Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Bát Phong

02/02/201108:57(Xem: 5171)
03. Bát Phong

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
Cư Sĩ Chánh Trực
Toronto, Canada 1999 - PL 2543

Bát Phong

Trên thế gian này, trong cuộc sống đầy bon chen, tranh đấu, vất vả để sống còn, con người thường than khổ, thường kêu khổ, thường rên khổ: khổ quá, khổ quá và khổ quá! Con người, dù là thường dân hay quan chức, dù là da trắng, da đen, hay da màu, dù là chủ nhân hay công nhân, dù là bình dân hay học thức, dù là nam phụ lão ấu, dù theo bất cứ tôn giáo nào, ai ai cũng đều công nhận rằng: cuộc đời này khổ nhiều vui ít. Tại sao vậy? Bởi vì cuộc sống của con người luôn luôn có những bước thăng trầm, kể từ khi mở mắt chào đời cho đến lúc nhắm mắt giã từ thế giới ta bà khổ này. Tất cả mọi người trên thế gian, ai ai cũng đều phải đối diện và đương đầu với những bước thăng trầm của cuộc đời, không một ai có thể tránh khỏi.

Sách có câu: "Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí". Nghĩa là trên cõi đời này những việc may mắn, những việc hên, còn gọi là có phước, được phước, hưởng phước, thường không đến hai lần, không đến một lượt. Ngược lại, những tai họa, những chuyện không may, bất trắc, bất như ý, thường gọi là xui xẻo, lại đến dồn dập, liên miên, liên tua bất tận. Chuyện này vừa xong thì chuyện khác xảy ra. Có khi chuyện này chưa dứt thì nhiều chuyện khác đã ập đến. Nhiều khi những chuyện như vậy xảy ra tới tấp, làm chúng ta tối tăm mặt mũi, choáng váng mặt mày, trở tay không kịp. Với những người tinh thần yếu đuối, bạc nhược, cầu an, hoang mang, sợ sệt, những bước thăng trầm của cuộc đời sẽ nhận chìm họ trong biển khổ đau, ngập tràn nước mắt, đầy tiếng kêu than. Trái lại, với những người tinh thần mạnh mẽ, dũng kiệt, tìm hiểu đạo lý, thực tâm tu học, những bước thăng trầm của cuộc đời chính là những thử thách, những rèn luyện, để nâng cao cuộc sống nội tâm của họ ngày một sung mãn hơn, nghị lực của họ ngày một vững vàng hơn, dũng tiến trên bước đường tu học. Sự giác ngộ và giải thoát chắc chắn sẽ đến với những người như vậy một ngày không xa. Ích lợi của việc tìm hiểu đạo lý, thực tâm tu học, chính là chỗ này vậy.

* * *

Trong kinh sách, những bước thăng trầm của cuộc đời được gọi là "Bát Phong". Bát phong gồm có bốn điều phước lành và bốn điều bất trắc như sau: "thịnh và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Tức là bát phong có bốn cặp: Một là hưng thịnh, lợi lộc và suy sụp, điêu tàn. Hai là hủy báng, gièm pha và danh dự, tiếng thơm. Ba là xưng dương, tán tụng và cơ bài, chỉ trích. Bốn là phiền não, khổ đau và an lạc, hạnh phúc. Đó là tám ngọn gió thường tình của thế gian, lúc nào cũng không ngừng thổi, hết cơn gió này rồi đến cơn gió khác, có lúc gió thổi hiu hiu, nhẹ nhàng, mát mẽ, có khi gió thổi mãnh liệt, khủng khiếp, tàn khốc, như trong các cơn giông bão.

Trong đời sống của mọi người trên thế gian, không ai không gặp những bước thăng trầm, lúc được lúc thua, lúc vinh lúc nhục, lúc vui lúc khổ, lúc sướng lúc cực, lúc lên voi lúc xuống chó, lúc danh dự lúc nhục nhằn, lúc lạc quan lúc bi quan, lúc bước lên xe lúc ngã xuống ngựa, lúc được làm vua lúc thua làm giặc, lúc lên đài danh vọng lúc xuống tận bùn đen, lúc cười tươi hỷ hạ lúc cười ra nước mắt, lúc hân hoan ra mặt lúc khóc thầm trong tâm, lúc muốn sống dai với đời lúc muốn chết phứt cho rồi. Những bước thăng trầm như vậy sở dĩ làm cho con người phải phiền não khổ đau, bởi vì khi gặp phải bất cứ cảnh ngộ nào, dù vừa ý hay không vừa ý, tâm trí của con người luôn luôn xáo động, bất an. Cho nên, nếu chịu khó tìm hiểu đạo lý, thực tâm tu học, hạ thủ công phu, quán chiếu tự tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ có an lạc và hạnh phúc. Nếu không, con người "còn sống là còn động, còn động là còn khổ" , vì cuộc đời sống động sôi nổi, vì những bước thăng trầm đó vậy.

1) Thịnh và Suy:

Trước hết, chúng ta thử xét cặp thăng trầm mà người đời phải thường xuyên đối phó, đó là lúc hưng thịnh, hưởng lợi lộc và lúc suy sụp, lãnh nợ đời. Thịnh và suy là hai ngọn gió thường xuyên trên thế gian, trong cuộc đời của bất cứ người nào.

Ở trên trần đời, con người thường gặp phải cả hai điều: được và thua, lời và lỗ, thắng và bại. Dĩ nhiên, lúc hưng thịnh, khi được lợi thì con người vui mừng, khoái chí, thích thú, hả hê. Điều này không có gì là lạ, nên được gọi là thường tình thế gian. Những mối lợi dù to hay nhỏ, dù chánh đáng hay không, cũng đều đem lại niềm vui mà ai cũng ước mong, ai cũng tìm kiếm. Nếu không có những giờ phút vui vẻ, dù là ngắn ngủi tạm bợ, cuộc đời quả thực không đáng sống. Trong thế gian đầy tranh chấp và bon chen này, con người rất ít được cơ hội hưởng những giây phút làm tâm trí vui tươi, phấn khởi, nhẹ nhàng. Những lạc thú như vậy, dù là vật chất hay tinh thần, chắc chắn sẽ giúp con người thêm sức khỏe và tăng tuổi thọ.

Nhưng đến khi thất bại, thua thiệt, lỗ lã, mất mát, sa sút, suy sụp, điêu tàn, thì phiền não và khổ đau bắt đầu phát khởi. Con người có thể mỉm cười dễ dàng lúc hưng thịnh, khi đắc thời được thế hay khi lợi lộc đến, nhưng đến lúc thua lỗ, suy sụp, mạt vận thì không, khó lắm. Nhiều trường hợp thua thiệt nặng nề, lỗ lã lớn lao, mất mát quan trọng có thể làm cho con người cuồng loạn tâm trí. Thí dụ như khi bị phá sản, cơ nghiệp suy sụp, gia đình tan nát, thân bại danh liệt, thường đưa đến cảnh quyên sinh mạng sống, bởi vì con người không còn chịu đựng được nữa.

Đạo Phật chính là đạo cứu khổ nhân loại. Cho nên, chính trong những trường hợp này, con người cần áp dụng, phát huy sự học hiểu giáo lý của đạo Phật, để tinh thần dũng kiệt và cố gắng giữ tâm trí bình thản, không để quá chao động. Trong lúc vật lộn với đời sống, tất cả mọi người ai ai cũng đều phải gặp những lúc thăng, lúc trầm. Cho nên con người phải sẵn sàng chấp nhận, sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng đối phó, nhứt là khi sống trong nghịch cảnh. Chúng ta có niềm tin nơi Đức Phật, nên cố gắng tìm hiểu Phật Pháp, đó là những lời dạy vô cùng quí báu được ghi trong các kinh điển, để có thể áp dụng trong cuộc sống hằng ngày và chịu đựng được bát phong đến bất cứ lúc nào, dưới bất cứ hình thức nào. Được như vậy, nỗi thất vọng, niềm đau thương sẽ giảm thiểu rất nhiều.

Mười điều tâm niệm, trong Luận Bảo Vương Tam Muội, có dạy: "Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát". Tại sao vậy? Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu. Con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc sống kiếp này mới gặp nhiều tai nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc sống bớt tai nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ, dù bằng hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng thành công dễ dàng, thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, tiêu xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa lánh, không ai muốn gần gũi. Khi gặp hoạn nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp nạn, không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không còn dễ nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lạc, bởi vì tham lam thì dễ gặp nạn, sân hận thì dễ gặp nạn, si mê thì dễ gặp nạn! Nói cách khác, hoạn nạn giúp cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc, triền phược của tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, nghi kỵ đó vậy.

Khi mất một vật gì, dù quí giá hay nhỏ mọn, nhưng là vật thường dùng hằng ngày, tức nhiên chúng ta cũng sẽ cảm thấy bực bực trong lòng. Chính cái buồn bực đó làm cho tâm trí chúng ta xao xuyến, giao động, bất an, chứ không giúp tìm lại được vật đã mất. Chúng ta có thể tự an ủi: Đây chỉ là một sự mất mát nhỏ nhen, không đáng quan tâm. Nhiều người trên đời còn mất nhiều thứ to tát, lớn lao hơn nhiều. Cái sự mất mát lớn lao nhứt, hầu hết mọi người đều sợ, đó chính là: "mất mạng!" , nghĩa là mất cái mạng sống của chính mình. Con người thường quan niệm lấy của che thân, có mất mát vật gì cũng thường tự an ủi: cái mạng này còn là tốt rồi, là có phước rồi, còn người thì còn làm ra của, lo gì! Chỉ có ít người chịu chết thay cho của cải mà thôi. Đạo Phật chính là đạo giúp chúng ta bớt đi sự sợ hãi, giúp chúng ta dứt trừ những ưu tư, lo lắng trên đây, giúp chúng ta đạt được sự bình tĩnh, thản nhiên, tự tại, điềm đạm, trước mọi bát phong.

Chúng ta nên quán chiếu rằng: Ngay cái thân tứ đại của chúng ta nhứt định cũng có ngày phải bị mất đi, tan rã và trở về với cát bụi, huống gì là bất cứ vật gì khác có hình tướng, trên thế gian này. Bất cứ vật gì trên thế gian này cũng đều trải qua các giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Nghĩa là mọi vật sinh ra, hình thành, tồn tại trụ thế một thời gian nào đó, rồi cũng biến dị, hư hỏng, cho đến khi hoàn toàn bị hủy diệt. Hiểu được"lý vô thường" do Đức Phật dạy một cách sâu sắc như vậy, chúng ta sẽ giảm bớt nhiều phiền não và khổ đau trong cuộc đời và có thể giữ tâm trí được bình thản trước những sự mất mát trên thế gian, dù lớn hay nhỏ, dù là vật chất hay tinh thần, dù là tiền bạc hay người thân. Ngoài ra, giáo lý đạo Phật còn giúp chúng ta tìm được "con người chân thật" của chính mình, ngoài cái thân giả tạm này.

Trong gia đình, nếu người vợ có lỡ tay đập bể một món đồ nào đó, dù cho quan trọng và quí giá đến đâu đi nữa, đức phu quân cũng không nên nặng lời vì tiếc của, làm cho gia đạo bất an, huống gì những chuyện lặt vặt nhỏ mọn khác. Được như vậy, những cặp vợ chồng này khỏi cần phải đi coi bói xem chừng nào hết tiểu hạn, hết đại hạn, chừng nào tai qua nạn khỏi, chừng nào mới được bình yên. An lạc và hạnh phúc ở ngay trong gia đạo của họ rồi, khỏi phải tìm kiếm nhọc công, mệt sức. Thực ra đại hạn hay tiểu hạn là tùy ở mình hết trơn, bao lâu mình còn lầu bầu tiếc của thì bấy lâu mình còn phải xức dầu cù là cho bớt nhức đầu, cho đở đau bụng. Cũng vậy, khi ông chồng có thất bại trong công việc hùn hạp làm ăn, thua lỗ, thậm chí có đứt vốn, vỡ nợ đi chăng nữa, vị hiền thê cũng không nên nặng lời vì tiếc của, không nên đay nghiến, phải chi ông để tiền cho tôi mua hột xoàn, mua cẩm thạch đeo, vừa chưng diện được đẹp đẽ, vừa để dành làm của sau này. Được như vậy, gia đạo sẽ bình yên, cuộc sống được an lạc và hạnh phúc chắc chắn, không nghi.

Ai ai cũng hiểu rằng dù có than trời trách đất, la lối om sòm chăng nữa thì cũng không có cách nào bù lại những sự mất mát vật chất cũng như tinh thần. Chuyện gì đã qua hãy để cho nó qua đi, đừng nhắc tới, đừng than van, đừng suy tư nghĩ tưởng. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc". Nghĩa là tâm nhớ nghĩ đến chuyện đã qua, tiếc nuối chuyện quá khứ chẳng được ích lợi gì cả, chính là nghĩa đó vậy. Có lần, Đức Phật và các môn đệ an cư kiết hạ trong một làng nọ. Những người có trách nhiệm lo chuyện lương thực hoàn toàn lãng quên bổn phận. Suốt trọn thời gian ba tháng hạ, Đức Phật và chư tăng vẫn bình thản dùng những thức ăn do một người lái ngựa mang đến dâng, không một lời than van hay phiền trách. Trong mọi hoàn cảnh, dù trái ngang như vậy, Đức Phật luôn luôn sống trong chánh định, tâm trí luôn luôn bình tĩnh, thản nhiên trước bát phong của cuộc đời.

Một câu chuyện khác: Vào thời Đức Phật, có một nữ thí chủ thường đến chùa chăm lo các nhu cầu cần thiết, tứ sự cúng dường. Một hôm, bà mặc một cái áo choàng rất quí giá đến chùa. Lúc ra về, người tỳ nữ vô ý, bỏ quên cái áo đó lại. Về đến nhà, bà bảo người tỳ nữ quay trở lại tìm. Sau đó, bà quyết định bán cái áo này để làm việc phước thiện. Vì cái áo choàng rất đắt giá, không ai có đủ tiền mua, nên chính bà mua lại và dùng số tiền ấy xây dựng một ngôi tịnh xá đẹp đẽ, dâng đến chư tăng. Sau khi làm lễ dâng cúng xong, bà ngỏ lời tri ân người tỳ nữ như sau: " Nếu con không lỡ bỏ quên cái áo choàng, chắc ta không có cơ hội tạo nên phước báu nầy. Như vậy ta xin chia phước nầy cho con". Thay vì buồn rầu hay phiền giận vì mất một vật quí giá, và la rầy người tỳ nữ vô ý, bà cám ơn người ấy đã giúp cho bà có cơ hội tạo phước. Thái độ đáng kính của người thiếu phụ này quả là một bài học xứng đáng cho những ai dễ nóng giận vì lỗi lầm của người giúp việc dưới quyền. Chúng ta phải dũng cảm chấp nhận, chịu đựng đương đầu với những lỗ lã, thua thiệt, phải điềm tĩnh đối phó, với tâm xả hoàn toàn. Chúng ta nên nghĩ rằng: đây chính là cơ hội ngàn vàng để thực hành đức tánh cao thượng nầy. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:"Thắng lợi sinh thù oán. Thất bại chịu khổ đau. Không quan tâm thắng bại. Sống an lạc hạnh phúc".

Hơn nữa, điều quan trọng trong đạo Phật chính là "giáo lý vô ngã", dạy rằng không có cái gì thực là "Ta", cho nên không có cái gì thực là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi, suy tư cho thấu đáo, để khi gặp chuyện thịnh suy, được thua, lợi hại, thắng bại, nên hư, trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình thản.

2) Hủy và Dự:

Nghĩa là hủy báng, khinh chê và danh dự, tiếng tốt, cũng còn gọi là danh thơm và tiếng xấu. Hủy và dự là hai ngọn gió, là một cặp thăng trầm khác mà người đời phải thường xuyên đối phó hằng ngày. Thói thường người đời hoan hỷ, vui vẻ đón mừng tiếng tốt, danh thơm. Còn tiếng xấu, phỉ báng, khinh chê, tức nhiên con người không thích. Danh thơm làm cho con người phấn khởi, khích lệ tinh thần. Tiếng xấu làm cho con người bực bội, bất an.

Thực ra, con người không cần phải chạy theo danh thơm, tiếng tốt. Nếu xứng đáng, con người sẽ có danh thơm tiếng tốt, không cần phải tìm. Sách có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương". Nghĩa là một loài hoa có mùi thơm, có hương sắc, thì tự nhiên mọi người đều biết. Một người thực tốt, khỏi cần khoe tốt, ai ai cũng cảm nhận được. Mọi người thường cảm thấy an lạc, bình yên khi sống bên cạnh một vị thánh hiền. Một vị chân tu thực học, đức hạnh cao cả, thường được ví như một cây to có bóng mát che rợp, cho mọi người có nơi nương tựa, tránh ánh nắng như thiêu đốt, tượng trưng cho những phiền não và khổ đau của thế gian. Còn như "chuột xạ tự nhiên hôi", không nghi, khỏi bàn.

Có người khi làm việc thiện nhưng thường có ẩn ý vụ lợi nào đó. Chẳng hạn như có người cúng chùa hằng bao nhiêu tiền, bao nhiêu lượng vàng để cầu phước, nhưng đếm từng chén cơm người giúp việc ăn mỗi ngày. Có người vô chùa nấu cơm, nấu nước, rửa chén, quét sân, tưới cây, nhổ cỏ, làm đủ mọi chuyện, vì nghĩ làm việc chùa có phước, còn ở nhà chẳng động móng tay, chỉ sai người khác làm! Bất cứ người nào đã làm được một việc thiện, cũng đều đáng được tán dương, có còn hơn không! Chúng ta tức nhiên cảm nhận vui sướng, hạnh phúc vô cùng, khi thanh danh bay xa, lan rộng. Tuy nhiên, chúng ta phải nhận định rằng danh thơm, tiếng tốt, danh vọng, vinh quang, chỉ đi theo con người đến nấm mồ là cùng. Rồi nó cũng tan biến thành mây, ra khói. Tất cả cũng chỉ là những ngôn từ lời nói, dù là kim ngôn, là ngân từ, là mỹ ngữ, có thể làm êm dịu đôi tai con người trong một thời gian ngắn mà thôi.

Còn tiếng xấu thì sao? Dĩ nhiên, con người không thích nghe, không thích bàn, không thích nghĩ đến. Khi những lời nói xấu lọt vào tai chúng ta sẽ làm cho tâm trí bàng hoàng, khó chịu. Nỗi đau khổ trong tâm trí càng sâu đậm hơn nữa, nếu những lời tường thuật hay báo cáo ấy tỏ ra bất công hay hoàn toàn sai lạc. Thường phải mất một thời gian khá lâu để kiến tạo, xây dựng một công trình vật chất hay tinh thần nào đó. Nhưng, chỉ trong nháy mắt con người có thể tàn phá mọi thứ một cách dễ dàng. Lắm khi con người phải mất nhiều năm hay trọn cả một kiếp sống để gầy dựng thanh danh. Bao nhiêu công lao khó nhọc ấy có thể tàn rụi trong khoảnh khắc. Người đời trên thế gian thường có thói quen "vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết", luôn luôn muốn chỉ bày khuyết điểm và lỗi lầm của người khác. Bao nhiêu tánh tốt của người khác thì giấu nhẹm, hoặc lờ đi, không bao giờ muốn nhắc tới.

Mười điều tâm niệm, trong Luận Bảo Vương Tam Muội, có dạy: "Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh". Tại sao vậy? Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Còn thấy có "mình" bị oan ức, tức là chưa thông suốt "giáo lý vô ngã". Còn thấy "có người hại mình" là còn đau khổ, không làm nên chuyện gì cả. Muốn cuộc sống bớt những oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ đã hại mình, kẻ mình không ưa cũng vậy. Tại sao vậy? Bởi vì nếu mình ra tay trả thù, trả đủa, tìm cách hại những kẻ đó, thì mình với họ có khác gì nhau đâu?

Mỗi khi bị hiểu lầm hoặc bị người ta truyền rao một cách bất công, dù vô tình hay cố ý, chúng ta nên bình thản, sáng suốt suy nghĩ: May quá, họ không quen mình nhiều, chỉ biết sơ sài, cho nên chỉ nói xấu có bấy nhiêu thôi. Nếu họ biết nhiều hơn, chắc mình còn bị chỉ trích nhiều hơn nữa. Khi bị phê bình là mất uy tín quá, chúng ta có thể quán chiếu rằng: mình thực không có uy tín để mà mất! Tốt hơn hết, chúng ta không cần trả lời những câu nói vô nghĩa, chỉ có tính cách chọc tức người khác mà thôi. Trong Pháp Tứ Y, Đức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta không nên bận tâm với những lời nói, những câu văn không có ý nghĩa gì cả. Thí dụ như có người nói chúng ta ngu như con bò, nếu chúng ta nổi giận, thì quả là chúng ta ngu thực rồi, còn gì nói nữa. Những câu nói vô nghĩa tương tự khó có thể làm động tâm những người cố gắng tìm hiểu đạo lý.

Chúng ta không cần phung phí thì giờ vô ích để đính chính những lời đồn đãi sai lạc, nếu hoàn cảnh không bắt buộc phải làm sáng tỏ vấn đề. Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm thỏa thích khi thấy chúng ta bực bội vì lời nói của họ. Đó chính là điều mà họ mong muốn. Nếu chúng ta bình tĩnh, thản nhiên, như không có chuyện gì xảy ra, thì những lời vu oan đó sẽ tan biến vào quên lãng. Chúng ta chỉ nên dành thì giờ tập trung lo chuyện tu tâm dưỡng tánh cho đến khi được giác ngộ và giải thoát mà thôi. Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: "Không nên quan tâm chuyện thế gian. Không nên loan truyền các tin đồn". Tây phương dịch như sau: "You should not concern yourselves with worldly affairs, nor yet circulate rumours". Tại sao vậy? Bởi vì các chuyện thế gian thường là những chuyện nhơn ngã, thị phi, phải quấy, đúng sai, tranh chấp hơn thua, còn các loại tin đồn thường là vô căn cứ, không xác thực, khó kiểm chứng được, chỉ làm hại thanh danh người khác, tất cả đều làm cho tâm trí chính mình bất an, giao động mà thôi, chẳng ích lợi gì.

Mười điều tâm niệm, trong Luận Bảo Vương Tam Muội, có dạy: "Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo". Ma chướng ở đây có nghĩa là những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu chúng ta có thể coi những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước đường tu tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu tri thức, là bồ tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của chúng ta vậy. Thông suốt được như vậy, chí nguyện của chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển, khi gặp lời khen hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, và tâm trí của chúng ta mới không bị giao động.

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Không nên nhìn lỗi người. Không nên quan tâm người có làm hay không làm. Nên tự nhìn thân mình, có làm hay không làm". Đối với lỗi lầm của người khác, chúng ta phải làm như người mù, không thấy gì cả, không biết gì cả, để khỏi bực mình, để khỏi bận tâm. Đối với lời chỉ trích người khác, chúng ta phải làm như người điếc, không nghe, không tin, không rao truyền. Đối với chuyện nói xấu người khác, chúng ta phải làm như người câm, không tham dự, không bàn cãi, không thêm bớt. Không ai có thể ngăn cản những lời buộc tội, những lời tường thuật hay đồn đãi sai lầm do những người cố ý hay ác ý. Thế gian này đầy chông gai và đá nhọn. Nhưng nếu bắt buộc phải đi trên đó, không thể nào tránh né, hơn nữa chúng ta không thể dời gai và dẹp đá được, thì tốt hơn hết, chúng ta nên mang một đôi giày thực chắc và thận trọng đi từng bước. Như vậy chúng ta sẽ được an toàn. Đôi giày thực chắc đó được kết bằng những lời dạy của Đức Phật cùng chư vị tổ sư truyền lại. Chúng ta nên biết rằng: "Nếu chấp nhận trở ngại thì sẽ được thông suốt. Nếu mong cầu thông suốt thì sẽ thấy trở ngại".

Giáo pháp của nhà Phật dạy chúng ta: "Hãy như sư tử, không run sợ trước tiếng động. Hãy như luồng gió, không dính mắc trong màn lưới. Hãy như hoa sen, từ bùn nhơ nước đục mọc lên, nhưng không bị nước đục và bùn nhơ làm ô nhiễm. Hãy như hải đảo sừng sững trước mọi phong ba bão táp. Hãy vững bước một mình như con tê giác". Là chúa sơn lâm, sư tử không sợ hãi run rẩy, hay giựt mình khi nghe tiếng kêu của các loài thú khác. Trong kinh sách thường ví lời thuyết pháp của Đức Phật, có công năng dẹp tan mọi si mê lầm lạc vô minh của chúng sanh, làm khiếp sợ ma quân, như tiếng rống của chúa sơn lâm trong cõi rừng sâu giữa muôn thú. Trên thế gian nầy, mọi người có thể nghe thuật lại những chuyện trái tai bất lợi, những lời buộc tội giả dối, những tiếng vu oan phỉ báng, từ miệng lằn lưỡi mối, thực ra không đáng bận tâm, không cần để ý đến. Sách có câu: Mặc cho chó sủa, đoàn lữ hành cứ tiến bước.

Nhiều đóa sen đã từ bùn nhơ nước đục vượt lên, tô điểm cuộc đời, mà không bị nước đục và bùn nhơ làm hoen ố. Chúng ta đang sống trong cảnh bùn dơ nước đục, hãy như hoa sen, cố gắng sống một đời trong sạch và cao quí, không màng để ý đến bùn dơ mà người khác có thể ném vào chúng ta. Chúng ta không mong đợi nhưng hãy sẵn sàng đón nhận bùn dơ mà người khác có thể ném vào mình, thay vì mong đợi những đóa hoa hồng mà người ta có thể đem tặng. Như vậy chúng ta sẽ không ngỡ ngàng, không thất vọng, bởi vì chúng ta không muốn tranh chấp hơn thua. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành". Chẳng những vậy, chúng ta còn sẵn sàng đi đó đi đây, tận lực phục vụ, tạo an lành cho kẻ khác, và nhứt định không bao giờ làm việc gì lợi mình hại người. Kinh sách có câu: "Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật", chính là nghĩa đó vậy.

Trong lịch sử từ cổ chí kim, từ đông sang tây, các bậc vĩ nhân vẫn thường bị vu oan, giá họa, phỉ báng, đầu độc, xét xử, hoặc bị bắn, bị giết chết. Cuộc đời của các Ngài cũng đầy dẫy những chướng ngại, trắc trở, bất thường. Nhưng các Ngài vẫn bình thản khi được danh dự cũng như lúc bị hủy nhục. Các Ngài không bận tâm chạy theo thanh danh, nên tinh thần không suy sụp khi bị chỉ trích hay vu oan. Người ta có hiểu có biết được việc làm của mình hay không, các Ngài không màng để ý. Các Ngài làm việc, phục vụ, nhưng trong lòng không màng đến việc thọ hưởng, không mong cầu được đền đáp dưới bất cứ hình thức nào, dù vật chất hay tinh thần cũng vậy, kể cả việc lưu truyền danh thơm tiếng tốt cho hậu thế mai sau!

Các bậc đại nhân được tất cả mọi người hết lòng khen tặng, nhưng vẫn luôn luôn thản nhiên, không hề chao động. Thời bấy giờ người đời thường tán dương mười danh hiệu của Đức Phật, mà cho đến nay hàng tín đồ Phật giáo vẫn còn đọc lên trong kinh nhựt tụng, đó là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Mỗi lần nhắc đến các phẩm hạnh cao quí ấy, chúng ta nhìn lên tôn tượng đức Phật, trầm ngâm tự tại, với tất cả tấm lòng tôn kính, chiêm ngưỡng, quyết tâm quyết chí noi theo. Mười danh hiệu ấy thường là đề mục hành thiền cho những người có tâm nhiệt thành và còn là nguồn gợi cảm lớn lao cho những ai tự coi mình là Phật Tử.

Hơn nữa, điều quan trọng trong đạo Phật chính là "giáo lý vô ngã", dạy rằng không có cái gì thực là "Ta", cho nên không có cái gì thực là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi, suy tư cho thấu đáo, để khi gặp chuyện hủy báng hay danh dự trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình thản.

3) Xưng và Cơ:

Nghĩa là xưng tán, ca tụng và cơ bài, khiển trách. Xưng và cơ còn gọi là tiếng khen và tiếng chê ngay trước mặt, một cách trực tiếp, là hai ngọn gió trên thế gian, là một cặp thăng trầm khác mà người đời phải thường xuyên đối phó.

Lẽ dĩ nhiên, con người ai ai cũng nở mặt nở mày, hân hoan, thỏa thích khi được ca tụng, tán dương, khen ngợi. Còn lúc bị khiển trách, chê bai, chỉ trích, tinh thần người đời thường hay suy sụp, ủ dột, buồn rầu. Những người học hiểu giáo lý đạo Phật đều nên biết rằng: Giữa những lời ca tụng hay khiển trách, người thiện trí không thỏa thích cười vui, cũng không ủ dột chau mày. Hãy tựa hồ như tảng đá vững chắc, không lay chuyển dưới các cơn bão táp phong ba của cuộc đời. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Kẻ trí như hòn đảo. Sóng nước khó ngập tràn" chính là nghĩa đó vậy.

Nếu chúng ta xứng đáng, những lời tán tụng quả thực là êm tai mát dạ. Nhưng nếu chúng ta không xứng đáng, như trường hợp có người nịnh bợ, thì những lời tâng bốc ấy rất có hại và sẽ làm cho chúng ta thất vọng mà thôi. Dù sao, đó cũng chỉ là những tiếng động, những âm thanh, không đem lại hậu quả nào, nếu chúng ta đừng để lọt vào tai. Chúng ta đừng nhận những lời tán tụng hay chỉ trích thì tâm trí giữ được sự bình thản. Đứng về phương diện thế gian, lời tán tụng có thể đi rất xa. Một tiếng khen tặng nhẹ nhàng, đúng lúc, có thể giúp ta dễ dàng thu đạt được điều mong muốn. Một câu giới thiệu xứng đáng, có thể làm cho toàn thể cử tọa chăm chú lắng nghe diễn giả. Nếu diễn giả có lời khen tặng cử tọa, ắt sẽ được chú ý lắng nghe. Trái lại, nếu diễn giả bắt đầu bằng những lời khiển trách hay chỉ trích, thái độ đáp ứng của thính giả ắt sẽ không thuận lợi. Chúng ta biết tu tâm dưỡng tánh, cho nên không nịnh bợ ai, cũng không tin theo những lời nịnh bợ, và không muốn được nịnh bợ. Khi thấy ai xứng đáng, chúng ta thành thật khen tặng, không ẩn ý ganh tỵ, không ngụ ý mĩa mai, không hề châm biếm, hay biếm nhẽ. Khi phải khiển trách, chúng ta khiển trách vì lòng bi mẫn, không khinh khi, không miệt thị, chẳng nặng lời, chẳng hằn học, trong thâm tâm chỉ muốn cải thiện người lầm đường lạc nẻo mà thôi.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Nhược vị nhân khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp, ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhân khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tức vi tiêu diệt". Nghĩa là nếu bị người đời khinh chê thì chúng ta biết là mình đã gieo tội nghiệp đời trước, lẽ ra phải bị đọa trong ba đường ác là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Do đời này bị người khinh chê, nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt. Nghiền ngẫm "lý nhân quả", hiểu thấu suốt lời Đức Phật dạy trên đây, chúng ta mới có thể bình tĩnh thản nhiên trước những lời khinh chê, phỉ báng, miệt thị của người đời, để khỏi gây thêm oán thù chồng chất triền miên không bao giờ dứt. Bằng không, con người sẽ cảm thấy tức quá, tức quá, không thể nhịn được, bởi vì nhịn là nhục, hể cự thì đục, nhịn đàng chân chúng sẽ lân đàng đầu, được nước chúng sẽ làm tới, chúng sẽ cho là mình ngu, mình dại, mình khờ! Ôi thôi, cứ suy nghĩ như vậy hoài, cho nên kiếp con người mãi mãi trầm luân, mãi mãi khổ đau và phiền não, thì đừng than khổ quá, khổ quá! Cầu khẩn, van xin, than thở nào có được gì đâu? Mình nhịn được thì yên, bằng không, "sinh sự thì sự sinh", đơn giản thế thôi! Hơn nữa nếu như gặp tai nạn lớn lao, thậm chí chết người, thì chúng ta biết mình đã gieo tội nghiệp nặng nề đời trước, cho nên phải lập tức ăn năn sám hối, chấp nhận trả quả, chấm dứt tạo nghiệp, làm lành tạo phước, quày đầu hướng thiện, cứu người giúp đời, tu tâm dưỡng tánh, không làm hại ai, dù là kẻ xấu, huống là người tốt, mà mình không biết.

Không ai trăm phần trăm tốt. Không ai trăm phần trăm xấu. Trong con người tốt nhứt, cũng có phần không hoàn hảo. Trong con người xấu xa nhứt, cũng có điểm tốt đẹp. Thí dụ như kẻ cướp của người khác, cũng vẫn là người tốt đối với vợ con, cha mẹ của họ. Người biết bố thí cúng dường, tụng kinh niệm Phật, giúp đỡ kẻ khó, thương người khốn khổ, nhưng cũng có thể vẫn còn tức giận nổi sân, khi thấy người khác không làm như mình hoặc khi thấy người khác làm chuyện sai trái, lỗi lầm. Tuy nhiên, con người có thể tránh làm, tránh nói, tránh nghĩ các điều ác, làm nói nghĩ các điều thiện, nhưng nếu chấp vào đó, thì tâm ý vẫn chưa thanh tịnh được.

Bởi vậy cho nên, trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo". Nghĩa là: "Không làm các điều ác. Vâng làm các hạnh lành. Giữ tâm ý trong sạch. Chính lời chư Phật dạy". Ngoài hai việc tránh làm các điều bất thiện và chỉ làm những điều thiện, con người cần phải giữ gìn tâm ý cho được thanh tịnh, mới đúng theo lời dạy của chư Phật. Người nào có thể lặng thinh, ngậm câm, thản nhiên ngoài mặt, thanh tịnh trong lòng, khi bị người khác tấn công, thưa kiện ra tòa, nguyền rủa chửi mắng, thì người ấy đã đứng trước niết bàn, mặc dù chưa đắc quả niết bàn. Tại sao vậy? Bởi vì người đó đã không động tâm, dù bát phong thổi tới, không khởi niệm nào cả, tức đạt được "pháp vô sanh", chính là quả niết bàn đó vậy. Chúng ta phục vụ nhân loại với tấm lòng cao cả nhứt, nhưng người thế gian thường hiểu lầm và gán cho những mục tiêu, những ý tưởng mà không bao giờ chúng ta nghĩ đến. Chúng ta có thể tận lực giúp đỡ một người trong cơn nguy ngập. Nhưng về sau, chính người đó trở mặt, phủ nhận lòng tốt, nặng lời phiền trách, nói xấu bôi bẩn, và thích thú khi thấy chúng ta suy sụp.

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ân báo oán, oán nghiệp tiêu tan. Sân hận không bao giờ dập tắt sân hận. Chỉ có tâm từ bi mới diệt được lòng sân hận". Nghĩa là không nên trả thù, không nên báo oán. Hận thù không thể tiêu diệt được thù hận. Tâm niệm báo oán, trả thù, không bao giờ đưa đến hòa bình, an lạc. Sức mạnh chắc chắn phải đương đầu với sức mạnh. Bom đạn sẽ gặp bom đạn. Chiến tranh gây thêm chiến tranh. Bạo động tiếp nối bạo động. Cứ như thế đau khổ tiếp nối khổ đau, triền miên không biết bao giờ mới kết thúc. Thí dụ như vì nguyên do nào đó, có người đem lòng oán ghét, thậm chí còn đặt điều vu cáo, cố tình hãm hại chúng ta. Nhưng đến khi người đó gặp chuyện không may, chúng ta hết lòng giúp đỡ, với tâm từ bi của một con người đối với một con người, chắc chắn tâm sân hận của người đó đối với chúng ta không còn nữa.

Hơn nữa, điều quan trọng trong đạo Phật chính là "giáo lý vô ngã", dạy rằng không có cái gì thực là "Ta", cho nên không có cái gì thực là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi, suy tư cho thấu đáo, để khi gặp chuyện xưng tán hay chỉ trích trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình thản.

4) Khổ và Lạc:

Nghĩa là phiền não, khổ đau và an lạc, hạnh phúc. Khổ và lạc là hai ngọn gió trên thế gian, là một cặp thăng trầm khác mà người đời phải thường xuyên đối phó, cũng là những yếu tố có nhiều năng lực nhứt, ảnh hưởng nhiều nhứt đến đời sống của nhân loại.

Đối với người thế gian, hạnh phúc ở đời là hưởng thụ những lạc thú của ngũ dục, gồm có: tài, sắc, danh, thực, thùy. Tức là họ thường suy nghĩ cuộc đời rất ngắn ngủi, hãy hưởng thụ tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, để khi chết đi, khỏi hối tiếc! Nhưng các thứ hạnh phúc ấy quả thực là ngắn ngủi, tạm bợ và hão huyền. Phải chi con người thế gian suy nghĩ cuộc đời rất ngắn ngủi, đừng nổi cơn sân hận, đừng cố ý hãm hại người khác, đừng tranh chấp hơn thua, đừng chất chứa oán thù, hãy chóng lo tu tâm dưỡng tánh, để tìm hiểu cho bằng được thế nào là "con người chân thật" của chính mình, ngõ hầu thoát ly sanh tử luân hồi thì tốt biết bao nhiêu!

Tài sản, của cải vật chất có thể đem lại hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu hay không? Nếu có, các nhà triệu phú chắc hẳn không bao giờ nghĩ đến chuyện quyên sinh. Trong các quốc gia văn minh tiến bộ về vật chất đến mức tuyệt đỉnh, số người mắc các chứng bịnh thần kinh không phải là ít. Tại sao vậy? Bởi vì tài sản, danh vọng, bằng cấp và sự nghiệp không thể đem lại hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu cho con người. Quyền lực cai trị có thể đem lại hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu không? Đời sống các vị đế vương, các nhà lãnh đạo chính trị, các bậc trưởng giả có luôn luôn được hạnh phúc không? Nhiều người nghĩ là có, cho nên trên đời biết bao nhiêu kẻ liều mạng vì những thứ đó, nhưng họ chỉ được sung sướng, thỏa mãn về quyền lực, về danh vọng, về của cải, về nhu cầu, tiện nghi vật chất, chứ chắc chắn họ không thể có hạnh phúc chơn thực và vĩnh cửu vậy!

Chơn hạnh phúc nằm bên trong tâm trí chúng ta và không thể định nghĩa bằng những từ ngữ như: của cải, vật chất, nhà cửa, tài sản, kho tàng, quyền thế, danh vọng, sắc đẹp, tài năng, cấp bằng, sức khoẻ, tuổi thọ, sự nghiệp, con cháu. Nếu như những thứ trên trần đời kia được thu thập, chiếm đoạt bằng bạo lực, võ lực hay bằng một phương tiện bất công, thủ đoạn bất chính, hành động bất lương nào khác, hoặc theo một chiều hướng sai lầm, hoặc được nhìn với cặp mắt tríu mến, thèm muốn hay tham lam, bứt không đứt dứt không rời, thì những thứ đó sẽ là nguồn đau khổ và sầu muộn triền miên cho chính những người đang nắm giữ quyền làm chủ.

Trên đời thường cái gì là hạnh phúc đối với người nầy, có thể không phải là hạnh phúc đối với người kia. Đức Phật không bao giờ khuyên tất cả mọi người nên từ khước hạnh phúc trần gian và rút vào sống ẩn dật chốn rừng sâu vắng vẻ. Trái lại, đạo Phật có tám muôn bốn ngàn pháp môn tu hành cho người xuất gia tu sĩ và cho người tại gia cư sĩ áp dụng, để giảm thiểu phiền não và khổ đau trong cuộc đời, cao hơn nữa là giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Cái chỗ khác nhau chính là: "Ngộ Tự Tâm Nhập Tự Tánh", trong kinh điển thường gọi là "Minh Tâm Kiến Tánh", mà thôi.

Không nợ nần là một nguồn hạnh phúc khác. Nếu biết tri túc, biết an phận với những gì đã có, đang có và nếu biết ăn ở cần kiệm, chúng ta sẽ không bị nợ nần. Người mang nợ luôn luôn sống trong tâm trạng hồi hộp, lo lắng, nơm nớp, phập phồng, sợ sệt, xao xuyến. Có người không biết tự lượng sức mình, con cóc mà muốn khoe khoang là con bò, bèn mua nhà cao cửa rộng, đồ sộ nguy nga, tậu xe cộ tối tân hiện đại, sắm đồ đạc sang trọng tiện nghi, tiêu xài hoang phí, cờ bạc tiệc tùng. Cho nên, mất việc làm, gặp tai nạn, lâm trọng bệnh, hảng đóng cửa, không kiếm ra tiền, là nỗi kinh hoàng của những người như vậy. Nếu không nợ nần, dù sống đạm bạc, chúng ta vẫn thấy thoải mái và tinh thần thanh thản thảnh thơi. Nếu chúng ta không có những gì mình thích, thì hãy thích những gì mình có. Nếp sống trong sạch không bận tâm là nguồn hạnh phúc cao thượng nhứt của người cư sĩ. Người trong sạch là một nguồn phước báu cho mình và cho kẻ khác. Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhận rằng rất khó, vô cùng khó để sống cuộc đời trong sạch và bình tĩnh thản nhiên trước dư luận chê bai, chỉ trích, gièm pha.

Chúng ta vui vẻ đón mừng hạnh phúc, nhưng đồng thời phiền não khổ đau cũng đến dưới nhiều hình thức. Chúng ta đau khổ trong cuộc sống, từ khi sinh ra đời, cho đến khi già yếu, lúc bệnh hoạn và sau cùng là bỏ tấm thân tứ đại ra đi, đó là lẽ tự nhiên. Một việc phiền não khác là chúng ta phải gặp gỡ những người đáng ghét, sinh hoạt chung với người mà chúng ta không ưa. Chúng ta phải cố gắng chịu đựng và nghĩ rằng mình đang gặt hái một quả báo nào đó, do chính mình đã tạo, hoặc trong quá khứ, hoặc trong hiện tại. Mình làm mình chịu, chớ có trách lẫn trời gần trời xa! Chúng ta hãy cố gắng tự tạo cho mình một nếp sống thích hợp với hoàn cảnh mới và, bằng cách nầy hay cách khác, chúng ta phải cố gắng vượt qua mọi trở ngại. Chí đến Đức Phật, một người toàn hảo, đã tận diệt mọi ô nhiễm, còn phải chịu đau đớn vì bịnh hoạn hay tai nạn, nhưng Đức Phật vẫn thản nhiên tự tại. Giữa những cảnh đau khổ cũng như hạnh phúc, Đức Phật luôn luôn giữ tâm xả hoàn toàn. Đạt được niết bàn, tức trạng thái thoát ra khỏi mọi đau khổ, mới là hình thức hạnh phúc cao thượng nhứt.

Hơn nữa, điều quan trọng trong đạo Phật chính là "giáo lý vô ngã", dạy rằng không có cái gì thực là "Ta", cho nên không có cái gì thực là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi, suy tư cho thấu đáo, để khi gặp chuyện khổ đau hay hỷ lạc trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình thản.

* * *

Tóm lại, chúng ta nên biết rằng ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo sức gió, mặt biển sẽ gợn sóng nhỏ hay nổi sóng to tương ứng. Cũng vậy, tâm của chúng ta ví như mặt biển, khi có chuyện xảy ra, ví như tám gió thổi đến, thì lập tức nổi sóng ngay. Thí dụ như lúc gặp ngọn gió "hưng thịnh" thổi đến, như trúng số chẳng hạn, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng vui mừng ngay, có người mừng quá đứng tim hết thở! Lúc gặp ngọn gió "suy sụp" thổi đến, thời cuộc làm tán gia bại sản, sự nghiệp điêu tàn, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng buồn rầu ngay, có người tiếc của quá nên tự tử chết! Thí dụ như lúc gặp ngọn gió "hủy báng" thổi đến, bị chê bai, bị bôi lọ, bị nói xấu thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng bực dọc ngay. Lúc gặp ngọn gió "danh dự" thổi đến, được người ta viết sách đề cao, khen tặng, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng vui vẻ ngay. Thí dụ như lúc gặp ngọn gió "xưng tán" thổi đến, được tâng bốc, nêu tên ngợi khen, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng khoái chí ngay. Lúc gặp ngọn gió "cơ bài" thổi đến, bị chỉ trích, bài bác, đích danh phê bình, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng sân hận ngay. Thí dụ như lúc gặp ngọn gió "khổ đau", hoạn nạn thổi đến, chẳng hạn như người thân qua đời, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng tiếc thương ngay. Lúc gặp ngọn gió "hoan lạc" thổi đến, thì tâm trí của chúng ta sẽ nổi sóng hân hoan ngay.

Sách có câu: "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng". Cũng vậy, chúng ta ai ai cũng muốn tâm trí được bình yên, thanh thản, thơi thới, nhưng cảnh đời không ngừng tác động, làm cho tâm trí rối bời, chao đảo, bấn loạn, bất an. Đạo Phật không phải chỉ có hình thức cầu nguyện long trọng, lễ nghi trang nghiêm mà thôi. Mục đích cứu kính của đạo Phật chính là giúp đỡ con người vượt qua những phiền não và khổ đau do cảnh đời gây ra. Trước những cảnh thăng trầm của thế gian, tâm của một vị A-La-Hán không bao giờ chao động. Giữa những cảnh được và thua, danh thơm và tiếng xấu, ca tụng và khiển trách, hạnh phúc và đau khổ, chúng ta hãy giữ tâm bình thản. Đó chính là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.

Như vậy, chúng ta muốn có cuộc sống an lạc và hạnh phúc thì nội tâm không nên "nổi sóng tham, sân, si" mỗi khi "tám gió" thổi đến. Còn nếu có "lỡ" nổi sóng rồi thì hãy giác ngộ ngay, hãy "biết" ngay là nội tâm đang nổi sóng. Khi biết được như vậy, cơn sóng sẽ lặng đi. Hãy mỉm cười thật tươi! Quên hết mọi chuyện! Thế là xong!

Tuy nhiên, cơn sóng lặng nhanh hay chậm là do công phu quán chiếu, tu tập mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi khắc của chúng ta. Cũng như chiếc xe có thắng ăn hay không vậy thôi. Thông thường thì thắng chẳng ăn, mọi người "tới luôn bác tài" cho hả giận, cho đả nư, không thể dừng được, mỗi khi có gió thổi đến. Thí dụ như thấy người oán thù, nghe lời chửi mắng, nhớ chuyện thua thiệt, thì tâm của chúng ta lập tức nổi sân ngay, khó dừng kịp thời đúng lúc. Người nào tìm hiểu đạo lý, có công phu tu tập, có bản lãnh chịu đựng được tám ngọn gió độc này thổi đến, mà "thước-ca-ra tâm" vẫn "như như", vẫn "vô động chuyển", tức là tâm trí sáng suốt của người đó không gợn lên bất cứ một cơn sóng nào, dù to dù nhỏ đến đâu, thì người đó được gọi là "Bát Phong Xuy Bất Động", nghĩa là tám gió thổi không động. Những người như vậy đã thể nhập được, đã sống được với "Con Người Chân Thật" của chính mình.

Thế nào là "con người chân thật"? Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật khai thị, chỉ bày một cách rành rẽ, rõ ràng thế nào là "con người chân thật" của chính chúng ta. Đó không phải là cái xác thân tứ đại giả tạm, nặng mấy chục ký lô này, cũng không phải là cái tâm tư lăng xăng lộn xộn, suy tính so đo của chúng ta. Và Đức Phật cũng chỉ dạy vô lượng pháp môn thực hành, để mọi người có thể ngộ nhập được "con người chân thật", nhằm giúp con người được "giác ngộ và giải thoát", hay ít ra cũng tạo dựng được cuộc sống "an lạc và hạnh phúc" hiện đời. Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Dù sống một trăm năm, không thấy pháp vô sinh, không thấy pháp bất tử, không thấy pháp tối thượng. Chẳng bằng sống một ngày, thấy được pháp vô sinh, thấy được pháp bất tử, hay thấy được pháp tối thượng". Nghĩa là khi chúng ta thấy được "pháp vô sinh, pháp bất tử, pháp tối thượng", thì đó chính là "con người chân thật" của tất cả chúng ta vậy.

Ngày xưa, Đại Đức A-Nan là thị giả của Đức Phật, tỏ ra là người học cao hiểu rộng, nhớ những lời Đức Phật dạy không sót một chữ, nhưng vẫn chưa chứng quả A-La-Hán. Do đó, sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, Đại Đức không được vào dự đại hội kết tập kinh điển. Đại Đức rất lấy làm khổ tâm, bèn đi vào rừng ngồi thiền định dưới cội cây với quyết tâm chứng đạo. Trọn một ngày một đêm cố gắng nghiêm mật tu tập thiền định, Ngài đã đắc đạo và được phép vào dự đại hội kết tập kinh điển.

Một câu chuyện khác tương tự: Có một vị tăng sĩ chân tu thực học, là giáo thọ dạy tăng chúng hơn năm trăm vị trong một tu viện, nhưng vẫn chưa ngộ đạo! Vị tổ sư thấy vậy bèn tạo hoàn cảnh bức bách, ngặt nghèo, khó khăn, khốn khổ, để giúp người đệ tử này tu tiến, đạt đạo, bằng cách ngày nào vị tổ sư cũng tri hô trong phương trượng bị mất cắp, hết món này đến vật kia. Vị giáo thọ hết sức bực mình, suy nghĩ tại sao trong chúng tu hành còn có kẻ xấu, nên quyết tâm tìm cho ra. Đêm nọ, khi nghe vị tổ sư tri hô có kẻ trộm, vị giáo thọ lập tức chạy đến và liền bị tổ sư nắm áo, nói: bắt được rồi! Dù biện bạch cách nào, vị giáo thọ vẫn bị đuổi ra khỏi tu viện và cáo thị cho khắp nơi được biết để không thu nhận. Thực là một nỗi oan khiên ngút ngàn, biết tỏ cùng ai, đau khổ không thể nào tả xiết, ức lòng thấu trận trời xanh, danh dự bao lâu nay phút chốc biến thành mây khói. Đường đường là một vị tăng giáo thọ, đứng đầu trong đại chúng mà bây giờ trở thành một tên trộm, thì còn sống trên đời này làm chi nữa, còn mặt mũi nào nhìn ai đây chứ? Sau bao ngày đau khổ, dằn vặt, bấn loạn tâm cang, ngày ăn không ngon, đêm nằm chẳng yên, vị giáo thọ phải đem hết sự học hiểu đạo lý ra để chống đỡ với bát phong, cơn gió bão kinh khủng khiếp, xoáy tận thâm tâm. Một hôm, vị giáo thọ bổng nhiên thức tỉnh, giác ngộ, tự mình giải thoát khỏi tâm trạng bất an kia, bèn chạy về tu viện, gặp vị tổ sư, mỉm cười bình thản, thưa rằng: Bạch Thầy, con đã ngộ rồi!

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Cũng như trên đất chúng ta có thể vứt bất luận vật gì, dù thơm dù hôi, dù sạch dù dơ, đất vẫn thản nhiên, một mực trơ trơ, không thương cũng không giận. Cũng như thế, trong hạnh phúc, trong phiền não, lúc thăng lúc trầm, hãy luôn luôn giữ tâm bình thản".

Thiền sư Hoàng Bá có dạy:

Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt.
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Nghĩa là:"Nếu không một phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm". Sau khi trải qua cơn lạnh thấu xương của mùa đông, hoa mai mới nở rộ, tỏa mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, con người không trải qua phong sương, không trải qua những cơn thử thách lớn lao, cam go, cay đắng, phủ phàng, khó trở thành tài ba lão luyện, khó trở thành bậc đại nhân được. Sách có câu: "Nhân bất phong sương vị lão tài", chính là nghĩa đó vậy.

Thiền sư Mãn Giác cũng dạy:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Nghĩa là:"Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai". Khi thời gian trôi qua, đã bao mùa xuân đến rồi đi, công phu tu tập đã thuần thục, mọi thứ phiền não và khổ đau đã rơi rụng hết, thì ngay khi đó, "con người chân thật" hiện tiền, ví như một cành mai duy nhứt vẫn còn vậy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2024(Xem: 359)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
19/06/2024(Xem: 961)
Đọc tụng Chú Đại Bi chẳng phải để cầu phước mà nương theo oai lực của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát để tạo an vui lợi lạc cho đời. Do đó, theo học hỏi riêng tư: -Khi đến chùa, với tâm Đại Bi bạn sẽ không thấy ai là Phật tử thông minh, ai là Phật tử ngu độn. Bạn sẽ không thấy ai là Phật tử giàu sang, ai là Phật tử nghèo hèn. Bạn sẽ không thấy ai đẹp mà cũng chẳng thấy ai xấu. Bạn nhớ lời Phật dạy trong Kinh Viên Giác, “Không kính người trì giới, không ghét người phá giới, không trọng người học lâu, không khinh người mới học. Vì sao vậy? Tất cả là tính giác. Ví như con mắt sáng, thấy rõ cảnh trước mắt. Cái sáng ấy tròn khắp, không có yêu, không có ghét.”
04/06/2024(Xem: 1682)
“Kiếp xưa ắt có nhân duyên, Nếu không ai dễ chống thuyền gặp nhau”. HT đã giới thiệu, trên 50 năm tôi rời khỏi Huế từ Tết Mậu Thân đi du hóa, tu học phương xa, luôn vọng về quê hương đất Tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của Tổ tiên ông bà, nơi đã có nhiều kỉ niệm của thuở ấu thơ tu học tại Huế, sinh hoạt tại Huế, trên 50 năm vắng mặt, chỉ có năm này với tuổi đã 87, năm nay Lễ Phật Đản của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tổ chức tại Chùa Phật Ân, cử hành sớm vào ngày 12 vừa rồi
04/06/2024(Xem: 3212)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2888)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3286)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 6407)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2386)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
19/12/2023(Xem: 8490)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com