Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu Chùa Từ Đàm

20/03/201411:26(Xem: 11363)
Giới thiệu Chùa Từ Đàm

chua tu dam 4

Cách nay hơn 300 năm, trong khoảng từ năm 1683 đến 1693, một vị Thiền sư từ Trung Hoa đến đất Thuận Hóa, tại núi Hoàng Long mà hiện nay thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế; dựng thảo am để tu hành và hoằng đạo, đó chính là ngài Minh Hoằng Tử Dung, tổ sư khai sơn và chùa được gọi là Ấn Tôn tự.

Đến đầu thế kỷ thứ 18, một vị thiền sư từ Phú Yên ra Thuận Hoá tìm thầy học đạo. Ban đầu vị Thiền sư ấy đến học với Giác Phong Lão Tổ ở thảo am Báo Quốc, sau khoảng hơn 10 năm, vào năm 1695 Ngài đến chùa Thiền Lâm thọ Sa-di với Thạch Liêm Hòa Thượng, hai năm sau, 1697 Ngài thọ Cụ túc giới với Từ Lâm Lão Tổ tại chùa Từ Lâm. Năm 1699 Ngài đến cầu học với Tổ Minh Hoằng Tử Dung ở Ấn Tôn. Năm Nhâm Ngọ (1702) Tổ trao công án cho Ngài: “Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ” và mười năm sau, vị Thiền sư trình kệ “Dục Phật” được Tổ Ấn chứng truyền tâm ấn. Từ đó, vị Thiền sư người Việt đắc đạo với phái thiền Lâm Tế, và được kế truyền theo pháp kệ của tổ Minh Hoằng Tử Dung, pháp danh là Thiệt Diệu hiệu Liễu Quán. Sau đó, Tổ Liểu Quán đã khai sơn Tổ đình Thiền Tôn và biệt xuất một dòng kệ 48 chữ: “thiệt tế đại đạo, ...” lưu truyền tông phong rạng rỡ trên đất Huế mãi cho tới ngày nay.

Năm 1703, thảo am đã được vua cấp chiếu chỉ xây dựng chùa và ban cho hiệu Sắc tứ Ấn Tôn Tự. Đến thời Tây Sơn (1786-1801) các chùa chiền trên đất Thuận Hoá phần lớn đều bị phá huỷ, hoặc biến cải thành những nơi làm việc, chùa Ấn Tôn do vậy cũng bị phá huỷ. Đến thời Gia Long, vào năm 1808, ngài Đạo Trung Trọng Nghĩa đứng ra trùng tu Tổ đình Ấn Tôn khang trang hơn, chùa có tiền đường, thờ 3 gian, có lầu chuông, gác trống, nóc có rồng, phượng hẳn hoi, chính trong giai đoạn này chùa có đúc một quả chuông đồng nặng 416 cân, có khắc ấn triện hàng chữ “Gia Long tuế thứ Quí Dậu niên mạnh hạ nhị thập tam nhật mùi thời chú”, (3 giờ chiều, 23/4/1812 - thời Gia Long). Năm 1841 (Thiệu Trị nguyên niên) vua đã hạ chỉ đổi tên chùa thành Từ Đàm Tự.

Năm 1932 hội An Nam Phật Học được thành lập tại Huế thì chùa Từ Đàm chính thức được chư Sơn môn chuyển giao lại cho Hội để làm trụ sở.

Ngày 18 tháng 12 năm 1938, tức ngày 27 tháng 10 năm Bảo Đại 13, Lễ đặt đá xây dựng chùa Tù Đàm được tổ chức rất trọng thể, có sự tham dự của Đại diện Tăng già, Hoà thượng Như Đông Đắc Quang, Tăng cang chùa Linh Mụ; Đại diện cư sĩ Phật tử, Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám, Chánh hội trưởng An Nam Phật Học Hội Thừa Thiên và Đại diện chính phủ Nam triều. Chùa Từ Đàm mà lúc đó gọi là chùa Hội quán Hội Phật Học Thừa Thiên và cũng là trụ sở của An Nam Phật Học Hội. Hội này gồm có 5 vị Trưỡng Lão Hòa thượng mà Hòa Thượng Giác Tiên đứng đầu, và 17 vị cư-sĩ do B.S Tâm Minh - Lê Đình Thám làm Chánh hội trưởng. Đến năm 1938, chùa Từ Đàm là nơi phát tích phong trào chấn hưng Phật giáo cho cả 7 tỉnh suốt dãi đất miền Trung.

Chùa Từ Đàm kể từ khi đặt đá, xây dựng trong khoảng thời gian 2 năm mới hoàn thành, và sau đó đúc thêm tượng đức Phật Thích-ca bằng đồng cao 1m32, ngồi kiết già trên tòa sen, tay bắt ấn Tam muội. Tượng Phật nầy là công trình nghệ thuật điêu khắc của đạo hữu Mai Trang Nguyễn Khoa Toàn và nhà đúc tượng Nguyễn Hữu Tuân. Lễ rót đồng đúc tượng vào lúc 8 giờ sáng ngày rằm tháng 7 năm Canh Thìn (1940) tại khuôn viên chùa Từ Đàm.

Năm 1951, Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại chùa Từ Đàm. Đây là một Hội nghị toàn quốc lần đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng đem lại thành quả là sự ra đời Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và Hội chủ là Hoà thượng Thích Tịnh Khiết. Từ đó Phật giáo khắp mọi miền đất nước đã sinh hoạt rất có qui củ và chặc chẽ; lá cờ Phật giáo Quốc Tế có 5 màu rực rỡ được treo; và Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ được công nhận một thành viên của Hội Phật giáo Quốc Tế. Và cũng từ đó, Ban Quản Trị Trung Ương của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam được đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm Huế.

Vào ngày Phật Đản năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm đã buộc Tổng hội Phật giáo ở Huế hạ cờ Phật giáo; sự việc xảy ra vào chiều ngày 07-05-1963. Ngày 10-05-1963 các vị Lãnh đạo Phật giáo họp tại Từ Đàm hoạch định đường lối, phương pháp tranh đấu để bảo vệ Phật giáo và đòi hỏi công bình xã hội. Một bản Tuyên Ngôn được soạn thảo, nêu ra năm nguyện vọng của Phật giáo đồ. Bản Tuyên Ngôn này được gởi tới chính quyền Ngô Đình Diệm. Tiếp theo đó, cuộc đấu tranh bảo vệ Đạo Pháp chuyển vào Sài gòn và đặt Trung tâm tại chùa Xá Lợi. Và cuối cùng chính quyền Ngô Đình Diệm được thay thế bởi chính quyền mới vào ngày 01-11-1963.

Năm nay, – 2006, PL. 2550 - Nhân dịp tu sửa vì dột nát, chùa mở rộng tầm vóc thêm lần nữa, nhưng vẫn giữ duyên xưa, với kiến trúc ngôi chùa Tổ, theo ý tưởng của Hoà thượng Trú trì, Thích Thiện Siêu cùng với chư Tôn thiền đức trưởng thượng cũng như toàn Ban Trị sự Giáo hội đã đồng thuận dự án đại Trùng tu chùa, và Lễ Đặt đá trùng tu lần này được tổ chức vào ngày 10 tháng 6 năm Bính Tuất (04.07.2006).

Sau hơn một năm thực hiện chùa đã được hoàn thành và làm lễ An vị Phật vào ngày 15 tháng 11 năm Đinh Hợi (24.12.2007) vào dịp huý nhật Tổ Khai sơn của Tổ đình Từ Đàm.

Như vậy, Từ Đàm là một ngôi Tổ đình xa xưa, nhưng vẫn là một ngôi chùa Hội, là Trung tâm hoằng giáo của Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên Huế vậy./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2020(Xem: 4291)
Chùa Diệu Đế tọa lạc bên bờ sông Hộ Thành (sông Gia Hội) số 110 Bạch Đằng, phường Phú Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa có diện tích hơn 10.000m2. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi. Đây là nơi Hoàng tử Nguyễn Phúc Miên Tông, con vua Minh Mạng ra đời vào ngày 16/6/1807. Năm 1841, Hoàng tử lên ngôi vua ở kinh thành Huế, lấy niên hiệu là Thiệu Trị.
07/09/2020(Xem: 6734)
Chùa tọa lạc trên đồi Hàm Long (trên đất làng Thụy Lôi xưa, gần xóm Lịch Đợi), đường Báo Quốc, phường Phường Đúc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714. Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
05/09/2020(Xem: 7076)
Chùa Giác Lâm tọa lạc tại số 02 kiệt 56 đường Duy Tân, phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nguyên là một thảo am do Tổ Giác Hải, người làng Trung Kiên, tỉnh Quảng Trị khai sáng vào ngày 16 tháng 3 năm Đinh Dậu (1897) trên một triền đồi, dưới chân núi Ngự Bình, đặt tên Duy Tôn Tự để truyền bá chánh pháp, đem đạo Phật phổ hóa vào những nơi xa xôi, hẻo lánh. Tổ có thế danh là Nguyễn Văn Cẩm, sinh trưởng trong một gia đình tín tâm với đạo Phật. Ngài là đệ tử của Tổ Tâm Tịnh, khai sáng Tổ đình Tây Thiên, Huế. Ngài có pháp danh là Trừng Nhã, tự Chí Thanh, hiệu Giác Hải.
30/08/2020(Xem: 5049)
Chùa Thiên Mụ thường gọi là chùa Linh Mụ, tọa lạc trên đồi Hà Khê, đường Nguyễn Phúc Nguyên, xã Hương Long, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chùa nằm ở bờ bắc sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế 5km. Sách Ô Châu cận lụccủa Tiến sĩ Dương Văn An cho biết chùa Thiên Mụ ở phía nam xã Giang Đạm, huyện Kim Trà, nóc ở đỉnh núi, chân gối dòng sông. Chùa được chúa Tiên - Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601. Năm 1665, chúa Nguyễn Phúc Tần cho trùng tu chùa khang trang. Năm 1695, Thiền sư Thạch Liêm, người Trung Quốc, được chúa Nguyễn mời làm trụ trì chùa. Từ chùa Thiên Mụ và chùa Khánh Vân (Huế), Ngài đã truyền bá Thiền phái Tào Động ở đàng Trong.Hòa thượng Thạch Liêm đã tả cảnh chùa Thiên Mụ: “Đêm 15 trời mưa, ra đến chùa Thiên Mụ. Chùa này tức Vương phủ ngày xưa (?) chung quanh có trồng nhiều cây cổ thụ, day mặt ra bờ sông; trước chùa ngư phủ, tiều phu tấp nập sớm chiều qua lại. Trong chùa cột kèo chạm trổ rất tinh xảo …” (1)
29/08/2020(Xem: 4220)
Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang thường được gọi là Chùa Sắc Tứ,Tịnh Quang Tự, Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang, tọa lạc ở thôn Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa là một trong những ngôi tổ đình được xây dựng sớm và có ảnh hưởng lớn Phật giáo xứ Đàng Trong. Chùa ban đầu có tên là Am Tịnh Độ. Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam(1) cho biết chùa do Hòa thượng Tu Pháp, tự Chí Khả khai sáng vào năm 1739 đời Vua Lê Ý Tông (năm thứ hai đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát) với tên là Tịnh Nghiệp Tự. Đến đời Vua Gia Long, vua ban tên gọi là Tịnh Quang Tự. Chùa được trùng tu năm Minh Mạng thứ 21 (1941).
23/08/2020(Xem: 4633)
Hôm nay con có vài lời tâm nguyện thỉnh mời quý Ngài cùng chư Phật tử hoan hỷ cho con được trình bày tâm nguyện của mình. Con xin được giới thiệu bản thân. Con tên là Nguyễn Thị Dân, Pháp danh Nguyên Hương, pháp tự Giới Huyền, sinh năm 1975, tại Đà Nẵng, Việt Nam. Con xuất gia năm 1996 tại chùa Quang Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Con thọ Đại giới năm 2004, tốt nghiệp Trung Cấp Phật Học Đà Nẵng năm 2004, sau đó con lên đường du học tại Đài Loan, năm 2010, con đã tốt nghiệp Phật Học Viện Viên Quang (Đài Loan) và tốt nghiệp Phật Học Viện Pháp Cổ Sơn Đài Loan vào năm 2014. Cối năm 2014, con có duyên dành đến Úc tu học và đóng góp công quả tại Thiền Viện Bồ Đề Brisbane (theo diện working visa) cho đến năm 2018. Sau đó con có thắng duyên lên tu học cùng với quý Phật tử chùa Phật Giáo Quốc Tế, Darwin, Bắc Úc từ năm 2018 đến nay.
19/08/2020(Xem: 3648)
Chùa Hoằng Phúc tọa lạc ở thôn Thuận Trạch, xã Mỹ Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chùa còn gọi là Chùa Trạm hay Chùa Quan. Chùa cách trung tâm huyện Lệ Thủy 4 km, cách Quốc lộ 1A 3 km. Trang web: chuahoangphuc.com có bài: “Chùa Hoằng Phúc Quảng Bình ‘VÔ SONG PHÚC ĐỊA’ có niên đại hơn 700 năm” cho biết chùa có từ thời Trần, được xem là ngôi chùa cổ nhất miền Trung Việt Nam. Chùa được ghi nhận là nơi “vô song phúc địa” (đất phúc khôn sánh), khởi nguồn có tên là Am Tri Kiến. Văn bia ở chùa năm 2016 cho biết năm 1301, Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông trên đường du hóa Nam phương, dừng lại chọn lập am và quảng hoằng Phật pháp. Khi đó, am được gọi là “Am Tri Kiến” nghĩa là tự con người giác ngộ chân lý nhà Phật.
13/08/2020(Xem: 3537)
Thật có duyên rất lành mới có cơ hội cúng dường xây dựng chủa Viên Thông tại xã Cuôr Đăng, huyện M'gar Đăk Lăk, là một ngôi chùa duy nhất ở một xã có 3500 hộ trong đó 70% là dân tộc Eđê. Thầy Minh Hạnh là vị Thầy tu hành nghiêm túc với hạnh nguyện mang ánh sáng Tam Bảo đến với bà con dân tộc nghèo vùng cao nguyên. là một chú tiểu khi lên chín tuổi, vượt qua tuổi vị thành niên, rồi thanh niên với nhiều chướng ngại mà cả chục chú tiểu chỉ còn 1 hoặc 2 thật khả ý, khả ái với Tam Bảo, với lời dạy của Thế Tôn mới có thắng chính mình, thọ đại giới tỳ kheo, thành vị sa môn đích thực trong giáo pháp của Như Lai. Thầy Minh Hạnh năm nay 38 tuổi, như vậy đã 28 năm theo Phật, theo Tam Bảo rồi. Với 14 năm hành đạo (cũng là tu đạo) ở xã Cuôr Đăng, Thầy Minh Hạnh an trụ trong hạnh nhẫn nhục với tâm nguyện kiên cố mới có những thành quả khá tốt như ngày nay. Những năm đầu, chính quyền nơi đây không cho tụng kinh gõ mõ, không một ai nơi đây biết đến Tam Bảo. Nay hàng ngày đều có 15-20 Phật tử đều đ
03/08/2020(Xem: 4466)
Chùa Đại Tuệ có tên gọi khác là chùa Cao, chùa Đại Huệ, tọa lạc ở xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Chùa nằm trên đỉnh cao nhất của núi Đại Huệ, còn gọi là Phong Vân Sơn, ở độ cao 450m so với mực nước biển, có diện tích 20 hecta. Theo truyền thuyết, chùa được vua Mai Hắc Đế cho xây dựng từ năm 713.
31/07/2020(Xem: 3814)
42 năm! Con số của thời gian vụt trôi... Năm 1977, tôi tình nguyện đăng ký đi Thanh Niên Xung Phong lúc tuổi 17 "bẽ gãy sừng... bò tót", gia nhập đội ngũ áo xanh, nón tai bèo, thuộc A1, B1, Tiểu Đoàn TNXP Đất Sét. Đóng quân tại Đất Sét 1. Đất Sét! Vùng KInh Tế Mới "quyện theo nước dòng Sông Chò" và "dưới chân Hòn Dữ đêm đêm tỏa sương mờ"... Cuối năm 1978, tôi rời Đất Sét, chuyển vùng ra KTM Nhiễu Giang ngoài Phú Yên, nhủ lòng "một về không trở lại"... Quay lại làm chi nữa?Có gì đâu để mình phải quay lại? Tưởng là vậy sau hơn 40 năm, hơn nửa đời người, nhưng không ngờ, sáng nay, tôi lại chuẩn bị lên đường quay trở lại vùng đất hoang vu ma thiêng nước độc năm xưa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567