Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PHỤ LỤC

15/05/201313:32(Xem: 9460)
PHỤ LỤC

 

Kinh lời vàng

Tác giả: Dương tú Hạc

Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm

---o0o---

Phụ lục

26 Điều Duyên khởi

Sau đây dịch giả trích dịch 26 lời phụ lục duyên khởi của "Phật giáo Thánh kinh" do Huỳnh Mạnh Lâm trước tác: Ông là người đã từng trợ biên quyển kinh này với ba Dương Tú Hạc:

Nay tôi có mấy điều ý kiến về phương diện vĩ đại của quyển kinh này, xin liệt kê như sau:

  1. Biên tập lấy những đoạn dễ hiểu, nghĩa lý rõ ràng tinh yếu của ba tạng: Kinh, Luật, Luận

  2. Tuyệt nhiên chẳng thêm bớt một câu nào theo ý kiến riêng của mình

  3. Quyển kinh này là mở đầu cho việc làm mà xưa nay chưa từng có

  4. Có thể khiến cho những ai có ý chí muốn nghiên cứu Phật học, để học Phật, chỉ đọc quyển kinh này có thể rút ngắn khỏi phải mất thời gian 10 năm nghiên cứu

  5. Chẳng có một phần, một chương hay một bài nào mà giáo lý chẳng thích hợp việc nhu cầu thiết yếu cho Đời và Đạo

  6. Các vị Nguyên thủ mà được Kinh này. Thời khiến họ có thể càng phát huy thêm việc trị nước an dân cho đại cuộc quốc gia.

  7. Những bậc phụ tá Công thần mà được Kinh này, thời khiến họ có thể trung can thêm với Tổ quốc, mà phục vụ đắc lực cho quốc gia dân tộc

  8. Là người con mà được Kinh này, thời hiếu đạo chẳng đến nỗi suy vong

  9. Kẻ làm cha mà được Kinh này, thời khiến họ có thể phát huy thêm lòng từ ái

  10. Người làm mẹ mà được Kinh này, thời khiến họ có thể mở rộng thêm lòng thương bao la

  11. Kẻ giàu sang mà được Kinh này, thời khiến họ có thể càng giàu sang thêm

  12. Người nghèo cùng mà được Kinh này, thời khiến họ có thể diệt trừ hột giống nghèo hèn

  13. Kẻ hiền lành mà được Kinh này, thời khiến họ có thể từ chỗ lành mà đi đến chỗ lành

  14. Kẻ ác mà được Kinh này, thời khiến họ có thể chừa lỗi làm lành tức khắc

  15. Kẻ nam nhi mà được Kinh này, thời khiến họ có thể dứt trừ lòng tà dâm, quay về chánh đạo

  16. Kẻ nữ nhi mà được Kinh này, thời khiến họ có thể trọn vẹn nhiệm vụ giúp chồng dạy con

  17. Những người đã tin Phật pháp mà được Kinh này, thời khiến họ có thể phát lòng đại dũng mãnh tinh tiến

  18. Những người chẳng tin Phật pháp mà được Kinh này, thời khiến họ có thể phát sanh lòng Chánh tín tức thì

  19. Người tu hành được Kinh này, thời khiến họ chẳng đến nỗi sai đường lạc lối

  20. Các thầy Kinh sư mà được Kinh này, thời rất có tài biện luận, không bị ngăn ngại

  21. Các thầy Luật sư mà được Kinh này, thời Luật hạnh càng thêm trang nghiêm

  22. Những người tu pháp môn niệm Phật mà được Kinh này thời khiến họ mau vào cảnh giới niệm Phật chánh định

  23. Những kẻ tu thiền định mà được Kinh này, thời khiến họ mau chứng được Bản thể Chơn như Thật tướng

  24. Những kẻ học Mật Tông mà được Kinh này, thời khiến họ được dung hòa Mật giáo và Hiển giáo

  25. Kẻ hoa niên mà được Kinh này, thời khiến họ mau thành gia lập nghiệp

  26. Những người già cả mà được Kinh này, thời càng thêm phước thọ

Tóm lại, tuy nhiên Phật Pháp sâu rộng mênh mông như bể cả, nếu ai thật lòng có thể đối với những lúc đi, đứng, ngồi, nằm mà chăm lòng tinh cứu, rồi nương theo giáo pháp mà tu trì, thời nhất định có thể khiến họ được vui sướng là hiểu rõ chơn nghĩa Phật Pháp dể như thể chẻ tre. Là có những điều này xin thưa rõ:

Phật Pháp chẳng những chẳng mê tín mà là phá trừ mê tín nữa là khác.

Phật Pháp chẳng những chẳng tiêu cực mà chính là tích cực nữa là khác.

Phật Pháp chẳng những chẳng tránh trốn cuộc đời hiện thật, mà chánh xác quên mình cứu người là khác.

Phật Pháp chẳng dạy người bỏ đời mà còn dạy người phát nguyện vào đời độ sanh nữa là khác.

Viết tại Đài Bắc ngày 14 tháng 3 năm Đinh Dậu, Năm Dân Quốc thứ 46 (1957).

Ngửa mong Đức Phật Thế Tôn,

Khắp vì Thế gian ra đời;

Xin ngài rủ lòng thương xót,

Quyết khiến tôi được thấy hình,

Rủ lòng che hộ cho tôi,

Khiến giống Pháp ngày thêm lớn;

Đời này và các đời sau,

Xin Phật thường nhiếp thọ cho.

Kinh Thắng Mang

Cúi xin các Phật thường gia hộ,

Hay dứt tất cả tâm điên đảo.

Nguyện tối sớm ngộ nguồn chơn tánh,

Mau chứng Như Lai Đạo Vô thượng.

Kinh Tâm Địa Quán

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả

Chúng tôi và chúng sanh

Đều trọn nên Phật đạo.

Kinh Pháp Hoa

--- o0o ---

Trình bày :Nhị Tường

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2025(Xem: 153)
Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central. Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.
15/01/2025(Xem: 143)
Trong rất nhiều truyện cổ dân gian Việt Nam, cũng như truyện cổ của nhiều quốc gia khác trên thế giới, có một niềm tin vững chắc rằng mỗi người chúng ta đều có một kiếp sau ở tương lai. Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau. Chuyện kiếp sau này cần được phân tích minh bạch, để không rơi vào một niềm tin nhầm lẫn.
15/01/2025(Xem: 142)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi. Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.
15/01/2025(Xem: 125)
Bài này sẽ nói về vai trò của người cư sĩ với nhiệm vụ nên học nhiều về Kinh điển, nên hiểu Phật pháp cho thâm sâu, nên tu tinh tấn để làm gương cho người đời thường, và nên sống đơn giản nhằm thích nghi với mọi hoàn cảnh cần để hoằng pháp. Không phải ai cũng có cơ duyên để học nhiều về Kinh điển. May mắn, thời nay chúng ta đã có kinh điển dịch ra tiếng Việt rất nhiều. Các Kinh điển, Bộ Nikaya và Bộ A Hàm đều đã dịch ra tiếng Việt. Trong khi đó, các buổi giảng Kinh do nhiều vị tăng ni thực hiện đã phổ biến nhiều trên YouTube và các trang web về Phật học. Những gì thắc mắc, có thể hỏi trên mạng Google hay các mạng trí tuệ nhân tạo, như ChatGPT hay Gemini, đều có thể được giải thích ở mức độ tổng quát. Tuy nhiên các giải thích này đều khả vấn, có khi là trích dẫn theo sự giải thích của các học giả Ky Tô Giáo hay không phải Phật tử, cần kiểm chứng.
15/01/2025(Xem: 119)
Trong khi học Phật, chúng ta thường đọc thấy ba pháp ấn là vô thường, khổ, và vô ngã. Đôi khi, chúng ta đọc thấy trong kinh nói về bốn pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết Bàn. Tùy theo dị biệt bộ phái, mỗi vị thầy ưa nói cách này hay cách kia. Thực tế, nói cách nào cũng đúng, cũng phù hợp kinh điển. Trong khi đó, theo cách nhìn của Thiền tông Việt Nam, tất cả các pháp tự thân đã là tịch diệt, bời vì lìa phiền não thì không có bồ đề, lìa sanh tử thì không có Niết bàn. Cũng như sóng không lìa nước, và ảnh không lìa gương. Do vậy, Thiền tông nêu lên ý chỉ là phải nhìn thấy để sống với pháp tánh, với Niết bàn tự tâm.
15/01/2025(Xem: 141)
Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
15/01/2025(Xem: 140)
Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
15/01/2025(Xem: 124)
Khi đọc Thiền sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta thường gặp một số vị sư truyền dạy, hay trả lời bằng những cách không dùng lời nói. Người ta thường gọi đó là vô ngôn, là không sử dụng ngôn ngữ. Chữ này có lẽ không thích nghi, vì chữ vô ngôn có khi chỉ là sự im lặng, khi không muốn nói. Có lẽ, chữ thích hợp nên là cái biết xa lìa khái niệm không thể mô tả bằng ngôn ngữ được.
19/10/2024(Xem: 839)
Tứ y pháp (四依法; S: Catuḥpratisaraṇa; E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]