Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Ấn Niết Bàn (Dharma Seal of Nirvana)

15/01/202509:15(Xem: 128)
Pháp Ấn Niết Bàn (Dharma Seal of Nirvana)

TVQD_Phat Niet BanPháp Ấn Niết Bàn

Nguyên Giác

 

Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.

Pháp ấn còn gọi là đặc tướng của các pháp. Truyền thống Phật giáo Nam Truyền thường nói rằng ba pháp ấn, hay ba đặc tướng của hữu thể, là khổ, vô thường và vô ngã. Khổ là điều chúng ta có thể thấy dễ dàng trong cõi này. Đức Phật nói rằng sinh, lão, bệnh, tử là cái khổ trong cõi người mà  ai cũng thấy. Ngay cả nhiều cõi trời cũng khổ như thế, huống gì tới các cõi súc sinh, quỷ đói, địa ngục.

Trong khi đó, trận gió vô thường chảy xiết, liên tục không ngừng. Khi dạy về cách nhận ra vô thường, Đức Phật thường nói về mắt, về cái được thấy, về tai, về cái được nghe, và vân vân. Khi tất cả các pháp vô thường như thế, tất nhiên là tự thân các pháp phải là chuyển biến, phải là vô ngã, là không có tự thể cố định.

Trong khi đó, Phật giáo Bắc truyền thường nói về Bốn pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã, Niết bàn. Truyền thống nói rằng khi một giáo lý chứa Bốn pháp ấn này thì nó có thể được coi là Phật Pháp. Niết bàn là cảnh giới của những người đã xa lìa phiền não, đã đoạn tận thân kiến, và đã giải thoát khỏi vòng sinh tử. Nói dễ hiểu, Niết bàn là trạng thái tâm tĩnh lặng, an lạc, giải thoát khỏi đau khổ.

Nhiều quốc gia theo Phật giáo Bắc truyền chịu ảnh hưởng từ Kinh Pháp Hoa, trong đó có một câu thường được nhắc tới: Các pháp từ trong thể tính vốn thường trực trong sạch, tịch lặng, bất biến (Chư pháp tòng bản lai, thường tự tịch diệt tướng). Thực sự, lời dạy trong Kinh Pháp Hoa cũng nằm trong những lời dạy của Đức Phật trong thời kỳ hoằng pháp đầu tiên.

Cụ thể, các bạn có thể đọc lại thật kỹ Kinh Trung Bộ MN 140, đối chiếu bản dịch tiếng Việt và nhiều bản dịch tiếng Anh, sẽ thấy Đức Phật nói rằng người tu nào xa lìa vọng tưởng thì sẽ được gọi là vị ẩn sĩ tịch tịnh. Tuy vẫn đang đi, đứng, nằm, ngồi trong xã hội đời thường, vị ẩn sĩ tịch tịnh này thực sự là đang không sanh, không già, không chết, và không có dao động.

Làm cách nào để không khởi lên vọng tưởng? Có nhiều cách để xa lìa vọng tưởng. Đơn giản là hãy nhìn thấy thực tướng trong dòng chảy xiết của vô thường. Thấy vô ngã như thế, người tu sẽ tự đoạn thân kiến, không bao giờ nghĩ tới "tôi là" hay "tôi không là" hay "tôi sẽ là" và vân vân. Tự nhiên, tâm sẽ tịch tịnh.

Có một cách tu ghi trong Kinh SN 22.95, Đức Phật chỉ vào chùm bọt sóng trên Sông Hằng, và nói các sư hãy quan sát tất cả các pháp, toàn bộ thân tâm như chùm bọt nước đó, là rỗng không, không có lõi cứng. Tức là, Đức Phật dạy cách nhận ra và sống với tánh không của các pháp, nơi cội nguồn đó không hề có tham, sân, si chút nào. Và đó là Niết bàn. Thấy cái tánh không đó, chính là Thiền tông vậy. Trong cái tâm cội nguồn này, không hề có vọng tưởng, không có gì để nắm giữ hay xua đẩy. Nơi tánh không này, không thấy có ta hay người, thì còn gì gọi là tham sân si nữa.

Cách nói truyền thống của Thiền Tông nói rằng trong vô lượng niệm đang sinh khởi rồi diệt, vẫn có một không gian bất động của tâm. Nghĩa là, trong vô lượng cái vô thường huyễn hóa trước mắt, bên tai, vẫn có một Niết Bàn tịch diệt không rời. Cũng như nước không rời vô lượng bọt sóng, và cũng như gương không rời vô lượng ảnh hình được phản chiếu. Khi tâm sống như biển, thì sẽ không thấy có bọt sóng này sân si với bọt sóng kia. Bọt sóng thì vô thường, liên tục sinh rồi diệt, nhưng biển vẫn không đổi. Tương tự, khi tâm sống như tánh phản chiếu của gương, thì ảnh hiện ra rồi biến mất, nhưng tánh sáng của gương vẫn bất động, vẫn lặng lẽ.

Ngài Trần NhânTông viết trong bài Cư Trần Lạc Đạo Phú rằng khi người tu đã thấy tính sáng soi của tâm, thì không còn cần phương pháp nào khác, chỉ cần thường trực giữ tính sáng của tâm thôi, thì tự động sẽ "Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương; Dừng hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.” Câu thơ vừa dẫn có nghĩa là, không còn thấy có ta, không còn thấy có người, thì thực tướng của tâm kiên cố như kim cương hiển lộ ra. Lúc đó, khi ánh sáng của tâm chiếu tới, thì tham và sân sẽ biến mất, sẽ thấy cái biết tròn đầy của bản tâm hiện ra.

Thiền cũng là đi vào cửa của Không, Vô Tướng, Vô Tác. Khi cảm thọ vô thường chảy xiết, sẽ thấy thân tâm như bọt sóng rỗng không, sẽ thấy tất cả các hiện tướng là vô ngã và không có gì có thực tướng. Lúc đó là sống với Vô Tác, tức là không thấy gì để làm nữa. Ngay khi cái được thấy hiện lên trước mắt, và ngay khi cái được nghe hiện ra bên tai, tức khắc cái Không và Vô Tướng được nhận ra, và đó là Niết bàn tự tâm.

Tham khảo:

. Kinh MN 140: https://suttacentral.net/mn140/vi/minh_chau

. Kinh SN 22.95: https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau

.... o ....


Phat Niet Ban 6

Dharma Seal of Nirvana

Written and translated by Nguyên Giác

While studying Buddhism, we often encounter the three Dharma seals: impermanence, suffering, and non-self. Occasionally, the sutras mention a fourth seal: Nirvana. Depending on the sect, each teacher may present these concepts in different ways. However, both interpretations are valid and align with the sutras. From the perspective of Vietnamese Zen, all dharmas are inherently extinguished; without afflictions, there can be no enlightenment, and without birth and death, there is no Nirvana. Just as waves do not separate from water, and images do not detach from mirrors, Zen Buddhism emphasizes the importance of perceiving in order to live in harmony with the Dharma nature and to realize Nirvana within one's own mind.

The Dharma Seal, also known as the characteristic of the Dharma, is a fundamental concept in Buddhism. The Southern Buddhist tradition identifies three Dharma Seals, or the three characteristics of existence: suffering, impermanence, and non-self. Suffering is a pervasive aspect of our world that is readily observable. The Buddha taught that birth, aging, sickness, and death are forms of suffering that all humans experience. Moreover, many heavenly realms also experience suffering, not to mention the realms inhabited by animals, hungry ghosts, and beings in hell.

Meanwhile, the winds of impermanence flow swiftly, continuously, and without pause. In his teachings on the realization of impermanence, the Buddha frequently alludes to the eye's perception, the ear's perception, and so on. Given that all dharmas are impermanent in this way, it follows that the dharmas themselves must be in a state of constant change, lack a permanent self, and possess no fixed nature.

Meanwhile, Northern Buddhism frequently discusses the Four Seals of Dharma: impermanence, suffering, non-self, and nirvana. According to this tradition, a teaching that embodies these Four Seals can be regarded as the Buddha Dharma. Nirvana represents the state of individuals who have relinquished defilements, discarded the notion of self, and achieved liberation from the cycle of birth and death. In simpler terms, nirvana is a mental state characterized by calmness, peace, and freedom from suffering.

Many countries that follow Northern Buddhism are influenced by the Lotus Sutra, which contains a frequently cited phrase: Dharmas are inherently pure, tranquil, and unchanging (Chư pháp tòng bản lai, thường tự tịch diệt tướng). In fact, the teachings found in the Lotus Sutra are also part of the Buddha's teachings from his initial period of disseminating the Dharma.

Specifically, you should carefully reread the Majjhima Nikaya MN 140, comparing the Vietnamese translation with various English translations. The Buddha referred to a practitioner free from delusions as a tranquil hermit. Despite engaging in ordinary activities such as walking, standing, lying down, and sitting, this tranquil hermit is fundamentally not born, not aging, not dying, and experiences no fluctuations.

How can we prevent the emergence of delusions? There are many ways to get rid of delusions. Simply see the true nature of impermanence in the swift flow. Seeing non-self like this, the practitioner will naturally cut off the view of self, never thinking of "I am" or "I am not" or "I will be" and so on. Naturally, the mind will be peaceful.

In the SN 22.95 Sutta, the Buddha illustrates a practice by pointing to a cluster of bubbles on the Ganges River. He instructs the monks to observe all dharmas—both the body and mind—as akin to that cluster of bubbles: empty and devoid of a solid core. The Buddha teaches how to recognize and embrace the emptiness of all dharmas, where, at the fundamental level, there is no greed, anger, or delusion. This state is known as Nirvana. Perceiving this emptiness is the essence of Zen. This basic mind has no delusion or attachments. The concepts of self and other dissolve within this emptiness, prompting the question: what can we identify as greed, anger, or delusion?

The traditional understanding of Zen suggests that amidst the countless thoughts that arise and fade, there exists an unmoving space within the mind. In the face of the myriad illusory impermanences that confront our senses, there remains a tranquil and undisturbed state akin to Nirvana. Just as water is not separate from the countless bubbles that form upon its surface, and as a mirror is not distinct from the myriad images it reflects, so too does the mind function. A mind that embodies the vastness of the ocean does not see one bubble as angry or indifferent. Bubbles are transient, constantly emerging and dissipating, yet the ocean itself remains unchanged. Similarly, when the mind reflects the nature of a mirror, images may appear and vanish, but the inherent clarity of the mirror remains motionless and still.

Trần Nhân Tông wrote in the poem "Living in the World and Enjoying the Way" (Cư Trần Lạc Đạo Phú) that when a practitioner has seen the bright nature of the mind, no other method is needed. He only needs to constantly maintain the bright nature of the mind, and then he will automatically "see that there is no self, no person; then you will see the true nature of diamond; stop all greed and anger, and the mind will attain the color of enlightenment." The verse just quoted means that when one no longer sees the self, no longer sees the other, then the true nature of the mind is as solid as diamond. At that time, when the light of the mind shines, greed and anger will disappear, and the complete knowledge of the original mind will appear.

Zen practice involves entering the realm of Emptiness, Formlessness, and Actionlessness. Upon recognizing the swift flow of impermanence, one perceives the body and mind as empty foam, and recognizes all phenomena as non-self, devoid of any true form. In that moment, one embodies actionlessness, signifying that there is nothing left to do. Upon seeing and hearing, the mind instantly realizes Emptiness and Formlessness, leading to the experience of Nirvana of the mind.

Reference:

. Kinh MN 140: https://suttacentral.net/mn140/vi/minh_chau

. Kinh SN 22.95: https://suttacentral.net/sn22.95/vi/minh_chau

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/08/2023(Xem: 4599)
CHÙA PHẬT LINH 248A Quốc lộ 51, Xã Tân Hòa Thị xã Phú Mỹ, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Điện thoại: 0254 – 3891583 Email: [email protected] Website: WWW.chuaphatlinh.com Facebook: facebook.com/Chùa Phật Linh Youtube: Thích Hạnh Định Đường nối kết trang youtube https://www.youtube.com/channel/UCXkVoGAVPcN6tvFJyH2LnKg/videos Biên soạn Tỳ kheo Thích Hạnh Định
19/05/2023(Xem: 6929)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng đã kêu gọi đạo Phật ở thế kỷ 21, với sự nhấn mạnh không phải vào nghi lễ, cầu nguyện và lòng sùng mộ, đúng nghĩa hơn là nghiên cứu, tu học đặc biệt là các tác phẩm của 17 vị Luận sư vĩ đại thuộc Nalanda trường Đại học đầu tiên của Phật giáo. Để phù hợp với phương tiện thiện xảo của Đức Phật, nghiên cứu cần phải thích nghi với hoàn cảnh của thế kỷ 21, và phù hợp với các phương pháp truyền thống của Thời đại kỹ thuật số. Nhằm duy trì hiệu quả trong giáo dục Phật giáo, thì phải thích ứng với những nhu cầu thời đại, như nó đã luôn thực hành trong quá khứ. Đặc biệt là để tiếp tục truyền thống vĩ đại của giáo dục Phật giáo Nalanda, cần phải đáp ứng với các phương pháp giáo dục hiện đại, để cung cấp cho các thế hệ trẻ khả năng tiếp cận. Tôi xin dẫn chứng một số bối cảnh lịch sử để chứng minh rằng việc thích nghi với thời đại là phù hợp với truyền thống đạo Phật.
17/05/2023(Xem: 6861)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?
20/04/2023(Xem: 14547)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
18/03/2023(Xem: 9666)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 5785)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
15/03/2023(Xem: 5303)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
31/01/2023(Xem: 9976)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
23/12/2022(Xem: 22580)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 23121)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]