm thân ta bằng những lời mắng chưỡi hay bằng gậy dao. Họ rầy la mình, đánh mình, chém mình, mình đã không ghét, không giận mà còn thương họ nữa, tội nghiệp cho người ấy. Thương là bởi vì họ ngu, họ không biết thân họ bằng đất, thân chỉ là một nhúm đất mà còn già bịnh và chết sắp đến nơi rồi. Nếu chúng ta vẫn còn tham sân si thì kiếp sau nó sẽ đưa mình đi đâu? Thân bằng đất, bàn tay bằng đất và lại dùng thân bằng đất này, để nó sai xử xâm hại người khác khiến phải đọa lạc vào địa ngục. Tất cả chúng ta đều không nhớ đến những điều này, cho nên Đức Phật từ bi khuyên chúng ta là không quên, không si, dừng hợp, nhất tâm chánh niệm. Người đánh đập và hành hung chúng ta rất đáng tội nghiệp bởi vì họ quên, họ si cho nên ngu mê như vậy. Vì thế, chánh niệm cố tâm cùng với lòng từ ở chung nghĩa là chúng ta phải đuổi sân giận ra khỏi tâm của chúng ta đi, đổi sân giận thay bằng lòng từ thương xót, tha thứ và mong sự an vui cho người đánh mình. Chúng ta quán để tỉnh ra, biết kẻ làm hại mình chính là sân giận ảo tưởng thì tự nhiên chúng ta sẽ mát mẻ trở lại, chúng ta có thể truyền sự mát mẻ này cho người kia mà cùng nhau hòa giải tranh đấu. Đức Phật kiếp xưa kia làm bồ tát tu hạnh nhẫn nhục và trí tuệ. Ngài biết âm thanh, sắc tướng đều hư vọng nên dù bị người khác chặt cả tay chân mà vẫn tươi tỉnh, không khởi sân giận oán hờn. Thân ta, thân người chỉ là đất nước gió lửa giả hiện nên chẳng có nhục nào mà phải nhẫn.

Tại sao Đức Phật lại dạy chúng ta cố tâm cùng với lòng từ ở chung? Bởi vì Đức Phật cũng biết vào hoàn cảnh mà người ta đánh mình, chém mình thì nhất định chúng ta sẽ oán thù người ấy lắm, nên Đức Phật khuyên chính lúc ấy là lúc chúng ta cố gắng đuổi tâm oán thù đi, thay vào đó lòng từ bi. Phải cố tâm đừng có nhận ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là mình để đừng có oán những người đã xúc phạm vào cái thân bằng đất này. Bước thêm một bước nữa là sau khi đã khởi được tâm từ rồi thì chúng ta phải cố tâm cùng với lòng từ ở chung lâu dài với nhau. Tại sao thế? Bởi vì ngay tâm oán là độc, là ác thú rồi, ngay lúc tâm thù hận hiện lên là ác thú rồi thì bây giờ thân của chúng ta là người tâm ác thú, khi mà đã có tâm ác thú thì còn chưa được làm con người trở lại huống chi lại muốn làm bậc thánh nhân làm sao được? Cho nên nếu chúng ta muốn làm hiền, làm thánh, làm bồ tát thì chúng ta phải có tâm hiền, tâm thánh, tâm Phật.

Muốn làm đệ tử Phật phải có lòng từ, cho nên đây khuyên chúng ta với bất cứ giá nào cũng phải đuổi cho bằng được tâm oán hờn đi thì chúng ta mới thoát được ác thú. Vì muốn làm bậc hiền, bậc thánh mà không có tâm hiền, tâm thánh thì không thể được. Chúng ta chẳng những không giận những người ở phương đông mà ở phương bắc, phương nam, ai đánh mình, chém mình, mình cũng không giận. Đối với phương đông chúng ta hiền rồi, tốt rồi, rồi chúng ta tập đến phương nam, rồi tập đến phương tây, rồi đến phương bắc, phương trên, phương dưới, khắp mười phương, tập từ bi với tất cả người và vật, chỉ có một lòng từ, không bao giờ tôi hờn ai, không bao giờ tôi oán ai cả. Chúng ta muốn thì chúng ta sẽ làm được, chỉ cần phát tâm muốn làm thì sẽ vượt qua tất cả để trưởng dưỡng lòng thánh thiện của mình. Tâm mà vâng lời Phật thì chắc chắn là được. Đây là quyền của chúng ta không có ai bắt và cấm chúng ta không được từ bi. Đây là quyền của mình. Vậy sao chúng ta không muốn làm hiền, làm thánh mà cứ muốn làm con heo, con rắn, con gà? Tại sao chúng ta lại cứ thích làm beo, làm cọp, làm rắn, làm rết mà không chịu làm hiền làm thánh? Ai cũng trông mong chúng ta sẽ sớm làm hiền, làm thánh. Không ai mong muốn chúng ta làm heo, làm cọp làm gà. Nhưng nếu chúng ta còn nuôi hờn, nuôi giận, nuôi tham, nuôi si trong lòng thì đó là còn nuôi rắn, nuôi rết, nuôi bò cạp thì mai sau chúng ta sẽ làm rắn rết, bò cạp. Nhớ như vậy, chính chúng ta có cái quyền chuyển đổi, chúng ta muốn làm hiền, làm thánh thì mình sẽ làm hiền, làm thánh. Còn cứ nuôi cọp nuôi beo, nuôi rắn, nuôi bò cạp trong tâm thì dĩ nhiên không có cách nào thay đổi cả. Đây Đức Phật quả quyết rằng ai ai cũng có khả năng chuyển đổi địa vị của mình. Đừng làm cọp, làm beo mà làm hiền, làm thánh. Quyết định làm hiền làm thánh. Chúng ta đã quyết định và bắt đầu khởi công tập đi bởi vì

Niệm tâm từ để diệt trừ tâm ác.
Niệm tâm bi để diệt trừ tàn nhẫn.
Niệm tâm hỷ để diệt trừ phiền hận.
Niệm tâm xả để diệt trừ thù oán.

TỰ CHE GIẤU CÔNG ĐỨC VÀ TỰ BÀY TỎ LỖI LẦM

Trong bài kinh Kiên Cố (Trường A-hàm, số 24), Trưởng giả Kiên Cố xin Phật cho các tỳ kheo có thần thông, hiện tài thần thông kỳ lạ để cho dân chúng thấy phát tâm cúng dường. Thần thông là những kỹ năng đặc biệt hơn loài người như lướt trên mặt sông không cần đò, đi trên nước như đi trên đất, bay xuyên qua tường, bay qua mặt trời, qua mặt trăng, có mắt thấy xuyên suốt, có tai nghe rõ ràng khắp các cõi trời, bay trên trời rồi đi trên mặt nước hoặc làm những hình dáng kỳ lạ để dân chúng kính phục, nhưng Đức Phật từ chối không cho các tỳ kheo hiển lộ thần thông như vậy. Vì sao các ngài có thần thông mà không hiện để dân chúng nễ và phát tâm kính tin theo Phật pháp? Đức Phật không đồng ý vì ngài dạy chúng ta tu tập nhưng không phải tu để khoe tài với thiên hạ, để phô trương những điều hay, điều tài giỏi mà tu đây là để giải thoát sự khổ. Trong nhà chúng ta nuôi đầy rắn độc, hãy lo giải thoát những con rắn độc để cho yên thân trước, chứ không phải mục đích tu là để đi khoe khoang tài với thiên hạ. Đây chỉ là vỏ bên ngoài trong khi ruột thì đầy tham sân si. Nên Đức Phật dạy các đệ tử của ngài phải ở thanh vắng tức ngài không muốn cho chúng ta khoe khoang những tài năng, những cái hay, cái giỏi của mình. Phải ở nơi thanh vắng, tức là chỗ ít người biết đến mình. Người có áo đẹp thì thích đi chơi ngoài phố để khoe áo đẹp, còn chúng ta tu tập quay về bên trong, nên ở chỗ vắng để ít người biết đến mình bởi vì nhiều người ta biết thì chúng ta bị quấy rầy, cứ đón khách, tiếp khách thì loạn, không có thời gian an tĩnh tâm để tu. Cho nên, các chùa trú ở trên núi hay thôn quê để đỡ những giao tiếp với người thế gian, đỡ những tánh xì xào nói chuyện và như thế sẽ dễ tiến tu.

Ở chỗ thanh vắng, thưa thớt yên lặng và an tĩnh, ngồi yên như thế thì ta mới có tinh thần để trầm tư về đạo lý tức là phải tu Tứ niệm xứ, tu các pháp quán mà A-hàm đã dạy cho chúng ta. Quán tu như thế gọi là tư duy đạo lý, đấy là việc làm của chúng ta. Phong cách và nếp sống của người tu tập thì có hai cái khác hẳn với người không tu tập: Tự che dấu công đức và tự bày tỏ lỗi lầm, chăm lo sám hối. Chúng ta lặng lẽ giúp đỡ nhưng không có om sòm, khoe khoang. Đó là che dấu công đức. Chúng ta đâu có ăn trộm hay ăn cắp đâu mà phải che dấu. Chúng ta làm được một tí công đức gì thì khoe om sòm, còn hễ có lỗi lầm thì chúng ta dấu thật kín không cho ai biết, có hỏi nhiều lần cũng không nói ra. Nhưng trong A-hàm thì Đức Phật dạy ngược lại, hễ chúng ta có công đức thì im lặng, đừng tự cho là mình hay, đừng có tự hào, tự đắc, tự khoe. Nhưng có tội thì phải vội vàng đi sám hối, bày ra cho đại chúng, không có che dấu. Tại sao lại vội vàng bày tỏ cho mọi người biết? Ví dụ chúng ta có một con rắn trong túi, chúng ta có giấu đừng cho ai biết không? Khi thấy có rắn thì vội vàng la toáng lên: ‘Rắn! Rắn!’ để mọi người tới gỡ hộ ra cho mình, còn không thì nó cắn chết. Chúng ta phải thấy lòng tham, tật xấu của mình như những con rắn độc. Cho nên, có những cái xấu thì phải tỏ bày ra ngay để chính mình thấy rõ cái sai mà mình sữa. Sau nữa là mọi người thấy giúp cho mình sữa được. Bằng cách đó, chúng ta sẽ không dám tái phạm nuôi rắn trong lòng nữa. Như vậy, nấc thang thánh hiền sẽ đến nhanh với chúng ta.

Chúng ta tu tập là tu cái tâm này nên chúng ta phải đem ánh sáng trí tuệ để soi tâm của mình. Chùi cho nó sạch hết những rắn độc trong tâm. Vì vậy, chúng ta phải lo thấy được mình, biết được mình. Muốn như thế thì phải có sự yên tĩnh để quán Tứ niệm xứ, quán lý Tứ đế, suy ngẫm đạo lý. Tu được như thế thì chúng ta là người tu hành đắc đạo và bước lên nấc thang thánh hiền. Tâm cầu danh tức là có tâm xoay ra bên ngoài không lo sửa mình. Tâm đi ra bên ngoài là tâm phàm phu, là đi về đường mê rồi. Cho nên Phật khuyên chúng ta tu có chút công đức nào thì đừng tự hào mà biết rằng đây là điều kiêng nhất, còn nếu mình có cái sai lầm thì phải sữa liền.

Đức Phật dạy chúng ta cứ chân thành tu, đừng có mong cầu thần thông gì cả, chỉ mong cầu cho chúng ta tiêu những tham giận sân si đi. Tiêu được hai độc tham sân thì chúng ta hết si. Tham là mặt ngoài và sân là mặt trong của si, nếu không có bản chất si thì không có tham sân. Tham không được thì nổi sân. Muốn người ta khen mình, người ta đã không khen mà lại còn chê nên tức nổi sân giận, nổi sân là do tại ngu si. Vì không có quán Tứ niệm xứ, không quán bất tịnh, không biết thân mình là đống thịt sẽ long rụng chết trả về cho đất, nên khởi tham sân si.

Ngu si không biết cho nên muốn người này, người kia quý trọng mình. Nếu người ta không quý trọng thì chúng ta lại giận. Người không ngu si thì thấy thân này là đống thịt thối, là đất nước gió lửa, mai đây bỏ vào quan tài trả về cho đất, không phải là mình thật. Nếu tỉnh ra như thế thì không có tham ăn ngon, không có tham áo đẹp, cũng không cần ai khen thì như thế là hết cái tham. Hễ hết tham thì đâu có giận ai, người ta khen cũng được, người ta chê cũng được là việc của người ta, còn chúng ta cứ lo tỉnh ra, đào thải vô minh, để khỏi bị khổ nạn. Trừ vô minh cho đến khi chứng được tam minh, nghĩa là sự sáng suốt hiển lộ. Nhưng chứng được tam minh có thần thông thì không phải đi khoe khoang mà chính bản chất của chúng ta là ánh sáng.

Chúng ta là người học A-hàm, chúng ta phải gạt cho sạch những vô minh thì lúc bấy giờ minh hiện lên. Khi minh hiện lên tức tâm thật của mình mới có công dụng thật. Lúc bấy giờ mới có tha tâm thông, thấy được tâm của mọi người chung quanh, sẽ biết được sự thật. Lúc bấy giờ mới có thần túc thông để muốn đi đâu cũng được. Lúc bấy giờ có thiên nhãn thông có thể thấy trên từ cõi trời xuống thấu đến cõi địa ngục. Muốn cái gì cũng được, làm cái gì cũng được vừa ý. Vị ấy có thể kéo mặt trời xuống được, che mặt trăng đi hay đi trên nước được. Những công dụng thần thông này là do các ngài do tu thiền định mà được.

TỨ ĐẾ

Đức Phật dạy chúng ta phải thường quán Tứ đế. Đây là Khổ thánh đế chúng ta phải biết. Đây là Tập thánh đế chúng ta phải diệt. Đây là Diệt thánh đế chúng ta sẽ đạt. Đây là Đạo thánh đế chúng ta phải thực hành.

i. Khổ thánh đế

Khổ đế là trí tuệ biết chắc thân này là gốc khổ. Đời người từ lúc trong bào thai, mới sanh, bé thơ, trưởng thành và chết là toàn một khối khổ uẩn. Thân của chúng ta là thai nhi sống 9 tháng 10 ngày mù mịt tối tăm ở trong đống máu tanh. Lúc bây giờ chúng ta là những con tinh trùng bé tí ti lúc nhúc, chỉ biết đống máu tanh mù mịt tối tăm ấy là chỗ ở của mình, ngoài ra không biết chỗ khác. Rõ ràng đây là một tướng mạo ngu si. Chín tháng mười ngày đó chúng ta cứ hút máu của mẹ, rồi hút nhiều máu quá thì căng lên thành giọt mũ. Lúc đó chưa thấy hình tướng một đứa bé mà chỉ thấy một giọt mũ, rồi về sau càng lớn lên thì thấy là một miếng thịt. Mắt người ngoài chỉ nhìn thấy là miếng thịt, nhưng trong miếng thịt ấy vẫn có một tinh thần đang biết đau, biết khổ, đang si mê mù mịt ở trong cục máu đó. Rồi miếng thịt đó theo thời gian thì kết thành chân, thành tay, thành da, thành hài nhi nằm co rúm trong túi máu tanh và nước nhớt. Bởi vì lúc đầu lấy máu da thịt xương làm đời sống, sau đó thì biết thở bằng phổi, cho nên đến ngày khai hoa nở nhụy mà nếu không kịp chun ra khỏi tử cung của mẹ thì sẽ chết ngạt. Ngay lúc ấy mà nếu chỉ chậm vài phút thôi thì sẽ mất mạng, đấy là quán sự khổ từ trong bào thai.

Nói về cái khổ lúc mới lọt lòng thì khi đứa bé chào đời khóc oa oa nức nở chứ không cười vui vẽ. Có thể là từ lúc bắt đầu có thần thức, có da có thịt có xương, nhận đó làm thân thể của mình. Ở trong cái túi ép chặt chân tay đầu mình co rút, nằm ép chật trong túi ấy, lấy đó làm cảnh giới của mình. Bây giờ bất chợt đi ra khỏi bụng mẹ thì bỡ ngỡ lạ lùng, lạc lõng cho nên hoảng hốt sợ hãi. Hài nhi gặp ánh sáng chói mắt vì bữa giờ bé chỉ nằm trong bóng tối, rồi lại gặp không khí lạnh bên ngoài như kim châm vào da vậy, nên hài nhi đã khóc thét lên rất đau khổ. Khi đứa bé ra khỏi bụng mẹ được tắm được rửa rồi thì tiêu tiểu tại đấy, có tay mà không biết làm gì cả. Cứ nằm đấy mà khóc mà la bởi vì khổ quá; đau bụng, đau chân có miệng mà không nói được, chỉ biết khổ thôi. Con mắt tuy thế mà có biết gì đâu, không làm gì được, có tai cũng thế, nghe cũng không hiểu gì. Như thế sống không sử dụng được những chân tay mắt tai mũi lưỡi của mình, cho nên bắt đầu đời sống thật là khổ sở, đây Đức Phật dạy chúng ta phải ngẫm nghĩ những cái khổ ấy để thấy bắt đầu cuộc sống đã là khổ.

Chúng ta không biết lại cho đời sống này là vui nên đi tìm những sự vui thích mà đã cho là vui thì cứ đâm đầu hết bào thai này đến bào thai nọ có bao giờ mà tỉnh ra, cho nên Đức Phật dạy chúng ta phải quan sát sự khổ, có thấy khổ thì mới biết tìm cách đi ra khỏi sự khổ. Còn bây giờ chúng ta ngông nghênh giận người này, phiền người kia, không hài lòng điều này điều kia, đó là vì chúng ta chưa biết khổ. Chưa biết sự si mê ở trong bụng mẹ, từ tử cung mẹ đi ra chúng ta đã quên hết quá khứ rồi. Cứ tưởng chúng ta là hay thông minh, giỏi lắm, lo tranh giành hơn thua bởi vì không có trí tuệ nên càng vênh váo, tự mãn.

Khi đứa bé trưởng thành thì càng đối diện nhiều sự khổ khác nữa. Ở trong xã hội, mỗi người một nghề nghiệp để tìm kiếm miếng ăn, làm việc lao lực như những nông dân làm ruộng bao nhiêu khổ nhọc mới được hạt gạo, những người vào hầm than để kiếm than cho mọi người đốt, những người lên rừng đốt củi để làm than, rồi những người đi kiếm củi đun cũng là cả một sự cực nhọc. Bậc cha mẹ nuôi con hay những người lớn trưởng thành lăn ra ngoài xã hội thì trải qua nhiều kinh nghiệm thăng trầm này rất nhiều. Nghề nghiệp nào cũng là lao nhọc, nhiều công sức mà còn bao nhiêu những khó khăn khác xảy tới nữa, cho nên kiếm miếng ăn để nuôi thân là cả một sự cực nhọc, vất vả, rất khổ. Còn những người giàu sang, có tiền bạc sẵn thì cũng đối diện với những sự khổ sở khác. Cha mẹ kiếm được đồng tiền hẳn cũng phải vất vả, nhưng đã có tiền sẵn trong nhà rồi thì lại sợ trộm cướp, sợ người lường gạt, con cái phá, cháy nhà, sóng thần, sợ cả 100 thứ khiến của cải tiêu hao mất đi. Có của sẵn thì cũng có cái vất vả nhọc nhằn để bo bo giữ gìn, còn nếu không có của, thiếu thốn nghèo nàn thì cũng gặp cái khổ của sự thiếu thốn, cho nên đời sống con người là đủ các thứ khổ sở lo lắng.

Theo quy luật sanh trụ di diệt thì sau khi trưởng thành, lớn rồi thì sẽ bước vào giai đoạn hoại và diệt tức thân này chuyển biến thành già nua sanh nhiều bịnh tật rồi chết. Chúng ta phải quán thấy cái khổ của từng người già, người bịnh và người chết khi sáu căn không còn thọ sáu trần. Thân người lại phải chịu cảnh già yếu lụm cụm, các thứ bịnh hoạn, rồi lại nặng nề nhất là đối diện cái chết. Chúng ta đứng ngoài tưởng người ta thở ra, lấy hơi lên để thọ chung, thế là xong việc. Nhưng không biết rằng người ấy đang bị ngộp không thở được. Chúng ta bị bịt mũi vài phút là thấy khó chịu rồi mà người ấy vĩnh viễn không thở được thì bấy giờ người hấp hối đó bị ngộp, cảm thấy đau khổ và sợ hãi đến trình độ nào. Cho nên mọi người sợ chết lắm bởi lẽ chết là lúc khổ nặng nề nhất,. Lúc mà rời xác thân này là lúc khổ lắm. Đấy là sự khổ bị ngộp, sự khổ khi hơi lạnh bị tàn, không còn hơi nóng, cái lạnh như dao cứa, như kim châm vào từng thớ thịt, từng mạch máu, từng tế bào, nó châm trong xương, trong tế bào, không có chỗ nào mà không rét mà không bị như dao cứa. Sự khổ ấy cộng với sự khổ mà trong kinh gọi là như dao xẻ thịt, xẻ xương. Hai cái khổ ấy cộng với nhau khiến cho người hấp hối đó đau khổ vô cùng. Cho nên con người là từ lúc sanh cho đến lúc chết là một tập hợp khổ.

Đức Phật dạy chúng ta cũng quán thêm chẳng những thân đã khổ rồi mà bên ngoài còn đổ vào thân bao nhiêu thứ khổ nữa như nạn nước, nạn lửa, nạn bão, phong tai lũ lụt, bao nhiêu các thứ tai nạn thiên tai. Lại còn bao nhiêu sự khổ trong lúc sinh sống tiếp xúc như người oán, người ghét mình cứ phải gặp hoài; còn người mình thương quý thì cứ phải biệt ly xa cách. Người mình không thích thì nhìn bằng con mắt khó chịu, khiến cho đời sống mình gặp nhiều cái không may. Con mắt phải trông thấy những cảnh trái tai gai mắt, mũi phải ngữi những mùi mình khó chịu, lưỡi phải ăn những món ăn mình không thích. Đó là cái khổ của sáu căn tiếp xúc sáu trần của loài người.

Chúng ta phải nhìn cho rõ thấu đáo những người xung quanh chúng ta và phải quán cuộc sống của con người từ bào thai, ra thai cho đến lúc chui vào quan tài. Em bé có cái khổ của em bé, con nít lại có cái khổ của con nít, người lớn có cái khổ của người lớn, người tìm kế sanh nhai hàng ngày có cái khổ lao nhọc, lo làm ăn để kiếm miếng ăn vất vả. Vất vả thân khổ nhọc như thế mà họ còn chịu phải chịu tâm lý bị xa người thương, phải tối ngày cứ gặp người mà mình không thích khiến khổ tâm. Ngay cả người may mắn được làm vua quan, có danh phận trong xã hội, cũng sẽ gặp các khổ khác của cuộc sống. Giàu thì có khổ sự khổ của người giàu, nghèo thì có sự khổ của người nghèo. Rồi thân xác già nua bịnh hoạn hành hạ nên già có cái khổ của già, bịnh thì gặp vô vàn đau đớn và chết cũng vô vàn khổ.

Thế cho nên có thân này là khổ, chẳng những thân người mà mang thân bất cứ loài nào trong sáu đạo cũng đều đau khổ. Đọa lạc làm thân chó, mèo, gà, cua, cá có cái khổ của loài súc sanh. Chúng ta phải quan sát để thấy cho rõ cái khổ ở thế gian này cho đến các ông trời cũng đang cả ngày sống trong mê muội tối tăm của thọ hưởng ngũ dục. Cõi trời không có cái khổ của thiên tai bịnh hoạn như cõi người nhưng cõi trời lại có sự khổ của si mê. Khổ đế là trí tuệ biết chắc những nỗi khổ của sáu đạo chúng sanh (trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Cõi trời cũng có cái khổ si mê tham đắm hưởng thụ, rồi khi hết phước thì đọa lạc.

Có một thầy tỳ kheo thân đang đau nhức khổ sở lắm mà ngài thấy chư thiên đem âm nhạc, tràng phan bảo cái hoa hương đến đón ngài về cõi trời. Cõi trời là cõi cực vui mà thân người sắp chết là thân đang đau đớn vô cùng, nên nhiều người rất cầu về. Thầy tỳ kheo đang đau khổ vô cùng như vậy, rất mong thoát khỏi khổ, vậy mà ngài từ chối sự đón rước đưa về cõi trời. Ngài bảo rằng tôi cầu giải thoát luân hồi chứ không cầu về cõi trời, tức thầy đã có trí tuệ khổ đế biết rằng cõi người là khổ mà cõi trời cũng khổ. Những âm nhạc, tràng phang bảo cái, những chư thiên đưa rước uy nghi với hoa hương cờ lộng trang nghiêm ở cõi trời, ngài biết tất cả đều là khổ. Ngài không màn, không thiết, ngài đã chán sợ sự khổ ở sáu đạo như thế gọi là bậc có khổ đế, tức có trí tuệ khổ đế thấu đáo sự khổ của cả sáu đạo luân hồi. Nếu chứng được khổ đế như vậy thì gọi là bậc thánh, còn bây giờ chúng ta cũng biết, nhưng chỉ biết sơ sơ chút ít. Chúng ta thì chỉ hiểu qua ý thức mà thôi, chứ chưa chứng được vì chúng ta vẫn thấy thọ là vui mà không biết đó chính là khổ. Chúng ta phải thấy rõ chắc chắn sự khổ từ địa ngục lên đến cõi trời rồi thì chúng ta mới tìm cách thoát khỏi những sự khổ này.

ii. Tập thánh đế

Muốn thoát khổ thì phải trừ nguyên nhân của khổ. Chúng ta là những kẻ mờ mịt đâu có thấy đường, phải nhờ ánh sáng trí tuệ của Phật cho nên phải học trong kinh A-hàm. Đức Phật dạy phải tìm nguyên nhân của khổ tức phải học chữ ‘tập khổ’. Chúng ta quan sát vì sao chúng ta có sanh ra? Nguyên nhân của sự sanh là gì? Tại sao có già bịnh? Tại chúng ta ở bụng mẹ sanh ra. Có thân này thì mình mới có già có bịnh. Gốc của già bịnh chết là tại ở bụng mẹ sanh ra. Rồi lại tìm nguyên nhân vì sao chúng ta vào bụng mẹ mình sanh ra để mà có cái thân sanh già bịnh chết? Do các thứ tham sân si mạn nghi tà kiến, cống cao. Tất cả tám vạn bốn ngàn thứ phiền não, nhưng góp lại gốc rễ của nó là tham sân. Gốc của tham sân là si, vì ngu si nên có tham sân, cho nên nói ba độc là tham sân si. Mục đích của chúng ta là tiêu trừ ba độc tham sân si, cho nên Đức Phật dạy trong đời sống hàng ngày chúng ta bắt đầu đừng có tham ăn, đừng có đòi mặc những áo đẹp, đừng có thích những chỗ ở tiện nghi mà nên sống giản dị, ít muốn biết đủ để giảm ba gốc độc tham sân si này. Nếu chúng ta tham ăn thì khi chết có những giao báo ở tham ăn hiện lên. Tội ở thân, khẩu, ý; tội ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý ra sao thì hiện tướng của các quả báo khổ đó là hiện ra các địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh ra. Tinh thần của người chết lúc ấy không những là khổ mà lại còn sợ hãi nữa bởi lẽ chúng ta nương tựa thế gian này một đời đã quá quen đi rồi. Phút chốc bỏ hẳn cuộc đời của chúng ta mà đi vào một cảnh giới xa lạ, cho nên sợ hãi lắm. Tinh thần sợ hãi lúc chết này cũng là đại khổ, đấy là nghiệp báo của chúng ta hiện tướng.

Tập đế là trí tuệ biết chắc do chúng ta có thói quen hư hỏng, huân tập tham sân si tật đố từ vô thủy là nguyên nhân tạo nên quả khổ của chúng ta hiện nay. Muốn khỏi khổ thì phải tìm nguyên nhân của khổ. Nếu chúng ta lại tiếp tục gieo nhân thì biết bao giờ mới hết khổ, cho nên phải đào bới gốc của các khổ ra để xoá sạch nguyên nhân của khổ thì chúng ta mới hết khổ được cho nên chữ tập là nói về nhân. Hôm nay tập tham một tí, mai tập sân một tí thành thói quen, thành cái nghiệp, nghiệp là gốc của khổ. Chúng ta quan sát thấy thân này thật là khổ, vậy bây giờ muốn hết khổ thì không phải là chúng ta nhảy xuống sông tự tử hay đổ thừa cho cha mẹ bạn bè mà chúng ta phải diệt trừ nguyên nhân tức phải diệt trừ tập khí xấu này đi, nghĩa là làm thế nào xoá sạch tham sân si mạn nghi tà kiến đi. Bao nhiêu những thói xấu chúng ta cứ tập quen từ vô thủy đến nay thì bây giờ chúng ta phải trừ diệt hết đi thì chúng ta sẽ hết khổ.

Đức Phật muốn chúng ta phải thấy khổ là cái đứng đầu phải giải quyết trước và tập là nguyên nhân của khổ. Chúng ta muốn hết khổ thì hãy diệt hết nguyên nhân này đi, biết được thân sanh già bịnh chết này là khổ, cho nên bây giờ đừng có vào bào thai nữa, vào bào thai loài người chúng ta còn từ chối huống chi là vào bào thai con gà, con vịt khổ lắm, biết khổ rồi thì nhất định không có vào bào thai nữa. Vừa rồi chúng ta vừa từ bụng mẹ đi ra, nên cứ vào bào thai là có khổ, phải làm thế nào mà mai đây rời thân này bỏ rồi đừng có vào bào thai mẹ nữa, không vào bào thai của sanh già bịnh chết này nữa để bớt khổ. Hễ trừ được tập đế và phát sanh thói quen ngồi thiền tu tập thì chúng ta sẽ đến an lạc, giải thoát, niết-bàn.

Nếu chúng ta có trí tuệ quyết chắc rằng nguyên nhân của khổ là tham sân si thì chúng ta không tham và cũng không bao giờ sân bởi vì chúng ta biết tham sân là gốc khổ. Cũng như chúng ta biết rắn là nguy hiểm thì chúng ta không bao giờ bỏ rắn vào túi hay nuôi rắn trong nhà cả. Chúng ta không sợ sân và cho nó là mình vì không biết nó là rắn, nó là rắn độc thật đấy mà chúng ta không biết. Các bậc thánh không có nuôi rắn độc ở trong tâm, cho nên tham sân là cái các ngài tuyệt đối bỏ hẳn vì các ngài biết rõ nó là độc. Còn chúng ta thì chỉ hiểu đọc sách thì thấy Phật nói như thế, chứ chưa thấy là nó độc tham cho nên hàng ngày vẫn tham, vẫn sân mà cứ cho là chuyện nhỏ, không sao đâu, là bởi vì chúng ta chưa có trí tuệ tập đế.

Nhìn lại cuộc đời, chúng ta thấy từ lúc bắt đầu có thần thức, trong bào thai, sanh ra, trưởng thành, già nua, bịnh hoạn rồi chết. Mỗi giai đoạn đều mang những nổi khổ, sống cũng khổ và chết cũng khổ. Những nổi khổ trong hiện tại và tương lai này đều là do mình huân tập ngu si từ vô thủy đến giờ, cho nên vô minh cứ để hoàn cảnh và tham sân si lôi kéo đưa vào bào thai, cứ thế mà chịu. Nay trong A-hàm, Đức Phật dạy chúng ta tập quan sát như thế để tìm cách diệt nhân khổ đi.

iii. Diệt thánh đế

Diệt đế là trạng thái đã sạch các gốc tham sân si, kiêu mạn, cống cao. Do tập những tham sân si, thâu kết những nhơ bẩn, thói xấu tật hư, bây giờ đến diệt đế là chúng ta phải cởi ra. Chúng ta tu tập gỡ đến đâu thì không tham, không sân, không si và sự thanh tịnh sẽ đến đấy, chứ không phải càng tu thì mình càng kết thêm, nặng nề thêm. Sự tu tập này là tu tâm của mình để lọc bỏ hết những gì Đức Phật gọi là tập, diệt cho sạch những cái tập ở tâm mình. Gốc đã diệt thì bao nhiêu cành lá cũng diệt luôn, nghĩa là bao nhiêu thói xấu tật hư chúng ta diệt sạch tức Diệt đế, tức là Niết bàn ngay tâm an lạc của mình. Bây giờ lo tu tâm mình thì sẽ cảm quả báo hiện lên cảnh Niết bàn mà mình được hưởng, chứ không phải đi sang nước Niết bàn nào.

Tiếng Trung Hoa gọi là diệt đế nhưng Ấn Độ thì gọi là Niết bàn. Diệt đế là Niết bàn, là trí tuệ biết chắc là cảnh an vui do chúng ta đã diệt sạch ba độc tham sân si, Hễ tâm mình diệt sạch tham sân si thì sẽ cảm quả báo thanh tịnh Niết bàn. Còn nếu tâm mình gai gốc đầy những hờn giận tật đố thì không thể có Niết bàn được. Tham sân si là nhân khổ mà nhân khổ hết thì quả khổ cũng phải hết. Như vậy một khi tâm chúng ta đã diệt sạch những vô minh, những phiền muộn tối tăm, diệt sạch đi thì tâm của chúng ta chính là sự an vui nhất, là tịch diệt, chứ không phải có bông hoa, đàn sáo, bánh chưng, bánh mứt, tiền bạc thì chúng mới vui, đây chỉ là những niềm vui bên ngoài. Người có trí tuệ diệt đế là người tin cảnh tịch diệt ở ngay tâm chúng ta. Niết bàn chính là tâm chúng ta, cảnh tịch diệt chính là cảnh giới cứu cánh, là đệ nhất an vui bên trong, cho nên vị ấy không cầu sự an vui ở bên ngoài nữa. Vị ấy quay về tâm để tu, một lòng tìm an vui hạnh phúc tại tâm mình. Muốn có diệt đế này thì chúng ta phải phương pháp. Phương pháp đó là Đạo đế tức tu tập tám con đường chân chánh.

iv. Đạo thánh đế

Đạo đế là trí tuệ biết rằng tám phương pháp mà Đức Phật đặt ra để cho chúng ta diệt những tham sân si thì đấy chính là con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới yên vui. Chúng ta phải có phương pháp tu hành thì mới diệt được khổ để đừng có cái thân này nữa. Tám phương pháp là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định. Tu được tám thánh đạo này thì gọi là tu đạo, đắc đạo, được ý của đạo. Như vậy, được con đường tức là phương pháp tu tập của chúng ta đã hoàn mãn đi đến kết quả.

Hai chữ diệt và đạo là diệt tận gốc nhân khổ thì đồng thời cũng diệt hết quả khổ, không có nhân thì cũng không có quả khổ, tức là chứng được Niết bàn. Con đường Niết bàn này chính là tâm mình, hễ tâm chúng ta thanh tịnh thì gọi là niết bàn, còn nếu tâm chúng ta đầy những sát đạo dâm vọng, những ô nhiễm, những độc ác thì chúng ta sẽ ở cảnh giới xấu xa địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, đủ các thứ tai nạn. Muốn trừ tập đế và hưởng Niết bàn thì phải có đạo đế tức là tám phương pháp tu hành này để diệt hết cái khổ. Chúng ta phải có trí tuệ để thấy hễ còn có thân, còn vào bụng mẹ là còn khổ. Biết có thân này là khổ, muốn hết khổ phải biết tập đế, biết nguyên nhân của cái khổ, hễ mình trừ được nguyên nhân hết khổ thì mình chứng diệt. Người có đạo đế là người có trí tuệ tin chắc các pháp của Đức Phật là giải thoát, thấy chắc chắn được điều này, thấy được đạo, thấy được những phương pháp của Phật là đúng, là chân chánh thực sự, cho nên vị ấy một lòng thực hiện những lời Phật dạy mong được giải thoát. Vị này không mất thời gian học nhiều thứ, một lòng học Phật pháp, một lòng thực hiện pháp của Phật. Đó là tướng mạo của người đã tin vào đạo đế.

Vậy chúng ta cần phải biết rõ Bốn thánh đế là khổ tập diệt đạo. Chúng ta không biết Tứ đế này thì xem như đường tu chúng ta mập mờ, dễ hỏng. Chúng ta phải có phương pháp áp dụng đúng những lời Phật dạy để đừng có làm những sai quấy khiến đọa lạc, bởi vì chúng ta mù mịt tối tăm, chả biết gì cả, cho nên mở miệng động chân cất bước đều là sai quấy. Đức Phật vì lòng từ bi chỉ dạy cho chúng ta pháp Tứ đế này. Hễ chúng ta cẩn thận giữ gìn, vâng lời làm đúng thì mới không có những sơ hở, không có lạc về những loài bàng sanh, ma quỷ; mới giải thoát được những sự đọa lạc. Còn buông lung thả lỏng một tí là nguy hiểm liền tới bởi vì chúng ta cũng như kẻ mù lòa đứng trên bờ vực thẵm. Đã mù loà không thấy đường mà lại đứng cheo leo bên bờ vực thẳm nữa, nên hễ hơi sơ hở là ngã luôn, rơi vào địa ngục. Nói ví dụ vực thẳm là nhẹ đấy, vì rơi vào vực thẵm chỉ khổ có một thân thôi, chứ còn rơi vào địa ngục thì còn mê si trăm ngàn vạn kiếp, không ngóc được đầu ra. Cái khổ và nguy hiểm đến thế cho nên chúng ta phải A-hàm là việc thiết yếu để bảo tồn thân con người đã.

Tứ đế phối hợp với tứ hoằng thệ nguyện là:

Vì có khổ đế ấy nên chúng ta mới phát nguyện chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

Vì có tập đế nên phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

Vì có đạo đế nên pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

Vì có diệt đế nên Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

TỰ LỰC

Hãy tự mình là hải đảo của chính mình, tự mình cầu giải thoát và tư duy, không nên rong ruỗi tìm kiếm bên ngoài như người có trí tuệ dùng sức mạnh của mình để né tránh rắn độc và giặc hại, lại tự mình tạo chiếc bè để vượt qua khỏi dòng nước xoáy, để đến bờ bên kia an ổn khoái lạc.

Chuyện kể rằng có một thầy Tỳ kheo bị bệnh đau mắt, nghe lời khuyên của thầy thuốc nên ngồi bên hồ nước ngửi hương thơm của một loài hoa để trị bệnh, bị chủ nhân của hồ nước là thần giữ hồ nước xem thầy như là người ăn trộm. Thần nói với thầy tỳ kheo đó rằng, giống như người có chiếc áo tinh khiết, chỉ cần dính một ít nhiễm ô cũng khiến người khác chú ý, cũng vậy, nay thầy giữ giới nghiêm mật, nhưng sao lại bị đánh lừa, bị quyến rũ bởi hương thơm của hoa. Thầy cần phải nhiếp tâm thanh tịnh, chánh niệm tĩnh giác hơn.

TỰ MÃN TAI HẠI

Bình thường sau cơn mưa thì đất bụi ở ngã tư đường biến thành vũng nước ướt sũng và người ta tưởng đây là đường bùn lầy mà không biết khi không mưa thì bùn sẽ khô và khi gặp gió thì sẽ tung bụi mù lên. Cũng thế, ở trong đoàn thể, chúng ta thấy tựa hồ như mình tu được, mình tốt, cậy mình là người chăm tu, rồi không để ý giữ gìn oai nghi phẩm hạnh. Chợt xảy ra việc gì trái ý thì hiện tướng đáo để, lúc bấy giờ trở thành người lui sụt, không có trầm tĩnh, sáng suốt. Cho nên khi xúc sự, mới thấy rõ được khả năng của mình và là người thật tu thì lúc nào cũng dè dặt, cẩn thận, chứ không có tỏ vẽ cho mình là người tu hay, tự mãn. Tự là tự mình, mãn là đầy đủ, nghĩa là tự thấy mình hay, đầy đủ và đúng pháp.

Do không cẩn thận giữ oai nghi, hộ sáu căn thì chúng ta là người buông lung. Buông lung rồi thì sẽ đi đến phóng dật, từ phóng dật sẽ đi đến bừa bãi không giữ giới luật. Hôm nay buông lung không giữ oai nghi tế hạnh thì ngày mai sẽ buông trôi không giữ giới luật, cho nên tự mãn cứ thấy mình đủ rồi, hay rồi thì rất nguy hiểm. Người có trí tuệ lúc nào cũng phải dè dặt, cũng phải khiêm tốn, cũng thấy mình còn thiếu xót. Do còn thiếu xót nhiều, cho nên chúng ta cần phải cẩn thận đề phòng, phải giữ gìn sáu căn, oai nghi tề chỉnh. Tại sao tu tâm đúng pháp là đủ rồi mà đây Phật còn khuyên chúng ta nên giữ các oai nghi giới luật? Bởi vì chúng ta từ tử cung mẹ đi ra, ở trong bụng mẹ chín tháng mười ngày, hút những loại máu tanh của mẹ, kết làm da, làm thịt, làm xương. Từ bụng mẹ đi ra làm một đứa trẻ ngây ngô ngu muội, rồi nhận da thịt xương máu này làm thân thể của mình. Đức Phật dạy cái ngu này là ngu hơn cả. Thế cho nên chỉ một việc từ bào thai đi ra là tướng mạo rõ ràng chúng ta ngu lắm. Chúng ta học đôi chút hiểu được những lời giảng dạy của Đức Phật. Có học, có tu đôi chút thì chẳng qua là sự giác tỉnh của Phật. Chúng ta mượn giác tỉnh của Phật để làm sự hiểu biết của mình chứ thật ra sửa chữa sự ngu si từ lịch kiếp, chứ không phải chỉ học vài bài kinh A-hàm là xong. Chứng sơ thiền, nhị thiền mà đã chắc chữa được cái ngu này đâu vì vẫn còn vi tế vô minh, chứng A-la-hán thì mới được.

Chúng ta phải cẩn thận dè dặt, nói được chút Phật pháp rồi tự mãn, phải luôn luôn thấy mình còn thiếu xót. Sự mê của chúng ta nằm sâu ở trong tạng thức, nó đen xì và tối xịt. Đức Phật dạy chúng ta phải giữ cả thân và tâm đúng pháp chân chánh. Thân chính là tướng mạo của tâm. Thân buông lung là chính tâm không dè dặt, không cẩn thận, kỹ lưỡng. Một khi mình đã không dè dặt cẩn thận như người buổi tối mở tung cửa ra thì kẻ trộm sẽ lẽn vào, trong nhà sẽ bị cướp bóc tan hoang. Chúng ta cũng thế, bừa bãi không để ý, không nghiêm chỉnh thân tâm thì cảnh bên ngoài sẽ kéo chỉnh tâm của mình đi. Tâm chúng ta đã mê, không biết, nên vọng cảnh dễ lôi kéo lắm. Nếu để cảnh bên ngoài chuyển tâm vào đường mê, đường ác, đường xấu thì dễ lắm vì chúng ta đã đi đường đó từ vô thủy đến giờ. Chúng ta đã từng mê đến nổi vào tử cung mẹ hút những máu nhơ đó và thiết tha nhận những máu thịt ấy làm thân thể của mình. Rồi bây giờ hàng ngày ăn cơm uống nước thì cơm nước là đất nước gió lửa, vậy nên thân này bằng đất, bằng nước rõ ràng mà cứ nói là thân tôi. Sự mê của chúng ta về thân nặng nề lắm, cho nên Đức Phật dùng thân của chúng ta để chỉnh lại tâm của chúng ta. Thân hiện tướng vô minh thô xấu ra ngoài, nhờ đó đại chúng cùng sống trông thấy, giúp cho chúng ta chỉnh đốn lại cái thân.

Hễ thân mà chân chính vững vàng oai nghi, đứng đắn thì biết tâm nghiêm chỉnh, dè dặt. Còn thân bừa bãi làm các việc phóng túng, đi chơi ồn ào, tán gẫu thì biết tâm buông lung. Nếu không chịu thúc liễm thân tâm mà cứ thích chạy ra bên ngoài để đua tài tranh giỏi, khéo khôn để cầu danh, cầu lợi thì khó kéo trở lại, khó quay về hàng phục tâm của mình, khó quay về nhìn lại mình mà sữa những thói hư tật xấu, từ đó sẽ dễ đưa chúng ta đến những sự đọa lạc của địa ngục, ngạ quỹ, bàng sanh. Nếu không tỉnh ra để sửa lỗi của mình lại còn cho là mình hay giỏi nữa thì thành ra tự mãn tai hại.

Bình thường chúng ta thấy bình an, cho là tâm của mình phẳng lặng yên ổn không còn phiền não nữa. Thế nhưng đến khi gặp chuyện xảy ra, lúc bây giờ vô minh của chúng ta mới hiện tướng. Khi tham sân si mạn bật ra thì chúng ta có kịp giữ lại không? Cho nên biết phiền não nằm sẳn nơi đó rồi đợi lúc chúng ta sơ hở là nhảy ra. Vì thế đừng tự mãn, nghĩ rằng chúng ta bình an như mặt nước hồ thu là phiền não diệt hết rồi. Đức Phật khuyên chúng ta lúc nào cũng phải nhớ là chúng mình đang ở trong đường mê, sự hiểu biết và tu hành của chúng ta chưa thấm thía vào đâu cả. Lúc nào cũng khiêm tốn tự thấy chúng ta còn thiếu xót, dè dặt giữ gìn, nhất là những oai nghi bên ngoài bởi lẽ nó chính là tướng mạo của tâm mình đấy. Chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta chỉ cần tu tâm nên không cần oai nghi bên ngoài. Chính tướng mạo hiển tâm của mình, chúng ta phải đề phòng, giữ gìn cẩn thận, chỉnh lại tâm mình cho vững vàng.

Đừng nghĩ chúng ta được chút thiền lạc thì cho là mình đã an định lắm rồi, không cần giữ gìn nữa. Đây Phật cảnh giác phải cẩn thận, đừng cho chúng ta đã đắc đạo rồi, chắc sự tu đã vững rồi giống như vũng nước khi có mưa. Nhưng thật tin có vũng nước hoài không? Tin như thế là tin một phía vì lúc không mưa thì chỗ vũng nước nó sẽ khô và khi gặp gió nó sẽ tung bụi mù. Cũng thế, chúng ta tưởng mình đắc đạo rồi, an nhẫn lắm nhưng khi xúc sự thì chúng ta vẫn tung những bụi của tham sân si mạn ra. Vì thế nên tự biết đạo hạnh, đạo lực của chúng ta còn kém lắm, chưa có tí gì cả.

Các thầy tỳ kheo được thiền sắc giới (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền) rồi thì tiến lên lại được thiền Vô sắc giới (Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thức vô biên xứ) nữa, nghĩa là lên cõi trời cao tột đỉnh rồi. Sự tu chứng của ngài vững lắm rồi, thế nhưng càng tu cao thì lại càng dễ tự mãn. Tự mãn nghĩa là tự cho là mình hay lắm rồi. Càng tự mãn, càng dễ buông lung thì thân này rơi xuống đất càng nhanh. Cho nên đây Phật nhắc chúng ta đừng tự mãn, giống như khi có nhiều tiếng kèn trống đánh um sùm thì chúng ta không nghe thấy tiếng dế, tiếng ếch kêu. Nhưng ngày mai vua quan đi rồi, trống kèn rồng phướng cũng đi theo thì chúng ta lại nghe tiếng dế, tiếng ếch kêu như thường. Giống như tạm thời trong chùa, trong một tập thể có nội quy kỷ luật, chúng ta thấy bình an không có buông lung nhưng khi đi ra ngoài không có nội quy, kỷ luật kềm thúc thì những tập khí phiền não lại trỗi dậy. Những tiếng dế, tiếng ếch này tiêu biểu cho tập khí tham sân si của chúng ta vẫn còn đó và vẫn hiện ra khi xúc sự.

Mục đích tu tập của chúng ta là để cầu giải thoát mà giải thoát nghĩa là không có bị đầu thai vào sáu cõi, không có cái thân sanh già bịnh chết nữa. Muốn cầu hết khổ thì phải trừ ba độc tham sân si bởi vì chính ba cái độc ấy sẽ đưa chúng ta đi đầu thai, mới vào tử cung của các bà mẹ. Chúng ta phải tập để tâm mình giải khỏi ba nghiệp tham sân si. Có giải được thì mới thoát được luân hồi, không vào bào thai nữa thì chúng ta mới không có cái khổ sanh già bịnh chết. Người có trí tuệ thấy mục đích của mình là việc ấy. Mục đích là để tiêu ba độc tham sân si, để thoát cái khổ luân hồi sanh tử, thế nhưng bây giờ hễ hơi xúc sự có cái gì trái ý thì nổi sân nổi giận lên tức là quên mục đích tu tập của mình.

TỨ NIỆM XỨ

Trong kinh Niệm Xứ (Trung A Hàm, số 98) và kinh Nhất Nhập Đạo Phẩm (Tăng Nhất A Hàm, số 12), Đức Phật giảng về Tứ niệm xứ như sau:

“Có một con đường tịnh hóa chúng sanh, vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não, chấm dứt kêu khóc, chứng đắc chánh pháp là Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ là quán thân như thân, quán thọ như thọ, quán tâm như tâm và quán pháp như pháp. Này A-nan! Sau khi Ta diệt độ, người nào tu hành đúng như thế thì sẽ là đệ tử chân chánh của ta.”

Tứ niệm xứ tức là bốn chỗ chúng ta phải thường chánh niệm, luôn nhớ chớ không có quên. Đức Phật dạy chúng ta chịu quán bốn điểm này và thấy cho rõ thì như thế người ấy mới là đệ tử của Phật. Vậy bốn chỗ để nhớ là quán thân, thọ, tâm và pháp. Chúng ta phải chánh niệm đoan thân quán sát và theo dõi giống như ngọn đèn soi tỏ những gì xảy ra nơi thân, thọ, tâm và pháp. Người giác tỉnh đêm ngày thận trọng trọn vẹn hướng tâm về đạo pháp, bất luận trường hợp nào, đang làm gì, chánh niệm vẫn là thiết yếu.

Chánh niệm là chuyên nhất một việc, không nghĩ đến những điều khác. Ví dụ như nhiếp tâm khi đi ra, đi vào biết chân mình bước ra, bước vào. Tâm để ý vào bàn chân đang đi. Làm bất cứ cái gì thì tâm và thân cũng ở một chỗ. Thân đi thì tâm biết thân đang di chuyển đi. Tay co hay duỗi thì tâm sáng suốt biết rõ tay của mình đang co và đang duỗi, tức chúng ta an định nhìn thẳng vào việc mình đang làm, chứ không có nghĩ sang chuyện khác. Việc tuy đơn giản nhưng lại là một việc khó làm, đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn và chịu khó. Nếu chúng ta tập được quán Tứ niệm xứ này thì chúng ta bước vào con đường thánh hiền rồi. Bởi vì tâm của chúng ta từ lâu cứ lông bông, nghĩ hết chuyện này rồi nghĩ sang chuyện khác, nên chúng ta không làm chủ được mình bừa bãi bạ đâu nói đó, bạ đâu làm đấy, mất oai nghi chánh niệm, cho nên Đức Phật dạy pháp quán Tứ niệm xứ, đặc biệt quán thân trên thân với tiểu oai nghi để cột tâm chúng ta lại. Chúng ta chánh niệm thực hành bốn chỗ thân thọ tâm pháp đáng nhớ. Điều đáng nhớ thứ nhất là:

1) Quán thân trên thân là quán tư thế của thân, động tác của thân, các bộ phận của thân, những yếu tố tạo nên thân và sự tan hoại của thân.

a. Quán tư thế của thân, động tác của thân.

“Tỳ-kheo khi đi thì biết mình đi, đứng thì biết mình đứng, ngồi thì biết mình ngồi, nằm thì biết mình nằm, ngủ thì biết mình ngủ, thức thì biết mình thức, ngủ say thì biết mình ngủ say. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.

Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo biết rõ chính xác khi vào lúc ra, khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng, nghi dung chững chạc, khéo khoác tăng-già-lê và cầm bát; đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ chính xác. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân.”

Đức Phật dạy để chúng ta nhất tâm, chánh niệm trú vào những oai nghi, cử chỉ lặt vặt thông thường như ra vào, nhìn ngó, co duỗi là tiểu oai nghi hàng ngày. Vì tâm chúng ta loạn động, làm mà không để ý đến việc mình làm. Hàng ngày hầu hết chúng ta đều như thế đấy mà ít có người để ý việc này, cho nên Đức Phật phải chỉ ra để chúng ta để ý lại chỗ đó. Tuy chân bước đi thế này nhưng tâm lại nhớ đến chiều nay đi mua sắm (shopping) để mua hàng đang đại hạ giá (on sale) hoặc nhớ đến ba má ở đang ở Việt nam. Chân đang đi trong sân chùa ở đây mà tâm vượt trùng dương nghĩ những chuyện ở nước khác. Thân ở một nơi mà tâm một nẽo, tay ngồi khâu áo nhưng đầu nghĩ lông bông đến trăm nơi trên thế giới. Chính lúc mặc áo, cài khuy, đi tới đi lui lại, ngó nhìn mây bay gió thổi, những cử chỉ lặt vặt hàng ngày thì chúng ta đã để cho tâm của mình lang thang vọng tưởng, chứ không chú ý vào tiểu uy nghi của mình. Suốt ngày, thân của chúng ta làm một việc mà tâm lại nghĩ việc khác.

Để cho tâm trú vào hiện tại, không có đi lông bông vào quá khứ hay vị lai thì chúng ta phải tập chánh niệm trong hiện tại. Hiện tại đang cài khuy áo, đang ăn cơm, biết là tay mình đang cài khuy áo, đang ăn cơm. Có người cho đây là việc con nít không đáng làm, vì nghĩ rằng có nhiều việc cần làm hơn, nhưng không dè Đức Phật lại chú tâm vào những tiểu oai nghi này. Đây gọi là bắt đầu của sự nhất tâm tu tập Tứ niệm xứ. Đi ra thấy đi ra, đi vô thấy đi vô, gắp thức ăn biết mình đang gắp thức ăn, tâm sáng suốt nhìn việc hiện tại, phải tập đem tâm trở về với hiện tại. Đây không phải là việc khó làm, chúng ta chịu khó tỉ mĩ là làm được. Nếu cố gắng thực hành thì việc này không phải là việc mình không làm được. Nhiều người khó tu được pháp môn quán tư thế của thân, động tác của thân này nhưng pháp môn minh sát tuệ này hiệu quả rất cao và phổ biết trong các nước Phật giáo Nguyên Thủy. Nhiều thiền đường trên thế giới đặc biệt tổ chức cho thiền minh sát tuệ về tiểu oai nghi này mà thôi. Chúng ta đọc thấy tựa hồ như trò trẻ con nhưng các thánh nhân lại thấy pháp môn này là quan trọng, giúp cho hành giả đoạn trừ những vọng tưởng buông lung, để trở về nhất tâm hiện tại nên gọi là tu thiền mình sát.

Minh là sáng, sát là quan sát, nghĩa là do quan sát thấy từng cử chỉ mà khai phát ra trí tuệ sáng suốt. Tuệ minh sát này có thể đưa đến an định, niết bàn tịnh tĩnh. Đây là pháp môn chính của Phật giáo Nguyên Thủy. Riêng Phật giáo Đại thừa các tổ có đặt ra một số bài kệ trong Tì Ni Hương Nhũ cho mỗi tiểu oai nghi cũng là một dạng của thiền minh sát, tức mỗi khi bước chân xuống giường thì đọc một bài kệ xuống đơn, khi bước đi thì đọc bài kệ về việc mình đi, khi cài nút áo thì đọc bài kệ cho việc cài nút áo, đi tiểu, đi tắm… mỗi mỗi đều có bài kệ. Các vị sa-di, sa-di-ni mới vào chùa là phải học thuộc các bài tỳ ni hương nhũ này. Học thuộc để mỗi khi chúng ta bước chân đi, hay ngồi, hay sắp sữa đi ngủ, hay ngủ dậy, mỗi mỗi tiểu oai nghi đều có sẳn một bài kệ. Đến bữa cơm khi thấy bát không, phải đọc một bài kệ. Khi ngồi thiền, có tọa cụ phải đọc bài kệ, nghĩa là các tổ muốn chúng ta phải chánh niệm trú tâm trong tiểu oai nghi của chúng ta. Đi ra phải giác tỉnh, đi vào phải giác tỉnh, phải buông xả chăm chú chỉ thấy chúng ta trong hiện tại thôi. Nếu tâm bận rộn nhiều việc thì khó mà tu Thiền minh sát hay Tỳ ni hương nhũ này được.

Cả hai pháp môn này cũng cùng một công hiệu, cũng để cho được nhất tâm, có định lực, không có lông bông vọng tưởng. Từ định này mà trí của chúng ta sáng suốt trong hiện tại, không bị những vọng tưởng che mờ. Đây là phương pháp để luyện định và tuệ. Nhưng pháp môn này hơi khó phải ở hoàn cảnh là buông hết mọi việc, chuyên chú lo một chuyện quán sát này thôi, như các vị chuyên tu, chỉ một việc này thôi. Chuyên tu thì mới chuyên được việc quán này, còn lâu lâu tập 15 phút hoặc nửa giờ hay vài giờ thì khi xả pháp quán, ra ngoài, cũng có ảnh hưởng định lực đôi chút, nhưng khó có kết quả trọn vẹn. Cho nên các tổ Đại thừa thông minh đổi cách thiền quán, thay vì chăm chú minh sát này thì các ngài cho chúng ta đọc mỗi bài kệ ở mỗi tiểu oai nghi. Khi đi ra phải đọc bài kệ và nhớ rằng mình đi ra phải làm gì. Khi đi vào trông thấy dòng sông phải đọc bài kệ, trông thấy vườn hoa đọc bài kệ.

Có những bài kệ giúp cho chúng ta vừa tỉnh thức mà lại vừa an định cái thần lại để nhớ lại công việc hiện tại của mình. Nhất là các bài kệ ấy tổ lại khai phát, nuôi dưỡng, bồi đắp cho chúng ta những tư tưởng cao thượng, triết lý thâm sâu mà đơn giản của đạo Phật, cho nên pháp môn đại thừa vẫn có công năng của pháp môn tiểu thừa này mà nó lại có chỗ đưa tinh thần chúng ta đi lên, mở ra những tư tưởng giải thoát, cho nên pháp môn của Tỳ ni hương nhũ hay Thiền minh sát rất là quý, rất quan trọng.

b. Quán những yếu tố tạo nên thân và sự tan hoại của thân.

“Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân, quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt… Nếu không quán nội thân, không quán ngoại thân, không quán nội ngoại thân thì chúng ta là bọn tà kiến.”

Tà kiến sai lầm nhất là chúng ta cứ nhận thân đất nước gió lửa này là mình. Từ sai lầm này mà mở ra không biết bao nhiêu thứ tệ hại khiến cho chúng ta cứ luân hồi sanh tử, rồi cứ tự thu hút đất nước gió lửa gom lại này, nhận đấy là thể chất của mình. Cứ như thế mê muội hết đời này sang đời khác, không tỉnh ra, cho nên là tà kiến. Để chữa bịnh tà kiến ấy, Đức Phật dạy chúng ta “Quán nội ngoại thân tinh cần không có biếng nhác, ghi nhớ không có lãng quên để diệt trừ tham và ưu ở đời.” Nội thân là thân của mình, ngoại thân là thân người khác. Quán cả thân mình và thân người. Chúng ta nhớ không có lãng quên, thân của chúng ta hay thân của người đều là đất, sẽ trả về cho đất, là nước sẽ trả về cho nước, nó không phải mình, đã không phải là thân thật của chúng ta thì không tham, không vơ vét các thứ lôi về mình nữa. Vì không tham nên thân này còn hay mất cũng chẳng quản ngại. Quán nhớ như vậy thì chúng ta sẽ không lo lắng và ưu sầu ở đời. Người mà không tà kiến là biết thân này không phải mình, chỉ là nghiệp báo hiển một thời gian rồi sẽ tan như đồ dùng lâu ngày sẽ cũ mục và tan mất, cũng vậy chúng ta dùng thân này một thời gian rồi nó sẽ tan đi, cho nên không phải lo lắng ưu sầu gì cả. Ở đây, Đức Phật nhắc khi quán nội thân của mình hay quán ngoại thân người khác cũng phải tinh cần, để diệt tham ưu ở đời.

Vì sao quán thân người khác thì chúng ta cũng sẽ diệt trừ được tham ưu lo rầu? Chúng ta có một người bạn thân thiết tử tế và chúng ta tin cậy là huynh đệ sẽ giúp đỡ nhau tu tập cho đến ngày giải thoát, bỗng nhiên chị ấy lườm nguýt ghét mình và nói xấu mình khiến chúng ta ngạc nhiên và trong lòng không yên. Cho nên, Đức Phật mới dạy phương pháp quán thân người khác. Quán chị ấy là đất nước gió lửa, chung quy ngày mai cũng là một thây chết rửa nát bỏ ngoài nghĩa địa. Dù chị ấy có tử tế cũng là đất nước gió lửa, dù chị ấy có trở mặt cũng sẽ là thây chết, cho nên không bận lòng giận phiền nhúm đất nước gió lửa ấy. Truớc kia chúng ta quý người có giá trị là người bạn để chúng ta nương tựa được. Bởi vì thấy có giá trị nên kính quý trông cậy chị ấy, mới phiền giận, mới tiếc nuối tình bạn, còn bây giờ đây chúng ta quán thấy rõ rồi chung quy trước sau chỉ là thây chết mà thôi nên chúng ta không trông cậy nữa, như vậy tâm chúng ta thảnh thơi. Quán ngoại thân rất có ích lợi để chúng ta đừng bám víu nương tựa vào ai dù là người thân nhất của mình. Như có nhiều bà mẹ điên cuồng muốn chết khi chứng kiến đứa con yêu quý của mình qua đời, chỉ bởi vì quá yên quý đứa con cho nó là con cưng thật của mình. Cho nên khi nó chết thì người mẹ chịu không nổi đến kêu gào phát điên: ‘Con của tôi đâu? Con trai yêu quý của tôi đâu?’ Bà chạy khắp nơi, gặp ai cũng tìm cách hỏi phương pháp cứu con và cuối cùng bà đến đãnh lễ xin Đức Phật cứu giúp. Đức Phật bảo bà: ‘Hãy đi tìm một hạt cải nơi nhà nào mà chưa có thân quyến qua đời, đem về đây Đức Phật sẽ cứu.’ Bà vội chạy vào làng hỏi và khám phá rằng nhà nào cũng có người chết cả. Phật liền cảnh tỉnh bà, đó là luật vô thường cho bất cứ ai là con người cũng phải bị. Cũng thế, chính thân chúng ta hay bạn bè và người khác chung quanh đều bị chung số phận bị luật già chết chi phối này.

Pháp quán Tứ niệm xứ giúp chúng ta tỉnh ra thân người bất quá cũng chỉ là dư nghiệp của một thời gian, cũng chỉ là đất nước gió lửa giả hợp tạm thành hình trong một thời gian. Nó đã hợp được rồi thì nó phải tan đi, đủ duyên thì hợp lại, hết duyên thì tan rã. Tỉnh được ra như thế, biết đúng sự thật như thế thì người mẹ đỡ khổ và chúng ta đỡ vướng chấp vào người khác. Sinh sống giao tiếp trong xã hội, chúng ta sẽ gặp rất nhiều thứ va chạm, vâng lời Phật, tu tập pháp quán này sẽ giúp chúng ta được thảnh thơi tâm. Không có pháp môn Phật dạy mới thật là khổ, vì nó sẽ đưa đẩy chúng ta đi đến sai lầm. Cứ nắm lấy những hư vọng không đâu, những cái không thể gỡ được mà cứ cố chấp, như đứa bé phải chết vì đất nước gió lửa không hòa, không thể nào sống lại được một khi đất nước gió lửa đã tan rã. Người mẹ phải thấy quy luật vô thường này và nắm phương pháp Phật để tỉnh ra, học Phật pháp thì chúng ta sẽ đỡ khổ. Quán thân ta thân người để giúp chúng ta tỉnh thêm ra, không để nổi thống khổ mất người thân làm cùng quẫn rối trí không có cách nào mà gỡ, để rồi từ mê vào mê.

c. Quán bất tịnh và 32 thể trược ở thân mình (nội thân).

Quán bất tịnh là quán sự nhơ nhớp, không sạch sẽ. Thân có ba thời bất tịnh là quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong quá khứ tức còn trong bào thai máu mũ, nước nhớt thì là sao mà sạch. Hiện tại thân có 32 phần (tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tủy, thận; tim, gan, bầy nhầy, bao tử, lá lách, phổi; ruột già, ruột non, phân, óc, mật; đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc, mỡ lỏng; nước mắt, mước mũi, nước miếng, nước nhớp, nước tiểu) và chín lỗ (hai lỗ mắt, hai tai, hai mũi, miệng, lỗ đít và hậu môn) để chảy những bất tịnh thì làm sao mà bảo nó sạch. Tương lai thân này sẽ thành một thây chết hôi thối, phải đem chôn và cơ thể sẽ tan rã theo chín giai đoạn như:

1) Trướng tưởng (sau khi tắt hơi rồi, không còn thức thứ tám trì giữ mạng căn nên thi thể bắt đầu phồng lên)
2) Thanh tưởng (rồi xanh tái đen)
3) Hoại tưởng (da thịt bắt đầu bở toét như bánh mì nhúng nước nứt nở và mềm bủng ra)
4) Huyết đồ tưởng (các thứ nước, máu mủ trong thân chảy ra)
5) Nồng lãng tưởng (thi thể nát bét rồi, nên mùi hôi thối xông ra)
6) Hám tưởng (da thịt rục rã)
7) Tán tưởng (thịt tan, còn xương)
8) Cốt tường (xương cũng mòn dần)
9) Thiêu tưởng (tro bụi của xương cũng tan theo hư không và không còn để lại dấu vết gì)

Thân hiện tại của chúng ta bị bịt chặt kín mít, chỉ có chín lỗ hở là thông bên ngoài thôi. Hàng ngày theo chín lỗi hở đó mà bài tiết ra những phân, nước tiểu và những chất bất tịnh. Một chai dầu thơm khi mở nút hương thơm bay ra ngào ngạt ai cũng thích ngữi. Một hũ cá mà mở nắp bay mùi tanh ra khiến ai cũng khó chịu. Thân thể của chúng ta cũng bài tiết những chất rất nhơ bẩn mà mọi người thấy phải né tránh, thế thì biết trong thân này chứa những thứ không có hối thối giá trị. Ngoài chín lỗ thông hơi, thân căn còn có vô số hàng ngàn những lỗ chân lông hàng ngày ri rỉ bốc những thứ hôi bên trong tiết ra nên gọi là mồ hôi, chứ không gọi là mồ thơm. Rồi cáu đất bẩn ngoài da là những thứ chán ghét, nên gọi là cáu ghét và mỗi ngày chúng ta phải tắm rửa kỳ cọ thì mới có sạch sẽ, nhưng chỉ sạch trong thời gian ngắn thôi, sau đó bên trong tiết ra lại dơ lại nên phải tắm rữa thường xuyên suốt đời như vậy. Cho nên rõ ràng thân chúng ta chứa toàn những thứ tanh nhơ hôi hám.

Miệng chúng ta thông xuống cổ họng rồi vào dạ dày, trong dạ dày chứa đựng những thức ăn. Những thức ăn ấy bắt đầu mục nát, cho nên mùi thối bắt đầu từ dạ dày này mà có, rồi nó đi đến ruột thì thức ăn thành ra là phân. Tâm thức của chúng ta khôn ngoan lắm, nó tự tạo một lớp đờm để phủ trên thức ăn. Chúng ta ăn thì thức ăn rơi lọt xuống dưới, do đờm phủ lên trên để ngăn chặn bớt mùi hôi, nếu không có lớp đờm thì thức ăn thối nát bốc mùi không ai chịu được. Thức ăn phân hủy, tự lọc chất bổ thấm vào da thịt, thành máu nuôi cơ thể, chất nước thành nước tiểu, còn chất bả thì xuống thành ruột già, cách một đêm thì thành phân, để vứt ra ngoài. Đó là hệ tiêu hóa tuần hoàn trong cơ thể của chúng ta. Thân nhơ bẩn thế mà nhiều người tưởng thơm tho quý giá nên trang điểm cho đẹp và mua những thứ đắc tiền cho nó mặc nữa. Đức Phật thì thấy được thân căn chỉ là những đãy da di động, đựng đầy những thứ hôi thối. Đó là nhơ bẩn của báo thân hiện tại.

Báo thân tương lai cũng nhơ bẩn là khi bịnh hoạn, già yếu, rồi đến lúc cuối cùng sắp tan rã thì nó lại càng ghê gớm nữa. Thi thể xanh lè, tím đen, phình nát, rồi chảy mủ, chảy máu; mùi hôi bốc lên, vừa hôi hám sợ hãi mà độc nữa. Hiện giờ thân còn sống tức còn mạng căn chấp trì giữ gìn, nên mọi thứ trong thân ổn định, điều hòa. Những chất nước, máu, mỡ và các thành phần khác của thân cũng nhờ mạng căn mà được cất giữ yên ổn nơi định vị của chúng, nhưng đến lúc lâm chung hơi ấm đã hết, mạng căn đã đứt, thần thức không hiện hành nữa, không có sức chấp trì giữ gìn cái thân này nữa thì các chất và các phần trong cơ thể sẽ nổ tung và bật bể ra. Thây chết sẽ phình lên toàn là nước; khi phồng quá lớn thì sẽ bị bể, nứt da ra (như bánh mì ngâm nước) do đó các chất lõng máu, mủ, nước tiểu trong thân sẽ chảy rỉ ra ngoài. Lúc bấy giờ thì không có sạch sẽ thơm tho, ai cũng sợ ngữi hơi hôi này vào bị bịnh, nên mọi người đều phải né tránh sợ hãi. Người ta phải tránh, chẳng những vì nhơ bẩn, vì mùi hôi nồng nực khó chịu mà còn vì hơi độc nữa, nó sẽ gây bịnh ô nhiễm. Vì thế, dù con cháu có hiếu thảo đến đâu, thương người thân bao nhiêu thì cũng vội bỏ thây chết vào quan tài, đóng thật kỹ, dán thật kỹ, chôn hay đi thiêu ngay để tránh những hôi nhơ bẩn ảnh hưởng những người chung quanh, người ta phải gớm ghê, chứ không có dám để ở trong nhà, phải mang thật xa, tìm những cánh đồng xa xôi. Đào huyệt thì đào thật sâu vì sợ con chó, hay con gì nó không biết nó đập phá quan tài ra thì lại bẩn thỉu nên phải đào hố cả mấy thước, rồi lại lấp chặt. Như vậy, thân hiện tại 32 thể trược nhơ bẩn đáng chán và mai đây cuối cùng thành tử thi cũng là cái rất đáng ghê sợ mà thiên hạ rất sợ hãi.

Báo thân quá khứ cũng nhơ bẩn vì tinh thần của chúng ta mê muội, theo nghiệp lực ân oán mắc vào tử cung của mẹ, ở trong bào thai đầy máu mũ nhơ nhớp đó chín tháng mười ngày. Cung là túi, chỗ ở, tử là đứa con, tử cung là chỗ ở của đứa bé con, là cái túi bằng da, chứa toàn thứ máu tanh. Mỗi tháng người nữ có một số máu nhơ chảy ra ngoài để vứt đi gọi là kinh nguyệt, nhưng khi có một tinh thần theo nghiệp lực mắc vào tử cung người mẹ thì cứ hút những loại máu bất tịnh đó để làm thức ăn. Lúc bấy giờ, người mẹ khoe với hàng xóm rằng tôi tắt máu hai tháng hay ba tháng nghĩa là cái máu đó không ra nữa bởi vì đã có một tinh thần ngu muội ở trong đó hút cái đó làm thức ăn để tự nuôi sống mình. Tinh thần ấy quyện chặt lấy máu đó làm thức ăn, kết làm da làm thịt làm xương để thành bào thai. Không phải chỉ có chính một mình chúng ta ngu, chúng ta mới hút máu đó đâu mà cả thế gian này cũng đều hút máu như vậy. Chúng ta đã ngu si mắc vào một cái túi toàn máu và xem túi máu đó vừa là thức ăn, vừa là chỗ ở của mình. Chúng ta lấy làm mãn nguyện sung sướng vì chỗ ấy thức ăn nhiều lắm, không có thiếu. Như vậy, chúng ta phải biết giá trị thật của chúng ta xuất xứ từ chỗ nhơ bẩn như vậy, chín tháng mười ngày dần dần lớn lên để mà có da có thịt thành bào thai và đã đi ra theo với máu mủ và các nước nhớt. Cho nên vừa ra đời là phải tắm, lau cho đứa bé, vì ở chỗ dơ mà ra. Khi chào đời, đứa bé phải chun ra ngay lập tức cho kịp, nếu chậm một chút thì ngạt hơi thở vì khi thành hình thì thai nhi phải ở trong một cái túi kín mít, nhưng đến khi phổi bắt đầu biết thở thì lập tức hài nhi phải chun ra ngoài nhanh để có không khí để thở. Nếu chậm trễ thì đứa bé sẽ bị ngạt mà chết, mạng sống của đứa trẻ rất mong manh yếu ớt như vậy. Cho nên, thân quá khứ của tất cả chúng ta khi là hài nhi mỏng manh dễ vứt đi lắm và rất bất tịnh vì từ đống máu nhơ mà đi ra.

Đức Phật không phải kể xấu thân chúng ta mà vì lòng từ bi ngài đã chỉ ra sự thật và khuyên chúng ta nên sống bằng sự thật, phải thấy giá trị thật của mình. Chúng ta đeo một túi nhơ bẩn như vậy mà cứ che đậy bên ngoài bằng những thứ cao sang và còn cứ tự cao, vênh váo, còn hờn giận, tham si đủ thứ chuyện nữa thì đó là chúng ta không biết lẽ phải, bởi vì không thấy đúng sự thật, cho nên mới không biết lẽ phải và sống sai lầm. Còn bây giờ hãy nhìn sự thật, trước khi biết sự thật mênh mông của vũ trụ vạn vật, thế giới bao la của các sao hỏa, mặt trời, mặt trăng thì hãy biết chính thân tâm mình, biết đúng tầm cở giá trị của thân mình chỉ là bất tịnh thì chúng ta sẽ sống đúng với lẽ phải, sẽ biết khiêm tốn, nhún nhường hơn. Đó là tướng mạo của người trí tuệ đã sống với sự thật, đã biết sự thật, đó cũng là nắm được chân ý của Tứ niệm xứ.

Đó là quán bất tịnh và quán 32 thể trược ở nội thân.

d. Quán bất tịnh và quán 32 thể trược ở ngoại thân (thân người)

Theo như thường lệ khi quán thân của người khác, chúng ta phải chọn ba người: người thương, ghét và không thương không ghét. Cũng quán quá khứ từ lúc trong bào thai đến hiện tại và mai đây đến khi chết phình thối giống như thân của chúng ta không khác. Chúng ta phải quán tỉ mĩ, nếu quán lướt thì cái mê của mình không tỉnh. Mê tự lịch kiếp tới giờ, người khác cũng như mình cứ lấy đất nước gió lửa ấy làm thân, cho nên phải quán làm sao cho tỉnh ra chứ không phải phớt một tí này mà tỉnh ra được.

i. Người ghét

Chúng ta chọn người hay ganh ghét, xoay sở, bêu xấu rêu rao mình để quán. Quán thật sự chứ không ngần ngại, nếu không dám quán kỹ thì chúng ta sẽ không thấy tận cùng sự thật. Cô A cũng cùng với chúng ta đang ngu si mê muội, sống trong nhơ nhớp mà không tỉnh ra. Bản thân cô A cũng là túi đựng toàn thịt, máu tanh, thức ăn thiu thối; cô ấy cũng có một bộ ruột dài mấy thước chứa toàn phân, rồi một túi đựng toàn nước tiểu thật là khai. Túi ấy lại có bao nhiêu những nước nhớt thật là khấm. Thân ta là một túi chứa những thứ thối, khấm, khai, tanh và khi chết, các thứ nhơ nhớp ấy bể tung ra càng bất tịnh hơn và xương da thit thì lại long rụng mủn tàn trả về cho đất. Cô A quá khứ, hiện tại và tương lai không có gì khác với chúng ta, đồng nghiệp người với chúng ta, vẫn cùng với chúng ta đang ngu si mê muội. Sống trong nhơ nhớp không tỉnh ra, không tự biết mà còn cả ngày lo đi tạo tội, lo đi xoay sở, gây rối người này người kia tạo nghiệp luân hồi. Khi biết như vậy thì chúng ta không khởi lòng thù ghét mà trái lại, khởi lòng thương tưởng đến cô ấy, thương hại cái nghiệp mê muội tối tăm không biết ấy.

Vì thế, Đức Phật mới dạy chúng ta phải quán bất tịnh để giải lòng hờn hận, thù oán, giải thất tình (mừng, giận, thương, ghét, buồn, vui, muốn), lục dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, pháp dục) đều tan đi hết, bởi vì biết rằng thân này không thật, hư vọng, là cái đáng chán. Trước kia, tưởng thân có giá trị cần gìn giữ thì mới y vào giá trị này mà tranh đấu, cải nhau chuyện nọ chuyện kia, còn bây giờ biết bất tịnh như thế rồi thì buông xuống. Cho nên đối với cô A, người mình ghét nhất tự nhiên mình không hờn, không phiền nữa mà thấy tội nghiệp. Cô A càng chọc, càng xoay sở mình thì mình càng thấy thương hại, bởi vì thân khổ như thế, ở trong đường mê như thế mà lại còn tạo thêm tội để ngày mai vào địa ngục, làm loài súc sanh, làm con chó, con mèo lúc bấy giờ ai có thể gỡ cứu cho ra.

Bây giờ là lúc được làm người còn tỉnh, còn tu được mà nếu cô A không biết tu để đi lên, lại cứ tự mua lấy những việc để đi xuống địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh. Chúng ta phải thấy rõ như vậy cho nên xót thương. Đó là mẫu người thứ nhất mình quán trong ba mẫu người mà Phật kêu để giải những phiền oán của mình. Chúng ta thấy cô A là người mà chúng ta ghét, thật ra cô A với chúng ta là như nhau, là bạn đồng nghiệp trên đường vô minh đọa lạc.

ii. Người thương

Chúng ta chọn người chúng ta thương nhất, yêu nhất như ba mẹ, anh chị em. Quán tỉ mĩ thịt gân xương tủy thận, từng thứ từng thứ trong thân bất tịnh để chúng ta nhận định trong hiện tại thân cha mẹ là nhơ bẩn. Theo chữ nghĩa thì chúng ta chỉ nói xuông thì không có ích cho sự giác tỉnh, muốn giác tỉnh thì tự chúng ta hàng ngày phải quán sát thật và phải có đầu óc thích phiêu lưu đi tìm sự thật, mới mượn những phương pháp của Phật để tự mình khám phá, tự mình phát minh sự thật, mình mới có sự tỉnh thức thật sự. Chứ nói theo đuôi mọi người như con vẹt thì là một việc mất thời gian vô ích.

Chúng ta cứ thương ba mẹ mà không biết rõ sự thật mẹ là ai, mẹ thế nào mà cứ ôm lấy da thịt xương ấy mà thương rồi đến ngày mai da thịt ấy phải tan rả ra; thân của mẹ theo thời gian sẽ thay đổi thì lại ngồi khóc lóc đau khổ rằng ‘Mẹ tôi chết, bỏ tôi rồi’. Chúng ta đang khóc với những thân xác hảo huyền sanh diệt bên ngoài thì chúng ta cũng sẽ di chuyển thăng trầm vui buồn lên xuống theo sáu đạo. Đối với mẹ, người mình yêu nhất, thiết tha gắn bó nhất thì thấy rõ tỉ mĩ trong quá khứ, mẹ cũng là một tinh thần hút máu bất tịnh làm thức ăn như thế, rồi biến chuyển thành da thành thịt gọi là mẹ. Hiện tại mẹ là một đãy da đựng các thứ bất tịnh, toàn máu tanh, rồi trong ruột toàn là đồ dơ, một bao nước tiểu. Ở trong thân cũng tanh nhơ, ra ngoài lỗ chân lông cũng hôi, cũng dơ, chúng ta phải nhận ra sự thật này. Đến một ngày mai mẹ sẽ là một thây chết như chúng ta. Quán như thế thì thấy lòng yêu thương mẹ không giảm mất mà còn thêm một tình cảm là xót thương cho mẹ và làm thế nào để cho mẹ cũng được tỉnh ra. Lúc bấy giờ thấy rõ bổn phận là làm thế nào để cho mẹ đừng nhận thân này là mình, mà nhận ra thân là đáng chán, khổ não, là cái để vứt đi, sẽ thối nát và tan đi. Nếu thật quán sát bất tịnh hữu hiệu thì sẽ thấy càng quán, càng thương quý mẹ hơn nữa. Tội nghiệp mẹ cũng như mình đã mê muội nhận cái xác hư vọng này làm thân. Tự thấy bổn phận bức bách là phải giúp mẹ tỉnh ra và lúc này không thấy thân mẹ mình khác với người khác, người thương cũng như người ghét hoà đồng, tâm trở thành một tấm lòng từ bi xót thương lân mẫn đối với cả ân cả oán. Đây là kết quả quyết định vì hễ chúng ta có thực hiện thì chúng ta sẽ tự thấy. Tu một ngày thì một ngày thấy; tu ba ngày thì ba ngày thấy; tu năm ngày thì năm ngày thấy. Kết quả quyết định như thế, nghĩa là do quán bất tịnh thấy sự khổ của chúng sanh bao gồm cả người thương, người ghét giúp chúng ta giải tham, giải sân mà phát ra tâm từ bi thương xót. Do tâm từ bi thương xót ấy cho nên không có bỏ một chúng sanh nào, giúp chúng sanh đừng mê muội nữa mà nên nhìn thấy sự thật ngay trước mắt để tỉnh ra. Một việc ai cũng có thể thấy mà cứ nhắm mắt lại không chịu thấy, không dám thấy, cho nên chúng ta có bổn phận phải khai mở sự giác tỉnh cho những người chưa biết. Thân chúng ta hay thân người chỉ là đất nước gió lửa không có thật. Tập học quán như thế để tiêu trừ ba độc tham sân si. Trước hết chúng ta phải tỉnh cho ra để hết sự ngu đi đã, hễ hết sự ngu mê thì tự nhiên tham sân sẽ bớt. Còn ngu muội thì tham sân cứ nổi lên, bởi vì tham sân là tướng của sự ngu si. Chúng ta may mắn học Phật pháp để cho đỡ sự ngu si đi.

Quán nội thân, ngoại thân là thuộc quán thân trên thân, nhưng đây là phương pháp để tu tâm. Quán tỉ mĩ thấy thân thể ta là vô số tế bào bất tịnh đang chuyển biến như dòng sông trôi chảy, không có chủ quyền mà chúng ta chấp thân là thật, nên khi tâm của chúng ta khởi yêu thì thành hệ lụy ràng buộc; khi khởi ghét thì nổi hận thù tạo thành nghiệp chướng, bởi vì theo chỗ hiểu biết sai lầm cho là thật, cho nên tâm của chúng ta biến chuyển sai. Muốn chuyển tâm mình thì phải tập quán thấy đúng sự thật đi. Người mà chúng ta yêu quá cũng chỉ là báo thân mai đây sẽ long rụng mủn tàn trả về cho đất. Người mà ghét lắm cũng chỉ là một đống thịt mủn tàn trả về cho đất. Chúng ta phải quán từ đầu đến cuối, từ lúc bắt đầu là tinh cha huyết mẹ đến lúc cuối cùng là thây chết nhơ bẩn đáng sợ cho nên Đức Phật nói thân này chỉ là một túi da đựng toàn đồ bất tịnh hôi thối. Tỉnh được những điều này ra thì tự nhiên tâm chúng ta có sự trở về. Tâm thấy đúng sự thật thì tâm sẽ trở về an ổn, tiêu được những tham sân thủ chấp. Vì những thủ chấp này mà tạo nghiệp mà rồi ngày mai lại đọa lạc, cho nên bây giờ phải để nó tỉnh ra. Nếu chúng ta tỉnh ra thì sẽ không có những ‘hoặc nghiệp khổ’ xoay vần nữa. Ba vòng ‘hoặc nghiệp khổ’ cứ quay tròn mãi, bây giờ cần quán bất tịnh để tỉnh ra. Khi tỉnh ra thì xóa được vòng ‘hoặc’, khi vòng ‘hoặc’ đã phá thì tự nhiên sẽ hết hai vòng ‘nghiệp và khổ’.

2) Quán thọ trên thọ

i. Quán ba thọ là khổ và vô ngã

Ba thọ là cảm giác lạc, khổ và không lạc không khổ. Cả ba thọ này chỉ là khổ thôi nên Đức Phật nói tổng quát là hễ cứ có thọ là có khổ. Muốn quán thọ thì chúng ta đi ngược với xúc là vô ngã. Như con mắt thấy hoa hồng, thấy món quà tặng là xúc, tai nghe âm nhạc là xúc. Đức Phật dạy chúng ta phải hộ sáu căn ngay từ lúc xúc chạm này, cho nên phải quán ngay xúc này là vô ngã. Nhân là có con mắt không hư, duyên là có hoa hồng, có ánh sáng mặt trời phản chiếu bóng ảnh của hoa hồng vào trong con ngươi không hư; thần kinh nhãn căn của chúng ta liền báo là có hình ảnh và nhãn thức liền phân biệt đây là hoa hồng. Chúng ta tưởng là thấy có một hoa hồng thật ở bên ngoài cảnh mà không biết hoa chỉ là một bóng ảnh trong mắt chúng ta. Sự xúc chạm giữa hoa và mắt là cái không hề có. Không hề có hoa hồng nhảy vào mắt chúng ta và mắt chúng ta cũng không hề nhảy vào đóa hoa hồng kia. Sự thật, chúng ta đâu có chạm vào cái hoa, cho nên xúc là vô ngã, tức là cái không có thật, chỉ có ánh sáng mặt trời chiếu vào cái hoa, rồi ánh sáng mặt trời ấy hiện vào con ngươi để hiển lên một cái bóng ảnh vậy thôi. Chúng ta phải học để biết sự thật này, chúng ta bị vô minh của mình đánh lừa. Sống bừa bãi chứ không có tâm để xét điều phải điều trái.

Bây giờ chúng ta học để chúng ta chọn lọc, học sự thật, thấy rằng xúc là vô ngã. Hễ có xúc là liền có thọ, thấy hoa hồng là lòng liền thọ vui. Nhưng nếu xúc đã vô ngã thì đưa đến thọ cũng vô ngã. Chúng ta thử tìm xem niềm vui thấy hoa hồng hiện lên và đứng ở đâu mà chúng ta suốt ngày cứ nhận là tôi vui. Chúng ta có tập khí hễ cái gì vừa ý thì vui, cho là tôi vui và nhắm mắt để cho cái vui này sai xử, chứ không soi lại xem vui này ở đâu và sao lại nhận nó làm mình? Cho nên đây Đức Phật dạy chúng ta mỗi khi thấy vui hay khổ hiện lên, quay lại nhìn thẳng vào nó và xem nó là cái gì? chứ đừng nhận nó làm mình bởi lẽ những khổ vui chỉ là cảm giác. Chúng ta từ vô thủy đến giờ có thói quen cứ nhận thân này là mình, nhận đất nước gió lửa này làm thân, nên cái gì có lợi là vội thâu về cho mình. Những thói quen này cứ huân tập lâu ngày trong tạng thức và khi xúc sự thì cứ tự động vặn lên như cái lò xo, cứ thế tâm bật lên những vui, những khổ chứ chính chúng ta không có chủ quyền. Chúng ta là nô lệ cho những loại khổ vui này bởi lẽ chúng ta cứ thấy khổ thì sợ hãi, thấy vui là mừng quýnh mà không biết rằng đây là những sự mê muội từ vô thủy. Bây giờ tập học Phật để quay lại làm chủ khổ vui, nhìn thẳng vào nó. Đáng thì chúng ta dùng, còn không đáng thì bỏ đi, chứ không để cho khổ vui sai xử chi phối chúng ta. Những cảm giác này đã sai sử chúng ta suốt đời hay nói đúng hơn là từ lịch kiếp tới giờ.

Thế nên, Đức Phật dạy chúng ta phải tỉnh ra và không thọ nữa vì thọ dẫn tâm ưa thích trìu mến hoa hồng khởi lên. Tưởng này chuyển động chúng ta rất mạnh và nhanh, hễ chúng ta ưa thích hoa hồng thì chúng ta liền nghĩ đến chuyện hành động, đi xin hoặc đi mua hoa hồng để chưng trong phòng mình, rồi nhận hoa hồng là của mình. Thế nên, Đức Phật dạy quán thế nào để thấy nó không phải là mình, đừng nhận hoa hồng, đừng nhận sự yêu thích tham đắm hoa hồng này là mình. Bản thân hoa hồng là cái không có, nó chỉ là bóng ảnh mỏng manh hiện lên trong con ngươi rồi sẽ chóng biến mất để bóng ảnh khác hiện lên. Thân này cũng không thật chỉ là đất nước gió lửa, mai sẽ tan rã trả về cho đất. Người và hoa là cái không có, vậy sự yêu thích hoa này đứng chỗ nào? Làm sao chúng ta cứ nhận là mình thích hoa hồng, rồi sai xử chúng ta đi mua hoa hồng và lại nói tôi thích hoa lắm? Những cái này đều tên là vô minh, những nhân duyên giả hiện thành những hư vọng. Nếu có ai hỏi vô minh đứng ở đâu thì chúng ta bảo đó là xúc, là ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nên nếu chúng ta cứ nhắm mắt bảo là mình thích hoa hồng thì đấy là vô minh, là mê muội. Bây giờ vâng lời Đức Phật sáng suốt bình tĩnh, ngó lại chúng ta đừng để cho những cái này chi phối.

Nếu chúng ta cứ để cho những cảm thọ thích hoa hồng, thích xe hơi, quần áo đẹp, nhà lầu sang trọng, tiền bạc sai xử để đến nổi nhắm mắt đi ăn trộm, nói láo tạo tội, khiến phải làm thân trâu bò kéo cày trả nợ, làm chó giữ nhà cho chủ, làm gà vịt trả nợ ăn thân mạng của chúng, khiến Đức Phật phải thương tiếc mà nói chúng sanh oan uổng mà chịu khổ vào lục đạo. Cứ nhắm mắt sống bừa bãi, cứ sống buông lung không chịu quay về suy xét, không chịu tỉnh ra, không có khai trí tuệ. Đó là nguồn gốc của cái khổ.

Vô minh là nguồn gốc đầu tiên của 12 nhân duyên (vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão bịnh tử). Trong 12 vòng nhân duyên thì vô minh là khoen đầu tiên. Hễ chúng ta tỉnh ra, chỉ cần tỉnh ra thôi, đừng để cho vô minh sai mình thì vô minh sẽ tan, vì nó vốn là cái không có. Không để cho tham sân si vô minh sai sử, nhận ra được thì vô minh được phá vở thì 11 khoen còn lại kia cũng vỡ theo. Thế là chúng ta khôi phục được, không có để cho rắn vô minh sai sử. Xúc cũng không có, thọ cũng không có, tưởng cũng không có, hành cũng không có mà chúng ta suốt ngày cứ tôi thấy, tôi nghe, tôi khổ, tôi vui, tôi ưa, tôi ghét, rồi tôi làm thiện, làm ác. Cái gì cũng nhận làm tôi, đến nổi bị nô lệ để cho vô minh sai sử, đi về đường mê. Thức chính là tâm của chúng ta, nhưng chúng ta để cho sắc thọ tưởng hành sai sử thành ra tâm của mình mất sự sáng suốt. Chúng ta mỗi ngày huân tập năm đường mê này mà không phải mỗi ngày, phải nói là mỗi giờ, mỗi phút, mỗi tích tắc, sát na huân tập đường mê này; bây giờ đừng nhận làm mình nữa thì thoát luân hồi. Vì để cho xúc, thọ, tưởng, hành, lôi cuốn nên thức chuyển hóa theo đường mê, biến hóa theo đường mê. Cứ quán nhận ba thọ vô ngã thì tự nhiên sẽ thấy về vô thường và khổ, quán như vậy rồi tâm sẽ an định.

ii. Quán ba thọ là khổ và vô thường sanh trụ dị diệt

Các cảm thọ sanh diệt, diệt sanh không ngừng theo sự hoạt động của sáu giác quan. Cảm thọ vui đưa đến tham luyến, cảm thọ khổ đưa đến thì sanh lòng chán bỏ. Mỗi cảm thọ đều kích thích tham hoặc sân hoặc si khởi lên. Chánh niệm không nhận thọ là mình nữa, không nói tôi ưa thứ này, tôi chịu thứ kia, tôi vui, tôi khổ nữa, thấy được nguồn gốc của thọ là vô minh. Thọ vốn là hư vọng, không có bản chất, chỉ là những cảm giác sanh và diệt theo nhân duyên. Được khen ta vui; nghe chê ta buồn; không nghe khen chê thì cảm giác không vui, không buồn. Phải quán chiếu để khám phá ra căn bản thọ vui, thọ khổ vốn là từ ngã ái. Lạc thọ, khổ thọ này đưa vào ảo tưởng, có tỉnh ra mới tránh được những tự hào hay tưởng tượng vô ích. Khi lạc thọ ảo hóa thật sự tan biến thì nhường chỗ cho sự vui lành mạnh có tác dụng nuôi dưỡng giác ngộ.

Các cảm thọ rõ ràng bất định, khổ vui tùy theo bản chất mỗi người. Đức Phật dạy chúng ta dùng hơi thở định tâm để quán chiếu sự có mặt của khổ vui rồi từ từ điều phục. Hơi thở nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Thân tâm nhẹ nhàng an tịnh dần dần. Cứ như thế chúng ta an tịnh hóa cả ba thọ. Chánh kiến thấy rõ nguồn gốc, bản chất và hậu quả của những cảm thọ khổ vui nên giải thoát được sự thống chế của nó.

Những cảm thọ khổ vui vốn không tự có, chỉ nẩy sanh mỗi khi căn trần tiếp xúc, nếu không có duyên thì không thể phát sanh. Chúng ta tự phụ là loài người thông minh hơn loài vật nhưng hành động của chúng ta vẫn bị sai lầm không biết sai trái như loài vật (vì miếng ăn loài vật có thể cấu xé tàn hại lẫn nhau), cũng thế cả đời chúng ta cũng bị những ảo hóa tham sân si này đánh lừa, vẫn giành giật nhau để thọ hưởng, tàn sát lẫn nhau vì miếng ăn, vì quyền lợi, vì tình cảm,tranh hơn, trù rủa, xâu xé, hằn thù, chung quy cũng chỉ vì hai cặp khổ vui, yêu ghét (thọ và tưởng). Cho nên chúng ta kêu khổ, Đức Phật gọi là khổ khổ, vì thân sanh già bệnh chết đã khổ còn thọ thêm cảnh khổ bên ngoài. Chúng ta vui, Phật gọi là hoại khổ vì vạn pháp tánh chất vô thường, quá khứ đã qua, hiện tại đang mất. Thấy vui chỉ là những cảm giác do tưởng mà ra.

Chúng ta thọ sự không khổ không vui thì Đức Phật bảo là hành khổ, bởi vì si mê cho căn trần là thật, chấp thân ta là thật và các cảnh bên ngoài là cảnh giới của ta nên càng huân càng dầy sự vô minh thì quyết định sẽ đưa chúng ta đến khổ báo của địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh. Người đời cầu vui, không biết rằng vui không chỗ đứng. Vị lai chưa đến, quá khứ đã qua, hiện tại không dừng, niệm niệm sanh diệt. Ăn uống để khỏi đói khát, do đỡ khổ nên tạm cho là vui. Từ khổ sanh rồi lại sanh quả khổ. Lừa dối người chốc lát lấy làm vui mà không biết quả báo nguy hiểm đang đợi mình nên Phật gọi vui thế gian là hoại khổ. Như độc dược của tà hạnh ái nhiễm người đời gọi là vui nhưng đối với Đức Phật thì đó là hoại khổ, là nhân sanh tử đưa đến tái sanh trong sáu đạo, khiến đoạt giới thân, giết tuệ mạng. Cho nên, Đức Phật dạy càng lãnh thọ bao nhiêu thì càng khổ bấy nhiêu. Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đừng tham cầu, bởi vì càng thọ là càng khổ. Tập xả thọ để buông xả những cảm giác sanh diệt, tạm bợ, không thật thể.

iii. Xả thọ

Khi ba thọ hay ngũ ấm (sắc thọ tưởng hành thức) hiện lên thì bậc thánh trí biết những cái này là vô minh, hư vọng, không để cho tâm tán loạn, nô lệ chạy theo những hư vọng ấy, không nhận là ta hay của ta, do đó các ngài được an định dừng hợp nhất tâm. Các ngài được an định như thế, bởi vì các ngài luôn giữ chánh niệm không quên, không si, nên khi nghe khen, các ngài cũng bình tĩnh và nghe chê các ngài cũng thản nhiên, ấy gọi là xả thọ. Cho đến có người ra chưỡi bằng miệng, hoặc tay đấm, chân đạp liên tục, hoặc lấy gậy đánh đập thì càng đau nữa hoặc lấy dao chém chảy máu nguy hiểm đến tánh mạng tức họ xúc phạm đến thân của mình, khinh miệt như vậy, nhưng các ngài vẫn thản nhiên, không khởi một niệm oán hờn sân giận. Đây là Đức Phật tỉ mĩ nói từng trình độ thấp cao của những sự xúc phạm từ việc chưỡi bằng miệng, rồi đánh bằng gậy, rồi chém bằng dao, chúng sanh muốn làm gì thì các ngài vẫn không giận, không biến sắc, sắc mặt vẫn thảnh nhiên bình thường, tươi vui.

Chúng ta thấy có những bà mẹ bế con mà đứa con tát hết thật lực của nó vào mặt mẹ hay cắn mẹ một cái thật mạnh đến nổi chảy máu nhưng mà mẹ vẫn cứ cười. Vì sao mẹ không giận? Đứa trẻ, con nít, ngây thơ xúc phạm thì không giận, vì là con của mình và thương con; còn người lớn và người ngoài mà xúc phạm thì mẹ sẽ giận điên lên vì biết người này xấu, có ác ý với mình, tức là chúng ta còn phân biệt người ngoài và con ruột nên còn có giận nhiều hay ít, còn các bậc thánh đối với thân sơ các ngài vẫn thương như con ruột, như người mẹ đối với con thơ. Các ngài vẫn cười được dù chúng sanh có đâm chém ngài đến chảy máu mất thân đi nữa thì các ngài vẫn thương hại cho những chúng sanh lầm mê đó tức các ngài đã xả thọ, không thọ cảnh bên ngoài nữa.

3) Quán tâm vô thường

Điều đáng nhớ thứ ba là quán tâm vô thường, là quán thấy tham sân si sanh khởi và đoạn diệt, tâm quảng đại hay hạn hẹp, tâm an định hay động loạn, tâm ràng buộc hay giải thoát. Mỗi mỗi trạng thái của tâm đều tự giác biết.

Bây giờ đang buồn, chợt nhận bảng điểm thi thấy điểm cao thì tâm vui hiện lên. Đang vui như vậy lại nghe có ai nói xấu mình thì tâm bực bội khởi lên. Tâm chúng ta chuyển biến đủ loại vọng tưởng, tâm ấy là tâm vô thường thay đổi, không thật. Chúng ta không nên nhận những tâm ấy cho là tâm mình, rồi chấp nhận cho là tôi có khổ, có vui. Thế cho nên, Đức Phật bảo chúng ta phải ở chỗ vắng lặng và bớt nói chuyện, an ổn cái thần để nhìn những khổ vui hư vọng hiện lên và biến mất. Chúng ta phải thấy rõ mỗi khi nó hiện lên, đừng nhận nó làm mình và đừng để nó sai sử chúng ta. Cái khổ vui, yêu ghét, nhất nhất đừng nhận nó làm mình, chúng ta phải làm chủ chúng ta, biết chúng ta thì chúng ta mới được bình an yên ổn.

Cả ngày chúng ta có cả trăm ngàn tâm niệm vô thường chợt hiện, chợt tan triền miên trong từng sát na. Chúng ta cứ để cho những thói quen tập khí của các kiết sử, tham sân si lôi cuốn như dòng sông vốn không có tự thể mà do vô số tế bào nước tụ lại lôi kéo di chuyển. Cũng thế, chúng ta mất quyền làm chủ, bị sai xử nô lệ không làm chủ được mình. Chúng ta muốn vui mà lại không vui, cứ thấy đau khổ điêu đứng vì những âm thanh, sắc tướng bên ngoài. Vô số vọng tưởng đang chuyển biến mà chúng ta không làm chủ được bị các vọng tưởng đó cuốn phăng đi suốt ngày. Hãy quán để thấy rõ các tâm tư tưởng của mình, thiện và bất thiện, giận khổ mừng vui yêu ghét, thương lo, buồn tủi chỉ là những tiến trình biến đổi theo duyên trần bên ngoài, không có thật ngã, không có bền lâu. Phải tập nhìn ra chúng và đừng nhận những tâm yêu ghét mừng giận đó là mình. Tập tách ra khỏi nó và đừng để cho nó chuyển động, sai sử chúng ta. Tập như thế để khôi phục lại quyền tự chủ của mình thì mới sáng suốt thì sẽ không bị nô lệ.

4) Quán pháp vô ngã

Điều đáng nhớ thứ tư là quán pháp vô ngã, là chúng ta quán mười tám giới tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức hay còn gọi là thân, tâm, cảnh giới chúng ta đang sống đây đều là vô ngã. Quán tất cả nhà cửa, cây cối, đám mây bay, rồng lượn, nước chảy, loài người, loài vật, cho đến các tâm của mình khởi niệm thì Phật gọi tất cả những cái đó là pháp và pháp đó vô ngã không thật. Từ vô thủy đến nay, chúng ta luôn bị những khái niệm sai lầm, những ảo tưởng vô căn cứ, những thành kiến si mê khiến lầm nhận vạn pháp làm thân tâm cảnh của mình.

Như vậy, tất cả các pháp hữu tình và vô tình, vật chất và tinh thần, có danh tánh hay không danh tánh, có tướng hay không tướng, mỗi mỗi đều gọi là một pháp cả, thế cho nên nghĩa chữ ‘pháp’ là rộng lắm. Ví dụ cái bàn là vô ngã. Vô ngã là không có thật thể, không một pháp nào chẳng căn cứ trên các pháp khác và tùy thuộc vào các pháp khác để sanh khởi, nên các pháp không có thật thể. Tháo tung cái bàn ra để riêng từng món thì thật ra tìm không có cái gì thật là cái bàn cả, chỉ có gỗ và đinh thôi. Đem gỗ với đinh ráp lại với nhau thì đặt tên là cái bàn. Cũng thế, chúng ta phải tập quán ngôi chùa, căn nhà, xe hơi, quần áo, thực phẩm cho đến xác thân của chúng ta, lời nói, việc làm, mỗi mỗi cái gì cũng không thật cho nên Đức Phật gọi các pháp là vô ngã. Ngoài 18 giới, chúng ta còn phải quán ngũ cái (ái dục, sân giận, hôn trầm, trạo hối và nghi ngờ chánh pháp) là năm tâm sở nặng nề úp chụp tinh thần chúng ta như một màn đen bọc kín ngọn đèn. Khi có một trong ngũ cái phát khởi, liền tìm phương pháp trừ diệt không cho phát khởi. Chúng ta quán và nhận diện ngũ ấm (sắc thọ tưởng hành thức) là vô ngã, đủ nhân duyên tạm tụ hợp trong chốc lát rồi đi giống như khách trọ đến nghỉ rồi sẽ đi. Rồi chúng ta cũng phải quán mười kiết sử là ngũ độn sử (tham, sân, si, mạn, nghi là năm kết sử trầm trọng khó bỏ) và ngũ lợi sử (thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ là năm kết sử sai khiến rất nhanh nhưng dễ tỉnh). Kết là thắt trói, sử là sai khiến chúng ta bị sai sử nô lệ cho tham sân si vì chúng ta lầm nhận tham sân si này là mình.

Nay Đức Phật từ bi phân tách bản chất chúng ta ra làm năm uẩn, sáu căn, sáu trần, sáu thức với mục đích giúp chúng ta tự tìm hiểu chính mình và cuộc đời xung quanh mình. Quan sát từng uẩn không thật thể, quán rõ đặc tánh chánh yếu của vạn pháp là vô ngã để tỉnh ra. Đức Phật đã cho năm ví dụ minh họa về bản chất của năm uẩn như sắc như khối bọt, thọ như bong bóng nước, tưởng như sương mù, hành như bèo lục bình và thức ấm như nhà ảo thuật. Phật dạy quan sát sự hiểm nguy của năm triền cái, hư vọng của sáu căn, sáu trần. Dùng bảy giác chi để luyện tâm sống độc lập an định tĩnh lặng và sáng suốt tự tại. Dần dần chúng ta sẽ cởi gỡ được những dây trói buộc trong sanh tử. Chúng ta bám níu vào sự vật. Dây trói buộc không phải ở giác quan hay ở cảnh trần mà chính là tâm. Phương thức trị liệu là Tứ Niệm Xứ. Nghệ thuật từ khước buông bỏ là một thành công đáng cho ta cố gắng liên tục kiên trì biết rõ sự thật. Nếu chúng ta sống hợp với lẽ phải nên thường được thanh thản vui vẻ.

Tóm lại, Đức Phật dạy chúng ta không cần học nhiều, chỉ cần học bốn pháp thân, thọ, tâm và pháp cho minh bạch, cho thật thuộc, thuần thục thì người này là người học đạo xuất sắc nhất, chứ không phải là phải học cho nhiều sách, biết thật nhiều việc rồi rối tâm. Chúng ta chỉ cần thực hành bốn điểm này để tỉnh, để thành thạo thông suốt thì Đức Phật gọi là người xuất sắc nhất, trí tuệ nhất, chân chánh nhất của Đức Phật. Nếu không tỉnh được thân thọ tâm pháp này thì là người ngu si. Hãy quán thân bất tịnh để tiêu ba độc tham sân si. Quán thọ thì khổ để đừng vướng mắc. Quán tâm vô thường để giải thoát ngã mạn tự ái. Quán pháp vô ngã để tự tại thản nhiên với các pháp. Đệ tử Phật chánh thân, chánh niệm, không quên, không si đối với thân thọ tâm pháp này. Chánh thân tức chúng ta quán thân trên thân để mà sống chân chánh. Chánh niệm là miệng phải nói thế nào và thân phải hiển lộ thế nào tương ưng với Tứ niệm xứ. Không quên, không si là chúng ta không buông lung và phải luôn nhớ bốn chỗ thân, thọ, tâm, pháp để sống đúng và sống được trong bốn pháp giác tỉnh này. Khi chúng ta chánh niệm thì chúng ta không có quên. Lúc nào cũng tin chắc, thân bất tịnh, thọ thì khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã, biết chắc như thế thì chúng ta không có làm người ngu si. Thế cho nên muốn được chánh niệm, không quên, không si tức chúng ta phải chịu khó quán bốn điểm này và thấy cho rõ bốn đặc tánh của vạn pháp là vô thường, vô ngã, khổ và không, để chúng ta có cái nhìn chân chánh về vạn pháp, lột bỏ mọi cái nhìn mê lầm về thân, tâm và cảnh cuộc đời của mình thì như thế người ấy mới là đệ tử của Phật. Trong hàng đệ tử thì có đệ tử không chân thật và đệ tử chân thật. Người nào có quán Tứ niệm xứ này thì mới là đệ tử chân thật của Phật. Còn nếu không thì là những người đi ngược với ý của Đức Phật.

Không phải ai cũng có khả năng chứng thánh quả ngay. Chúng ta cứ thành thật trong nỗ lực, trong sạch trong ý chí, cố gắng không lùi bước. Đức Phật và chư Tổ đã đạt được trạng thái tĩnh lặng thanh bình và an lạc. Thực hành đều đặn và kiên trì là bí quyết thành công. Để cho thú tánh điều khiển là thật đáng thương nhất. Tự chủ được mình là chiến thắng vinh quang nhất hơn các chiến thắng khác. Chìa khóa tự chủ là luyện tâm. Đào sâu hốc hẻm thâm kín nội tâm cần thiền tập.

Trong kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật dạy nếu vị nào biết quán thấy rõ tâm là nguồn ác, thân là rừng tội thì vị ấy ra khỏi đường luân hồi sanh tử. Còn chúng ta cứ vọng khởi đắc ý cho là mình khôn tài hơn mọi người nhưng không ngờ ngay tâm tự đắc ấy là nguồn ác. Cho nên cần quán chiếu Tứ niệm xứ để thấy rõ sự thật này. Vì thế trong đạo Phật, học kinh là điều cần nhưng quan trọng hơn vẫn là sự thực hành. Tự quán, tự chiếu, tự phát minh chớ đừng nhắm mắt a dua. Không khai thác, trí tuệ không thể phát sáng. Không thật thấy thật hiểu, không có giải thoát.

Trong nhiều bài pháp thoại của A-hàm, Đức Phật đều nhắc đến Tứ niệm xứ như là một công hạnh đầu tiên để khai mở trí tuệ, thành thánh hiền giống như muốn trở thành kế toán thì chúng ta phải biết những phép cộng trừ nhân chia căn bản. Thiếu bốn pháp quán Tứ niệm xứ thì sẽ không có đạo Phật. Đây là lời của ngài Trí Giả Đại Sư đã minh bạch tuyên bố bởi lẽ có Tứ niệm xứ thì mới có thể hiển chánh phá tà, mê để đưa chúng ta thấy được sự thật, phá vô minh để minh hiển ra, nên các ngài đã minh bạch tuyên bố rằng không có Tứ niệm xứ thì không có đạo Phật.

Cho nên bài học đầu tiên của chúng ta là Tứ niệm xứ, là căn bản, là nấc thang để học và rồi về sau còn phải dùng mãi mãi. Không những một kiếp này mà còn bao nhiêu kiếp khác nữa nếu chúng ta còn mê. Nhờ đầu tiên là nền tảng Tứ niệm xứ, nền tảng của sự giác tỉnh mà rồi từ từ chúng biết nhiều được những điều rất hay, giải thoát rồi chứng quả. Nhờ Tứ niệm xứ nên không vướng bận vào bất cứ một cái gì, dần dần vô minh tan biến được thảnh thơi an vui. Vì thường quán đất nước gió lửa, sanh già bệnh chết nên không sợ hãi, khai mở trí tuệ như thắp đèn lên thì bóng tối xung quanh tự tan chớ không phải mất công đuổi bóng tối đi đâu. Giống như ánh sáng của thức tỉnh đến thì bóng tối của vô minh tham đắm, giận hờn, lo lắng, sợ hãi đều tiêu tan, không cần dụng công gì cả.

Tứ niệm xứ là cửa vào giác ngộ, đứng vị trí chính yếu căn bản trong Phật giáo. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, Tứ Niệm Xứ được học hỏi, thực tập và truyền bá phổ biến.Tứ Niệm Xứ là đường đi chung của tất cả Thánh Hiền. Chúng ta nguyện sẽ noi theo cho tới ngày đạt quả vị thánh hiền.

Chúng ta muốn trở thành Đức Phật sáng suốt hay làm chúng sanh ngu mê là do những cái này. Chính những vô minh này đã vây bủa chúng ta, chính những sự mê này đã chuyển động chúng ta nên có sanh tử luân hồi. Cho nên, Đức Phật phải thiết tha giảng bốn bộ A-hàm với 2.086 bài pháp thoại nói sâu nói rộng, trùng tuyên nhiều lần để chúng ta nhớ. Chúng ta học A-hàm cốt yếu Đức Phật chỉ dạy chúng ta đừng nhận ngũ ấm và các cảm thọ khổ vui này làm mình, chứ không có việc gì khác. Chúng ta được học Tứ niệm xứ rồi thì phải thực hành, để nhất định làm đệ tử của Phật.

Tứ niệm xứ giúp thành tựu tứ chánh cần bởi vì tứ niệm xứ khiến ác chưa sanh không sanh được, ác đã sanh khiến đoạn trừ, thiện chưa sanh sẽ sanh, thiện đã sanh khiến tăng trưởng. Tứ niệm xứ cũng giúp tăng trưởng năm căn, năm lực, bảy giác chi và bát chánh đạo. Từ đây, hàng phục kiến hoặc (chỗ thấy sai lầm) của tam giới (địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh), thứ đệ tiến nhập đỉnh vị, nhẫn vị, thế đệ nhất vị, phát chân vô lậu, chứng quả Tu-đà-hoàn. Tiến đến đoạn hết tư-hoặc (suy nghĩ sai lầm) tam giới, thành A-la-hán. Tất cả thánh quả này đều y Tứ niệm xứ mà thành tựu.

TỨ THIỀN

Kinh Chúng Tập (Trường A-hàm, số 9), Đức Phật dạy trạng thái chứng tứ thiền như sau: “1.Tỳ-kheo trừ dục, ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc phát sanh do viễn ly, nhập sơ thiền; 2. Diệt giác và quán, nội tịnh nhất tâm, không giác không quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập đệ nhị thiền; 3. Lìa hỷ tu xả, niệm tiến, tự giác thân lạc, có lạc và xả niệm, mà bậc Thánh tìm cầu, nhập đệ tam thiền; 4. Lìa các hạnh khổ và lạc, hỷ và ưu đã diệt từ trước không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh, nhập đệ tứ thiền.”

i. Sơ thiền

‘Tỳ-kheo trừ dục, ác bất thiện pháp, có giác có quán, hỷ lạc phát sanh do viễn ly, nhập sơ thiền’: ‘Bỏ ác bất thiện pháp’ nghĩa là bỏ năm dục. Hễ bỏ năm dục được thì chúng ta thoát được những ác bất thiện pháp. ‘Có giác’, ‘có quán’ tức là tâm chúng ta quán sát giác biết. Năm giác quan (mắt tai mũi lưỡi thân ý) của chúng ta còn tiếp xúc cảnh ngoài, mắt chúng ta còn chạy theo những hình sắc, tai mình còn chạy theo những âm thanh thì gọi là giác biết. Quán là quan sát, quán chiếu, xem kỹ, thấy cũng thấy kỹ hơn giác, cho nên chữ giác thì nhẹ hơn chữ quán. Bây giờ ngồi thiền sáu căn xoay lại, không cho rong ruỗi nữa, dụng tâm để ý quan sát hơi thở, quán Tứ niệm xứ. Tuy năm căn không có ham thích các việc bên ngoài, nhưng vẫn còn tò mò hễ có tiếng động thì tai vễnh lên để nghe. Hễ ai bất chợt vào phòng thì cũng đưa mắt ngó, nghĩa là năm giác quan vẫn còn hoạt động.

Sơ thiền nghĩa là ban sơ mới bắt đầu thiền tức là tu thiền định. Vì chúng ta lìa dục, bỏ ác, có giác, có quán, an định cái thần, cho nên chúng ta vui. Đức Phật chẳng những chấp nhận mà còn khuyến khích chúng ta nên tập xa lìa những hư vọng bên ngoài để hưởng niềm vui bên trong. Bây giờ mới bước vào trình độ sơ mà chúng ta đã rời bỏ những dục trưởng dưỡng ham thích bên ngoài, an tu như thế để bắt đầu có những an vui của người mới tu nên gọi là trạng thái ly dục sinh hỷ của sơ thiền. Do xa lìa được sự úp chụp trói buộc của ngũ cái, năm giác quan không vướng mắc ham ngó bên ngoài, mắt không thích chạy theo hình sắc, tai không ham âm thanh mà xoay về nên lìa những pháp bất thiện, chánh niệm an trú vào hơi thở của mình. Chúng ta đã cùng với hơi thở cùng sống từ lúc mới sanh ra, cho nên không phải khó nhọc đi đâu xa để ý quán sát gì cả, vì hơi thở ngay nơi mũi mình rồi. Hơi thở và chúng ta như một, hoàn toàn an trú nơi hơi thở ra thở vào. An định suốt ngày trong hơi thở, bao nhiêu sáng suốt cứ theo toàn thân, toàn tâm. Theo dõi hơi thở với dụng ý định tâm, chứ theo hơi thở như tập thể dục bình thường ở các phòng tập thể dục và không dụng ý trú tâm thì sẽ không đạt được các sơ thiền này. Chúng ta theo dõi hơi thở để định thần lại, lìa dục, buông sắc thanh hương vị xúc thì không những chúng ta thoát những vật chúng ta vướng mắc bên ngoài mà chính nội tâm của chúng ta cũng sẽ cởi được những tham sân si đi.

Chúng ta thường có hai tư tưởng tham sân. Ưa thích thì gọi là tham, ghét giận thì gọi là sân. Khi có tư tưởng thích chiếc áo đẹp liền phát sanh thành ra lòng tham muốn mình cũng có một chiếc như vậy. Do đâu có lòng tham? Nhân là do ái tấm thân này và duyên là do thấy các cô bạn có áo đẹp liền khởi ngay tư tưởng làm sao để chúng ta cũng có áo như vậy. Do nhân duyên ấy nên chúng ta khởi tưởng tham chiếc áo. Hoặc nhân là chúng ta yêu thân mình và duyên là có người bạn chê mình học dỡ, do nhân duyên ấy mà khởi tư tưởng giận ghét bạn mình. Bây giờ đây học Phật tập thiền quán sổ tức, theo dõi hơi thở ra vào thì tâm tham sân không có duyên để phát khởi nữa. Tư tưởng ngồi thiền khởi lên thì tư tưởng tham giận tan đi. Tham giận theo duyên hiện lên và theo duyên tan đi. Chúng ta thiền tọa, vui với việc thở vào, thở ra, an ổn, yên vui, thế gọi là tư tưởng hỉ lạc. Hỉ là mừng và lạc là vui. Tư tưởng mừng vui lại khởi lên.

Sơ là bắt đầu, là phải lìa dục, chuyên tu miên mật. Tại sao muốn vào sơ thiền thì phải lìa dục? Người đời có năm điều ham muốn rất mạnh cho nên gọi là ngũ dục: tài, sắc, danh, lợi, thực thùy. Nếu tâm mình cứ chạy theo ngũ dục, theo những chuyện lủng củng khen chê thì giờ phút ngồi quán hơi thở chúng ta không có chuyên tâm an tĩnh. Cho nên chúng ta phải lìa sáu trần, lìa ngũ dục. Chúng ta thở thì thở cả ngày, không có phút nào mà chúng ta không thở, nhưng để an định tinh thần theo dõi hơi thở thì phải là người buông cả tài sắc danh lợi này. Hễ không còn ưa thích ngũ dục nữa thì chúng ta mới sáng suốt mà thấy hơi thở ra vào của mình. Âm thanh, sắc tướng là hư vọng nên tài sắc danh lợi thực thùy là những hư vọng. Nếu chúng ta vì những sự hư vọng ấy mà bỏ trí tuệ giải thoát của mình thì phí, cho nên Phật khuyên chúng ta phải bỏ những niềm vui hư vọng mà trở về giác tỉnh để tập luyện cho trí tuệ giác tỉnh của mình được hiện tiền. Đừng bận rộn ăn uống, đừng ngủ nhiều quá thì mất thời giờ, đừng có vui với tiền bạc, đừng ham quần áo đẹp, đừng bận rộn chạy theo sáu trần, sáng suốt mà nhận ra hơi thở, an ổn để lo tu hành, an định cái thần soi vào hơi thở để vào được trạng thái sơ thiền, cho nên Phật khuyên chúng ta nên có cái vui lìa dục.

Người thế gian không tu tập thì đều vướng mắc vào năm thứ dục nặng nề này, còn những hành giả tu tập thì năm dục này tương đối nhẹ nghiệp nhưng cũng dễ vướng vào năm trần tức là sắc thanh hương vị xúc. Lìa ngũ dục, lìa ngũ trần thì chúng ta được sơ thiền là điều Đức Phật khen ngợi. Hình hình sắc sắc bên ngoài (sắc trần) này khác với hình sắc ái luyến ngũ dục (sắc dục trần) đều từ con mắt mà thấy, nhưng có sự khác nhau là sắc trong ngũ dục là nặng nề khiến cho người ta đam mê, vướng mắc, tơ vương, còn cảnh sắc bên ngoài đây là những hình hình sắc sắc nó hiện lên trong con mắt của mình nhưng mình không để tâm. Dù nặng hay nhẹ, cả hai sắc trần và sắc dục trần đều đừng bận lòng những khi nó hiện ra ở trong mắt mình, con mắt phải an định.

Món ăn của con mắt là thích nhìn, thích ngó. Chúng ta bây giờ tập an định con mắt lại. Món ăn của lỗ tai là chạy theo âm thanh, thói quen ưa nghe tiếng khen, nghe những âm thanh bỗng trầm vui tai. Những người tham cầu danh giá nên nhiều khi làm nhiều việc thất đức, tốn của, hao tài để cầu một tiếng khen của thiên hạ, đó là âm thanh trong ngũ dục. Còn thanh trần đây là thanh nhẹ, tức là những tiếng ca tiếng hát hay ưa nói chuyện rì rào xì xào, thoáng qua màng nhĩ của chúng ta. Nhưng chúng ta là những hành giả muốn vào được sơ thiền này thì chúng ta phải an định cái thần trước cả sáu trần và sáu dục tưởng này. Làm thế nào để cho con mắt, cái tai và sáu căn của chúng ta bớt ưa thích thèm muốn một cái gì, bớt công việc thì nó mới an định cái tâm thì mới vào được trạng thái sơ thiền.

Có một vị tăng ngồi thiền bên hồ thì gió thổi đưa hương thơm vào mũi. Thầy liền ngữi và chỉ để ý là có hương thơm hoa nhài thôi, thế mà bị quỷ thần chê là đạo hạnh có vết. Cho nên, chúng ta phải để ý thân miệng ý đừng bận lòng đến âm thanh, sắc tướng, cho đến mùi hương xung quanh. Nếu chúng ta bận lòng là quỷ thần quở chúng ta có vướng mắc. Muốn cho đạo hạnh thanh tịnh thì phải quán biết rằng sắc thanh hương, tất cả cảnh trần là hư vọng. Phải tập quán để bình tĩnh thản nhiên với những cảnh ở bên ngoài thì như thế quỷ thần mới chấp nhận và ủng hộ. Quỷ thần cũng giống như tất cả bạn bè xung quanh, nếu chúng ta có sự sai quấy thì các vị nhắc nhỡ. Chúng ta nên kính nễ và mang ơn những sự nhắc nhỡ ấy, để cho đạo hạnh của chúng ta được thanh tịnh và hoàn mãn.

Chúng ta phải để ý khi sáu căn tiếp xúc với cảnh bên ngoài, đừng để cho ba độc tham sân si khởi lên. Đừng để cho tham, là đừng ham vui. Đừng để cho sân, có chỗ nóng giận, dù chúng ta có chỗ không bằng lòng thì cũng không nên sân. Giữ đừng tham, điều này dễ hiểu. Giữ đừng sân, điều này cũng dễ hiểu, nhưng giữ đừng si nghĩa là hễ chúng ta có si thì nó sẽ sanh ra sự tham và sân. Không si nghĩa là tỉnh giác. Thế cho nên chúng ta cần phải lìa dục, cần phải quán hơi thở, quán Tứ niệm xứ để tỉnh táo sáng suốt biết rằng thân này là đất nước gió lửa, mai đây thân sẽ thối nát trả về cho đất nước gió lửa. Cho nên mắt là hư vọng, con mắt đã là hư vọng thì cái thấy của mình không thật và những cảnh bên ngoài mà chúng ta thấy đây cũng không thật. Giác quán biết như vậy thì không bị nó sai sử. Bây giờ phải quay về, sáng suốt tu tập thì ngày mai mới ra khỏi được luân hồi sanh tử. Khi chúng ta dứt khoát lìa thì dây si mê này phải đứt cho nên các thứ tham sân si mạn phải chìm xuống, gọi là thoát những trói buộc, gỡ những nút kết. Tâm mình đã gỡ, đã cởi, coi như chúng ta cũng được thoát bình yên.

Như vậy, để đạt sơ thiền, việc trước hết là diệt sáu dục tưởng. Chúng ta bắt đầu ngồi thiền thì không có cho sáu căn rong ruỗi đi tìm cầu sáu dục tưởng bên ngoài nữa tức trước là diệt dục tưởng thì hỉ lạc do tìm cầu niềm vui bên trong sẽ sanh ra. Do an định tinh thần, chúng ta mới bắt đầu bước vào trạng thái an vui của sơ thiền là ly dục sinh hỷ. Ngồi an định theo dõi hơi thở thân khoẻ an ổn, tâm cũng an ổn sáng suốt như vậy là chúng ta thành công. Mừng là do nhân duyên buông được sáu trần và đạt được mọi sự như ý của mình muốn. Vui là do lìa được ngũ cái (tham, sân, hôn trầm, trạo hối, nghi ngờ) và các ham muốn ái dục thế gian cho nên niềm vui hiện lên. Đức Phật ví Sơ thiền thì chất sền sệt mêm mại như nước xà bông thơm. Nếu vẫn giữ được trạng thái hỷ lạc này thì khi mệnh chung sẽ sinh vào cõi trời Sơ Thiền.

ii. Nhị Thiền

‘Diệt giác và quán, nội tịnh nhất tâm, không giác không quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập đệ nhị thiền’: đến đây thì không giác, không quán gì nữa, vị ấy ngồi an định như thế thì có hỷ sanh và nhập được nhị thiền. Như vậy, trạng thái sơ thiền diệt và trạng thái nhị thiền sanh tức là lên đến nấc thang thánh hiền thứ hai. Chúng ta nghĩ rằng được ai cúng dường tịnh tài và tịnh vật thì vui, được ăn bánh nhiều thì vui, người ta cho nhiều và mình nhận từ bên ngoài càng nhiều thì càng vui, nhưng Đức Phật dạy ở Tứ niệm xứ là thọ thì khổ. Thọ vui chúng ta bảo vui thì Phật bảo là hoại khổ. Chúng ta bảo khổ thân thì Phật bảo là khổ khổ, còn chúng ta bảo là không vui không buồn thì Phật bảo là hành khổ, nghĩa là hễ cứ có thọ là có khổ. Đức Phật muốn chúng ta buông những vui khổ bên ngoài mà quay về hưởng những niềm vui tịch diệt bên trong nơi các bậc thiền này. Cho nên đến đây hành giả lìa giác, lìa quán, không để ý gì đến cảnh bên ngoài, tâm an định lại, vị ấy đã đạt một phần nào lực định này rồi. Những ai đã tập thì cũng đã từng nếm rồi. Quả tình có một niềm vui an ổn thật sự. Một niềm vui mà người thế gian ngay cả vị Tổng thống, nguyên thủ của một quốc gia nếu không ngồi thiền thì cũng không bao giờ được hưởng cả. Chỉ có ai chịu lìa dục, lìa giác, lìa quán, người đó mới nếm được loại vui tự tánh an lạc này của mình.

Lạc tức là niềm vui bản chất của chúng ta, chỉ vì chúng ta nặng nề những yêu thương, những ghen ghét, sầu lo buồn tủi, thế cho nên tâm chúng ta nặng chình chịch, hóa ra mình mất vui. Thế rồi chúng ta không biết, nên muốn tìm vui thì lại đi cầu ở tiếng khen, ở tiền bạc, tiệc tùng, món ăn, áo đẹp, khát khao chạy tìm cầu những cái bên ngoài. Cầu tiếng khen hão huyền mà không biết chính bản chất tâm mình vốn là cái vui. Nếu giác biết được như vậy thì chỉ có một việc là giải, là xả ba độc tham sân si. Đây ngài gọi là ‘lìa dục, lìa ác, lìa cả giác và quán’ nghĩa là buông ra, định thần lại để trở về với mình. Thật ra, chúng ta vẫn còn tham sân si ngầm trong tạng thức đấy, chứ chưa phải là đã hết đâu, bởi vì chốc nữa nếu có ai động đến ngã ái của mình là mình nổi cáu lên thì biết rằng tham sân si vẫn nằm ngủ trong tâm mình. Thế nhưng dù sao những tham sân si mạn nghi tà kiến, những cái độc ấy được tĩnh lặng, chưa khởi dậy lại trong lúc chúng ta an định theo dõi hơi thở. Lúc bấy giờ, tham sân si không có tiết chất độc ra, cho nên chúng ta được bình an yên ổn mà đạt một niềm vui do định sanh. Một niềm vui vi diệu mà chỉ có người nào vâng lời Phật thực hiện theo thì sẽ thấy. Đức Phật không dạy riêng một người nào mà cho bất cứ ai vâng lời Phật buông cảnh hư vọng, giữ cho tâm yên ổn nghĩa là mình trở về mình thì được trạng thái hỷ lạc do định sanh của nhị thiền.

Ở sơ thiền thì chúng ta lìa được những bận rộn lăng nhăng của ái dục, ngũ cái cho nên vui, còn ở nhị thiền đây thì thật sự định đã thành, xả hỉ, chuyên định nhất tâm nên rất vui. Vui vì thành công và vui cũng vì an định. Hỷ lạc là chúng ta đã tỉnh táo sáng suốt rồi, những thứ tham sân si mạn nghi hư hỏng ấy, nép phục nằm im lìm đáy tạng thức, không dám ngóc đầu lên quấy rầy. Khi nó nép xuống thì tâm thật của mình là cái vui nó hiện lên, nên bản chất của mình là lạc là vui. Giống ao nước không những nhờ trời mưa mà đầy nước mà tự nó còn có mạch nguồn của nó chảy ra nên nước lúc nào cũng đầy tràn, nghĩa là chúng ta tu thế nào mà tự mình có mạch nguồn của mình để chảy ra sự an vui, toàn thân của chúng ta là sự an vui, ví như ao nước tự nó có mạch nguồn tuôn trào nước trong mát chảy ra bất tận. Tự chính chúng ta có mạch nguồn khiến cho tự mình yên ổn an vui.

Đức Phật diễn tả trạng thái nhị thiền như thân đã mềm hoàn toàn như nước nguyên chất, và lại có thêm cảm giác như lúc nào cũng tuôn tràn mãi mãi. Thật ra, bản chất của chúng ta vốn có sự an lạc, chỉ tại chúng ta huân tập các thứ rối loạn thành ra mệt nhọc đến nổi mình không biết bản chất của mình là vui. Tới đây là đuổi xong bọn giặc rồi, bậc thánh giả này sẽ thành tựu trí tuệ rất bén nhạy, kiến giải Phật pháp vô ngại, không ai có thể bẻ gãy được luận thuyết đưa ra của các ngài.

iii. Tam Thiền

‘Lìa hỷ tu xả, niệm tiến, tự giác thân lạc, có lạc và xả niệm mà bậc Thánh tìm cầu, nhập đệ tam thiền’: hỷ là mừng, lạc là vui. Vậy mừng và vui khác nhau ở chỗ nào? Chúng ta chưa có quà bánh, chưa có tiền bây giờ mới có, mới được, thế thì mừng rơn. Cái mừng nó động và qua nhanh, còn cái vui thì nhẹ hơn, an ổn hơn, lâu bền hơn. Ví dụ được sống trong chùa với phong cảnh thiền vị thì rất an vui, so với người mừng vì nhảy múa hay trúng số thì khác. Hai cảm giác này khác nhau.

Nhị thiền thì không giác, không quán. Bên ngoài đang loạn mà bây giờ vào được định cho nên mừng ‘hỷ lạc do định’. Còn lên đến tầng thứ ba tam thiền này thì cái mừng trừng lặng lại, ‘lìa hỷ’ là hết mừng rồi. Vị ấy thấy tâm khoan khoái, thân nhẹ nhàng, thấy mình có một cái kết quả rõ ràng cho nên mừng. Bây giờ kết quả kéo dài lâu lâu một chút đã quen, hơi thở đã bình an, nên cái mừng dịu đi, chỉ còn lại niềm vui yên ổn thôi vì bỏ cái mừng nên tâm được định thêm lại. Đi sâu vào định, không có động nữa. Đến đây, không phải chúng ta bấm môi, bấm miệng để trừ cái động của sự mừng này mà đây chỉ có an định để cái động của mừng nhẹ nhàng tự tan đi. Khi mà đã lìa giác, lìa quán và cái mừng đã lặng đi rồi thì bấy giờ chỉ còn có nhất tâm. Tâm chúng ta yên ổn không có cái gì tác động, ảnh hưởng cả thì lúc bấy giờ có một sự khinh an, êm ả hiện lên. Đức Phật diễn tả xả niệm lạc trú của tam thiền là trạng thái hân hoan vi diệu và đầy khắp cả không gian, giống như hoa sen ngập trong nước được tẩm ướt tràn ngập. Niềm vui tự của mình sẽ chảy ra mạch vui mà rồi mình sẽ tràn ngập niềm vui từ đỉnh đầu đến chân, từ sáng đến tối, vui cả mùa đông sang xuân, vui khắp không gian. Mạch vui này vốn mình sẵn có, tại từ vô thủy đến giờ chúng ta cứ nuôi các thói xấu tham sân si, tán loạn, hôn trầm làm tắt các mạch an vui này lại, làm đút nút gói chặt các niềm vui khiến chúng ta khốn khổ. Bây giờ đuổi được ngũ cái, lìa được các tâm bất thiện trở lại tâm an định thì tự nhiên mạch vui này chảy ra, nghĩa là tự mình thấm nhuần sự an ổn, yên vui. Tất cả vị nào đã nếm được trình độ tam thiền này đều nói là tâm được một sự vui vi diệu, cho nên các bậc thánh vẫn thường tán thán nói vui như đệ tam thiền là niềm vui sáng suốt vi diệu thanh tịnh này, không thể so sánh nó với bất cứ thứ vui nào trên trần gian.

iv. Tứ Thiền

‘Lìa các hạnh khổ và lạc, hỷ và ưu đã diệt từ trước không khổ không lạc xả niệm thanh tịnh, nhập đệ tứ thiền’: Đến đây thì vị ấy lìa được các khổ lạc, hỷ ưu cho nên nói trụ ở xả. Xả là buông hết, xả cả mừng vui, huống chi những nỗi khổ và nỗi lo mình cũng buông xuống hết. Lúc đầu chúng ta vui, bây giờ giác biết vui cũng chỉ là một trạng thái của tâm chứ nó không phải là mình, bởi nếu cái vui là mình thì lúc khổ là ai khổ? Nếu nhận vui là mình thì cái khổ không là mình mà đằng này chúng ta vẫn thường trụ đứng đấy. Cái khổ hiện lên rồi tan đi, cái vui hiện lên rồi tan đi, theo nhân duyên mà khổ vui hiện lên thôi. Cho nên vị mà nhập vào tứ định này, ngài vẫn có niềm vui hiện lên, nhưng mà ngài biết đây chỉ là một trạng thái, cho nên ngài không đắm vào cái cảnh ấy, không nhận cái cảnh ấy là mình nên gọi là trú xả. Khổ cũng như vui chỉ là những trạng thái theo duyên hiện lên. Hễ duyên an định thì vui nó hiện lên, chốc nữa tán loạn tới thì vui biến mất, cái khổ lại hiện lên. Những trạng thái hiện lên rồi tắt đi, thuộc về sanh diệt, còn tâm của chúng ta như tâm gương sáng suốt đứng soi tất cả những thứ khổ vui sầu bi ưu não cho nên đến đây vị ấy trầm tĩnh trừng lặng, không thọ nữa. Tới đây, vị này được xem như là đến đỉnh cao của sự tu tập.

Các vị tu bốn bậc thiền này sau này sanh về cõi trời gọi là trời sắc giới. Còn chúng ta còn ham còn thích nhiều ở cõi này nên gọi là dục giới. Đây các ngài đã lìa dục, không mừng, không vui gì nữa, tuy vị ấy trông bên ngoài giống như chúng ta không khác, nhưng thật ra da thịt ruột gan của các ngài có khác với chúng mình, tức thuộc là da thịt của những cõi sắc giới, chứ không phải là da thịt của những người còn ham thích của dục giới. Các thánh nhân thấy tứ đại của chúng ta có sự chuyển biến, nhưng chúng ta không tự biết đấy thôi. Khi chúng ta xa lìa những hư vọng của cõi dục này và giác tỉnh được thì máu của chúng ta khác với máu của những người bình thường ham dục. Các bậc chứng đạo thấy là biết có các tế bào khác. Chúng ta thì không ngờ, không biết sự tu tập có sự chuyển biến như thế, không phải đợi đến lúc lâm chung mới chuyển mà ngay bây giờ chuyển máu thịt, chuyển tế bào thành thân sắc giới. Tuy cũng da thịt của cõi người ấy nhưng mà nó đã đổi rồi, đây gọi là tứ vi tức sắc hương vị và xúc vi tế nhỏ nhiệm. Vị nào tu miên mật thì sẽ được đổi hẳn cái thân, tức lúc nào cũng hưởng được thân và cảnh sắc giới ấy. Vị ấy không phải là người của thế gian này nữa mà là người của cõi trời sắc giới, nhưng phải tu tới trình độ tứ thiền này mới được. Cho nên hễ ai tu thì được, còn không tu thì không được. Đức Phật khen ngợi sự vui vi diệu đưa đến quả giải thoát này và khuyến khích chúng ta muốn tìm những niềm vui vi diệu nên thực hiện những hạnh vui này, sống với những niềm vui này, chứ Phật không bảo chúng ta nên tu khổ hạnh hành xác thân như các nhà khổ hạnh lõa thể. Đức Phật mong cho chúng ta vui với niềm vui chân thật này. Còn cái vui ăn ngon, mặt đẹp, có tiền nhiều thì không phải là cái vui mà là những niềm vui hư vọng, hoại khổ, vì chúng ta lầm không biết nên gọi là vui.

Tứ thiền là xả niệm, thanh tịnh, không lạc, không khổ. Chúng ta trở về sống với mình, hàng phục được những hư vọng ngoại lai như là thích đi chơi, thích nói chuyện, thích ngũ dục, tất cả đều buông xuống. Bây giờ tâm của mình, bản chất thật hiển lộ, cho nên đây là niềm vui của mình không phải từ ngoài vào, không do duyên gì có, nên niềm vui này là niềm vui tịch tĩnh, niềm vui lẵng lặng, trong kinh gọi là vi diệu. Niềm vui bản chất của mình cho nên nó là mình, mình là nó, toàn thân mình là niềm vui này. Niềm vui của mình mà tại sao đây nói Phật nói chúng ta phải ‘không khổ, không lạc’ xả cả mừng cả vui? Xả cái mừng đúng rồi vì nó theo duyên mà có mừng. Tu là vui nhưng phải xả, vì thích có cái vui rồi hưởng cái vui. Số đông tu đến đây thì ngồi im để hưởng sự an vui. Khi tham đắm vướng mắc vào sự an vui này thì không chịu tiến lên cao được nữa. Nên ở đây có nghĩa là xả, đừng bận lòng đến cái vui mà cần khai tuệ để tiêu những lậu hoặc, đến ngôi này thì tâm giữ thanh tịnh không vướng mắc, không vướng khổ và không bận lòng đến cái vui. Đạt được Tứ thiền thì vị ấy có thể dừng được hơi thở, dừng mọi sự sống, nhập định vài trăm năm rồi xuất định, sống bình thường trở lại.

VUA A DỤC THÀNH MÃNG XÀ VƯƠNG

Hoàng đế A Dục là một vị vua cai trị Ấn Độ từ năm 269 đến 232 công nguyên. Ngài là một vị vua Phật tử rất thuần thành và có cống hiến lớn trong việc truyền bá lời dạy của Đức Phật đến nhiều nơi trên thế giới. Công đức to lớn như vậy đáng lẽ vua phải được sanh lên cõi trời vậy mà lúc cận tử nghiệp nằm trên giường bịnh, chỉ vì một niệm sân hận nổi lên khiến vua tái sanh thành một con rắn mãng xà.

Trước khi mạng chung, vua A-dục bị bịnh nặng, cơ thể đau đớn lắm nên khó làm chủ được những bực bội khó chịu trong lòng. Người hầu quạt lúc ấy thức cả đêm mệt nên ngủ gật, lỡ buông lõng tay cầm quạt khiến quạt rơi vào mặt vua. Là một ông vua và đang khó chịu vì bịnh tật hành hạ mà cái quạt còn rơi vào mặt nữa, thói quen cứ cậy mình là vua phải được trân trọng cung kính nên vua giận lắm. Bởi vì vua yếu lắm mà cơn sân giận lại động, cho nên máu ở tim của vua chuyển mạnh khiến vua tắt hơi ngay lúc ấy. Thế là tinh thần vua hóa thành con rắn mãng xà vương Ma-hầu-là-già tức là rắn thần mà ở các đền thần rắn Ấn độ hay thờ. Chúng ta gọi là thần rắn, tức là thần nhưng mang xác rắn và mắt bình thường chúng ta không thể thấy được. Ngài là một vị hoàng đế với bao nhiêu công lao phúc đức biết ngần nào, nhưng do tâm sân giận không chừa, người hầu lỡ tay rớt cây quạt vào mặt, cơn giận dữ nổi lên chi phối khiến ngài biến ngay thành con rắn thần. May mà A-dục là một vị hoàng đế Phật tử thuần thành rất tin Phật pháp, có con trai và con gái là hoàng tử Ma-hin-đa (Mahendra) và công chúa San-ga-mi-tra (Sanghamitra) đều đi xuất gia cả. Tỳ Kheo Ma-hin-đa chứng quả A-la-hán, biết Vua A-dục đọa làm rắn, mới nói pháp cho vua A-dục tỉnh ra, buông bỏ, thoát kiếp rắn sanh lên cõi trời.

Câu chuyện cho thấy nếu chúng ta không cẩn thận giữ tâm chánh niệm để chợt vô thường trượt chân té, chợt bịnh già, chợt gió tử thần thổi mất thân quý giá này mà tâm lại cứ đeo những tập khí hờn oán và giận thù thì sẽ đọa lạc loài thú, khó được thân người trở lại. Lúc lâm chung dễ nổi sân lắm vì lúc lâm chung cơ thể đau đớn khổ não như ngàn cây kim châm vào da thịt. Chúng ta muốn thân ấm mà nó lạnh, muốn không khí thở mà cứ ngộp lấy hơi lên, khổ lắm rồi mà còn có các sự bên ngoài động chạm vào thân thì chúng ta không chịu được nên nổi sân liền và hễ nổi giận thì liền đọa làm rắn. Nếu không làm rắn thì cũng làm loài bò cạp, độc trùng. Nếu chúng ta biết hổ thẹn, biết tu tập, biết trụ tâm nơi thiện, thích hợp với buông xả, một lòng tha thứ thì một ngày, hai ngày, chúng ta sẽ có thói quen tốt là biết nhẫn chịu. Đến lúc lâm chung gặp nếu gặp sự gì trái ý thì chúng ta đã quen tu tập rồi, thích hợp với xả cho nên mình sẽ tha thứ, không có sân giận. Thế là chúng ta trụ tâm nơi thiện, sống với thiện. Tâm thiện là tâm ở cõi trời, cõi Phật là một cõi còn ở trên cao hơn nữa. Tu tâm từ bi ngay giữa thế gian này thì sẽ được về cõi trời.

Nghiệp của rắn là khi thấy người đi ngang, nghe động là vội trốn tránh trong những xó xỉnh bụi rậm, bụi cây tìm ẩn nấp vì sợ người ta trông thấy đánh chết mình. Cho nên, nghiệp rắn là phải chịu thân phận chui rút, rồi mổ ăn loài khác để sống, tạo nghiệp đọa lạc, không biết khi nào mới được thân người lại. Hiểu được điều này, cho nên chúng ta vâng lời Phật, biết hổ thẹn, chuyển đổi những tâm tham sân mà tu tập thành tâm hiền hậu, từ bi, hỉ xả thì hiện đời ai cũng kính nễ, quý mến của chúng ta và chúng ta sẽ đổi ngay cảnh đọa lạc hiện tại thành cõi trời rực rỡ tưng bừng, sung sướng an vui và được sống lâu cả ngàn vạn kiếp. Chỉ đổi một tâm niệm mà có thể đổi hẳn cả một cuộc đời, một cảnh giới mà không phải một cuộc đời mà mãi mãi nhiều cuộc đời về sau nữa. Chúng ta thấy làm thân con rắn ấy biết đến bao giờ con rắn mới tỉnh, kiếp sau rắn đi đâu, hẳn là còn mãi mãi ở đường khổ, đường thù oán, mê lầm, khổ não, nguy hiểm. Còn sanh lên cõi trời thì có sung sướng hơn cõi người, tuổi thọ lâu hơn cõi người, nhưng chúng ta dễ say mê trong hưởng thọ phước báo đó thì khi xài hết phước lại phải luân hồi đọa lạc trở lại. Để tránh đọa lạc đau khổ thì chúng ta phải cầu thoát ly sanh già bịnh chết.

Chúng ta có nhân duyên với Phật pháp thì chúng ta sẽ tìm đến Phật, sẽ học Phật, sẽ tu cho đến ngày giải thoát. Chỉ cần tập đổi tâm niệm một chút mà đổi hẳn cảnh giới cả ngàn vạn kiếp suốt, khiến từ phàm phu thành hiền thánh, từ tham sân thành từ bi hỉ xả. Như vậy, thật là vi diệu, thật là tịnh. Chỉ cần chúng ta xả tất cả hữu. Cõi hữu là từ cõi dục giới, từ trời Đế Thiên Đế Thích, tức đức Ngọc Hoàng Thượng Đế trở xuống sáu đạo gọi là dục giới, là chúng ta buông xả tất cả hữu xuống. Còn trên nữa là cõi sắc giới và trên nữa là vô sắc giới. Ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới là còn trong cảnh luân hồi lưu chuyển. Đỉnh của cõi dục giới là đức Đế Thiên Đế Thích. Phúc đức của các ngài lớn lắm, nhưng mà vẫn còn ở cõi dục. Tuy các ngài ở tột đỉnh trên cao, nhưng mà vẫn còn trong vòng sanh tử, cho nên gọi là hữu là còn lọt xuống. Bây giờ chúng ta chỉ cần nỗ lực để chuyển đổi tâm mình, đổi tâm hiềm hận, ưa muốn, ham thích, thành tâm từ bi hỉ xả bác ái. Thế gọi là chúng ta xả tất cả hữu, giải thoát tất cả dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Chẳng những là cảnh giới loài người, chẳng những là Đế Thiên Đế Thích mà cao hơn cõi này nữa, chúng ta cũng vượt qua được hết. Thế là lìa ái, vô dục, diệt tất cả lậu, không còn rơi rớt trong sanh tử luân hồi nữa, hoàn toàn giải thoát, làm hiền làm thánh để cứu độ thân bằng quyến thuộc hiện đời hay quá vãng và để giúp ích muôn loài chúng sanh. Phúc đức biết nói sao cho cùng. Đức Phật ví như nước trăm sông chảy ra biển chúng ta không có thể đong lường được nước, cũng thế phước báo vô lượng không thể tính xuể cho người chuyển đổi tâm sân hận thành tâm từ bi hỉ xả bác ái để lợi ích hữu tình. Chúng ta cố gắng vun trồng và hưởng thọ phước báo, đừng đổ đi uổng phí một kiếp làm người.

XẺN PHÁP VÀ BỐ THÍ PHÁP

Thế nào gọi là xẻn pháp? Chúng ta có cơm để chúng ta ăn, nếu lấy cho người khác rồi lấy gì mà ăn, đó là tâm bỏn xẻn. Nếu có tâm bỏn xẻn như vậy thì người kia chết đói thì mình có phước không? Nghĩa là không có phước mà còn tội nữa. Bỏn xẻn về tài vật dù lớn hay nhỏ cũng đều có tội cả. Còn nghe pháp thoại cũng thế, nếu muốn một mình hay giỏi chứ không muốn giảng nói cho người khác nghe pháp rồi họ cũng hay giỏi như mình thì như thế là một tâm xấu sẽ chịu quả báo xấu. Nếu mọi người học Phật pháp thì mọi người sẽ được giải thoát mà bây giờ mình không cho người ta học thì người ta không được giải thoát. Người ấy không được giải thoát thì tội thuộc về ai? Nếu bỏn xẻn không mang pháp Phật để truyền bá cho người ta học thì chúng ta phải tội. Nếu truyền bá cho người thì người ta cũng được phước và mình cũng được phước.

Đã học hiểu cái gì hay quý thì nên san sẻ với người khác để họ cùng biết với mình. Phàm đã lập chí xuất thế thì nên san sẻ với mọi người để cho người ta cùng biết với mình. Đức Phật nói ích kỷ là điều không tốt. Có ai cần đến hỏi học Phật pháp thì chúng ta nên tận tình giúp, nhưng trước hết chính mình cũng lo học đến nơi đến chốn, hoàn thiện chỗ học hiểu của mình, chứ Đức Phật không phải bảo chúng ta vừa học xong câu nào thì vội vàng chạy khắp làng cùng xóm để giảng cho người này người khác nghe.

Nếu chúng ta lập chí chuyên tu thì chúng ta phải ở nơi vắng vẽ, nhất tâm chuyên giữ chánh niệm để được an định tinh thần. Ở nơi vắng vẽ học cho thành đạo của mình đi đã thì đây không bảo là ích kỷ, bỏn xẻn mà muốn cho mình nghiệm sâu việc học Phật của mình thì sau này sự cống hiến của chúng ta sẽ sâu rộng hơn. Nhưng khi có người hỏi pháp, chúng ta phải có bổn phận giúp và nhắc nhỡ cho mọi người cùng biết, nghĩa là có tâm rộng rãi thương yêu san sẻ. Chứ mới học được chữ a thì vội vàng chạy ra khắp nơi, chạy hết người này đến người kia để biết chữ a thế thì như thế sự học của chúng ta sẽ bị dỡ dang, không đến nơi đến chốn được, chính chúng ta phải học cho tới nơi tới chốn.

Đức Phật nói rõ để chúng ta hiểu thâm ý của ngài. Chúng ta không nên bỏn xẻn pháp, nhưng chính chúng ta phải cứu được mình ra khỏi luân hồi sanh tử đã, rồi chúng ta mới có thế cứu được người khác. Nếu chúng ta chưa biết bơi mà nghe thấy người kêu cứu, mình thương hại và nhảy ùm xuống để vớt họ lên thì như thế liệu chẳng những không cứu được họ mà mình cũng lại bị chết chìm cùng với người ta. Đã đành chúng ta phải có tâm từ bi cứu giúp, thấy ai kêu cứu thì chúng ta cũng nên giúp nhưng phải tùy sức, tùy lực. Nếu chúng ta có hạnh muốn cứu những người chết đuối thì chúng ta phải đi học bơi và học cho đến nơi đến chốn trước. Cũng thế, chúng ta muốn cứu mọi người ra khỏi luân hồi sanh tử, nghĩa là cứu cho khỏi nạn khổ của thế gian thì trước hết chính mình phải ra khỏi thế gian này. Chúng ta phải tu cho đến nơi đến chốn, học cho đến nơi đến chốn, tu cho thành công đắc quả, rối lúc bấy giờ tha hồ đi giảng dạy hoằng pháp. Còn bây giờ việc học việc tu của chúng ta còn võ vẽ hai ba câu mà lại cứ vội đi giảng, đi dạy. Đây là điều răn cấm không nên. Chúng ta phải an ổn tinh thần và lo học cho đến nơi đến chốn đã rồi mới nghĩ đến chuyện xuống núi lợi tha.

Sự học của nhà chùa không phải là lắm chữ, nhiều bằng cấp mà học làm sao cho tiêu được tham sân si, mạn nghi tà kiến, những thói xấu tật hư, phải thanh lọc cho sạch để đừng đọa lạc nữa, hoàn toàn không để cho tham sân si lôi chúng ta vào đường sanh tử nữa. Làm thế nào cho tâm mình hoàn toàn thanh tịnh, không còn các tai nạn mê lầm nữa thì khi ấy chúng ta mới có khả năng bố thí pháp. Chứ bản thân chúng ta còn đọa lạc, chưa cứu được mình thì còn lo dạy cho ai được. Cho nên đây Phật khuyên nên lo tu học trước, làm sao giải được những thói xấu tật hư ở tâm chúng ta đi đã trước khi dấn thân vào giảng dạy hay làm từ thiện phước báo.

Nếu sự tu học của chúng ta chưa thông, chưa tỏ, chẳng qua là chúng ta nhớ được những lời dạy của Đức Phật trong kinh sách và đi nói lại cho người khác nghe, với tâm lành giúp đỡ như thế thì cũng quý, nhưng mà chúng ta lại bỏ việc tu học của mình vì sư học tu của chúng ta chưa xong. Tâm của chúng ta còn đầy những lỗi xấu, chúng ta chưa có thời giờ sáng suốt để lọc những thói xấu của mình đi. Sẵn trong kinh sách có mấy lời thì chúng ta cứ nói theo đuôi mà thôi. Đức Phật không cấm việc giảng kinh nói pháp, ngài còn khuyến khích nữa là khác, nhưng chúng ta phải để thời gian lo ở chỗ thanh vắng mà tu tâm của mình, lo tròn bổn phận của mình, soi lại tâm, sửa cho sạch những đọa lạc đi, tu cho thành đạo đi.

Đức Phật nói có ba bậc tỳ kheo. Bậc tỳ kheo thứ nhất là vị có khả năng chứng quả nhưng không lo giải thoát chứng quả mà cứ lăng xăng đem tâm đi giảng chỗ này chỗ kia cho đến nổi uổng phí khả năng. Bậc tỳ kheo thứ hai thì mới đạt được đôi chút, chưa có nhiều mà đã buông bỏ sự nghiệp chuyên tu của mình để đi làm phước. Cho nên Phật ngăn cấm không có được lăng xăng đi đầu này đầu kia mà phải lo an ổn tinh thần tu cho đến nơi đến chốn đã. Bậc tỳ kheo thứ ba là tu tập đã khá cao mà nửa chừng cũng bỏ sự nghiệp giải thoát của mình để lo đi làm phước và giảng dạy cho mọi người. Chúng ta cày cáy cho người là việc tốt nhưng chúng ta phải cày cáy cho mình nữa thì mình mới có gạo mà ăn. Nếu mình không chịu cày cáy cho mình thì chính mình bị chết đói trước.

Đức Phật không cấm chuyện giúp đỡ mọi người nhưng Phật khuyến khích chúng ta phải hoàn thành việc tu hành của chính mình trước đã. Chứ nếu học được vài cuốn kinh đem giảng cho người này người kia mà chính tâm của mình còn đầy tham đầy giận, chưa có thời gian ở chỗ vắng để thanh lọc những sai quấy của mình, thế thì trước sau chúng ta phải theo tâm tham sân si ấy mà đọa lạc sáu cõi. Một khi đọa làm con chó, cọp, rắn rồi thì bao giờ mới tỉnh được ra, bao giờ mới được trở lại làm người để đi học Phật pháp. Khi đọa lạc thì những sự tu học cũ quên đi hết, một khi đọa lạc thì ngàn vạn kiếp trôi lăn, rồi đến bao giờ mới tỉnh cho ra. Đừng để đến nổi đọa lạc về các loài ngạ quỷ, địa ngục, bàng sanh và những loài này đang ở ngay dưới gót chân của chúng ta, tức chúng ta dễ đọa lạc tam đồ lắm.

Đức Phật ân cần khuyên chúng mình phải ở nơi vắng vẽ, an tĩnh tinh thần để đủ sáng suốt mà thanh lọc tâm mình. Đây là việc cần kíp Đức Phật nhắc đi nhắc lại. Cần kíp sáng suốt soi tâm chúng ta mà thanh lọc những thói hư tật xấu của mình đi, đừng quản ngại các thứ khó khăn. Đấy là điều thiết yếu Phật ân cần nhắc để chúng ta đừng đọa lạc nữa. Ra khỏi vòng sanh tử rồi thì khi ấy mới thảnh thơi, tha hồ làm gì cũng tốt, càng đi giảng dạy, càng làm phước từ thiện càng tốt. Thân người mỏng manh, chỉ một trận gió độc, một bước đi vấp té là thân này tan nát, trả về cho đất nước gió lửa. Cho nên Đức Phật ân cần khuyên chúng ta phải nhanh chóng quay về tâm mình, thanh lọc những thứ tâm độc khiến đừng đọa lạc trước khi chúng ta bị cận tử nghiệp. Đó là điều cấp thiết cần làm trước khi chúng ta xuống núi thực hành hạnh lợi tha hay bố thí pháp.

Đức Phật từ bi tỉ mỉ dặn chúng ta rằng chúng ta có phước báo được làm người và được học Phật pháp. Chúng ta nên nhận lòng từ bi và sức tập tĩnh của Đức Phật giúp cho chúng ta thoát luân hồi sanh tử thì để báo đáp ơn đức cù lao đó, chúng ta phải thực hiện ngay những lời Phật dạy để chúng ta thực sự ra khỏi luân hồi để không bỏ công tu học, uổng phí một đời bởi vì trên địa cầu này có biết bao nhiêu tỷ ngàn sinh linh của sáu loài, mới có một số được làm người. Trong số được làm người đó, có được bao nhiêu người phát tâm quy y Tam bảo, thọ ngũ giới để trở thành Phật tử. Rồi trong số những Phật tử đó có bao nhiêu người được học A-hàm, được học Tứ Niệm Xứ. Rồi trong những người học kinh Tứ Niệm Xứ và A-hàm thì có mấy người tu giải thoát, số lượng này hiếm lắm. Cho nên chúng ta có phúc được theo học Phật, chúng ta đỡ khổ vô cùng, hãy tận dụng sự may mắn này của mình. Còn nếu không được học Phật thì chúng ta sẽ khổ mà khổ vô ích, vô lý và phí thời gian làm kiếp người của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567