Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Tôn Giáo Thường Thức

19/02/201105:23(Xem: 7744)
1. Tôn Giáo Thường Thức

PHẬT HỌC CĂN BẢN
Thích Giải Hiền

1. Tôn Giáo Thường Thức

Trên thế giới chỉ có ba tôn giáo có lịch sử lâu đời và có tính toàn cầu là:

• Phật giáo khởi nguyên từ Ấn Độ
• Cơ Đốc giáo bắt đầu từ Trung Đông
• Hồi giáo

Hồi giáo và Cơ Đốc giáo (Thiên Chúa giáo và Tin Lành) điều bắt nguồn từ Do Thái giáo, Do Thái giáo cho đến tận bây giờ vẫn là Tôn giáo mang tính dân tộc. Các nước phương đông như Trung Quốc, Ấn Độ cũng có tôn giáo mang tính dân tộc, như đạo giáo của Trung Quốc, hay như chỉ có người Ấn Độ tin theo như Bà la môn giáo và Ấn giáo của Ấn Độ.

Đạo giáo của Trung Quốc chia làm hai hệ thống. Hệ thống triết học có Lão tử và Trang tử được gọi đạo gia. Hệ thống đạo thuật có hai phái là phái kim đơn và phái phù chú. Phái kim đơn là chuyên luyện đơn và luyện khí, gồm có nội đơn và ngoại đơn. Nội đơn là luyện khí công, ngoại đơn là luyện kim thuật, tức là đem kim thuậc luyện thành đơn dược. Họ tin rằng khi uống những kim đơn đó có thể mọc cánh bay lên trời, hay được sống lâu bất tử. Phái phù chú tức là dùng phương pháp luyện bùa chú để sai khiến quỷ thần, lấy sức mạnh của ma quỷ để giải việc của con người và được gọi là đạo giáo. Đạo giáo của Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa trở thành tôn giáo của thế giới, nhưng trên phương diện học thuật toàn cầu thì có tư tưởng đạo gia.

Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới, do công của A Dục Vương đã lập những đoàn truyền giáo mang giáo lý Phật Đà truyền sang Á Châu, thậm chí cả Châu Âu.

Tôn giáo ở phương Đông thì Phật giáo là tôn giáo đầu tiên trở thành tôn giáo mang tính thế giới.

Tôn giáo mang tính thế giới cao cấp cần hội đủ ba điều kiện: giáo lý, giáo chủ, giáo đoàn. Như Phật giáo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ, những kinh điển Phật nói là giáo lý, Tăng đoàn đệ tử của Phật được truyền thừa từ đời này sang đời khác gọi là giáo đoàn. Cơ Đốc giáo, giáo chủ là Đức Chúa Giê Su, thánh kinh là giáo lý, môn đồ và tín đồ là giáo đoàn. Hồi giáo Mô-ha-mét là giáo chủ, thánh kinh Cô Ran là giáo lý, tín đồ là giáo đoàn.

Trong lịch sử lâu dài của tôn giáo không biết bao lần thịnh suy có thể nói từ khi có con người thì nhu cầu và hiện tượng tôn giáo trong xã hội loài người cũng đồng thời phát sinh. Có tôn giáo mang tính khu vực, có tôn giáo mang tính dân tộc hay bộ lạc. Cũng lại có tôn giáo mang tính thời đại. Tất cả các tôn giáo này điều bắt nguồn từ kinh nghiệm siêu hình của những cảm ứng đối với ma quỷ. Trong xã hội cổ đại phương tây đều cho đó là ma quỷ và không cho phép được truyền bá. Còn ở phương đông thì thường được nguỵ xưng là Phật giáo. Thật ra đó là những tôn giáo mà theo quan điểm chính thống của Phật giáo gọi đó là ngoại đạo tà giáo. Những tôn giáo này thường không có căn bản lý thuyết và chế độ tổ chức chu đáo nên thường hình thành rồi tan biến liên tục trong lịch sử xã hội loài người.

Trong thời đại mở cửa, đa nguyên của xã hội ngày nay càng có nhiều tôn giáo mới ra đời như măng mọc sau cơn mưa, như các nước Âu Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Công, ngay cả đến những nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam cũng có nhiều tôn giáo mới ra đời, có mấy chục, đến mấy trăm, rồi trăm nghìn cho đến cả hàng trăm triệu người theo, nhưng các tôn giáo này điều gặp một hiện tượng là sẽ suy yếu và tan biến ngay sau khi vị sáng lập qua đời, sức hấp dẫn của người đó không còn tồn tại nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 122)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 106)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 130)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 106)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 105)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 118)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 117)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 104)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 749)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]