Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nên việt hóa Kinh tụng hàng ngày

07/06/201416:26(Xem: 6752)
Nên việt hóa Kinh tụng hàng ngày

20140607_115824

Thời xưa, khi mới bắt đầu tu tập, tôi rất muốn tụng kinh và đi hỏi xem nên tụng cuốn nào. Được khuyên bảo và tôi mua cuốn “Chư kinh nhật tụng”. Thầy chùa bảo, cứ tụng đi, tụng hàng ngày.

Tôi về nhà, thắp hương, lễ Phật và bắt đầu tụng. Đối với tôi, một cậu thanh niên tuổi còn trẻ, mới học Phật, việc đọc tụng kinh này vô cùng khó. Tuy nhiên nghe lời nhà sư, tôi quyết tâm tụng cho hết quyển kinh. Quyết mỗi ngày quyết đọc tụng 10 trang. Khó, chán đến đâu cũng quyết tụng. Vậy mà có ngày chỉ tụng nổi 3 trang. Quả thật kinh Phật bằng chữ hán rất khó tụng, lại hầu như không hiểu gì cả nên dù là người có quyết tâm cao nhưng vẫn không hoàn thành kế hoạch.

Tôi vào vài chùa khác ở Hà Nội hỏi xin thỉnh hay mua kinh về tụng. Vẫn được giới thiệu cuốn kinh duy nhất này. Để rồi tôi có trong nhà đến mấy cuốn.

Cuối cùng thì tôi cũng tụng xong toàn bộ cuốn kinh một lượt. Nói thật lòng là tụng xong thấy hơi nặng nề. Một phần vì không hiểu được bao nhiêu sau khi tụng, phần khác bởi các kinh trong này có vẻ không hợp lắm với mình. Nào là kinh A Di Đà để cầu vãng sinh tịnh độ sau khi chết, nào là Diệu pháp liên hoa phẩm phổ môn, rồi đại bi sám pháp, sau đó là kinh Dược sư cho người ốm đau bệnh tật, và cuối cùng là kinh Địa tạng cho người hấp hối và đã chết và kinh Kim cương. Các thầy dặn kỹ giá trị mỗi kinh để tôi tụng, dù rằng không hiểu. Tôi xin cam kết rằng, phần lớn người trẻ đọc tụng toàn bộ “Chư kinh nhật tụng” bằng chữ hán này đều rất khó khăn và dễ nản.

Tuy nhiên tôi được các nhà sư Hà Nội nói về công đức tụng kinh, niệm Phật, trì chú, lễ Phật nên tôi vẫn quyết chăm chỉ tụng hết cuốn “Chư kinh nhật tụng” lần thứ 2. Để rồi vẫn không hiểu mấy về kinh Phật, và rằng thấy sao kinh Phật phứ tạp thế.

Tôi cũng mạn phép xin được tha tội khi nghĩ rằng Phật giáo Việt Nam bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Rằng tại sao mình không có kinh tụng hàng ngày bằng chữ Việt, tiếng Việt. Tôi không hiểu nguyên nhân ở đâu. Hay bởi các sư và các quý thầy học tiến Hán, giỏi tiếng tàu nên nghĩ ai cũng phải tụng bằng tiếng Hán. Có lúc tôi còn nghĩ chắc các tổ ngày xưa là người Trung Quốc nên phải tụng bằng tiếng hán để các tổ hiểu và phù hộ độ trì?

Sau này tôi tìm kinh do hòa thượng Thích Minh Châu dịch. Tuy nhiên để kiếm được trọn vẹn một bộ kinh đầy đủ là vô cùng khó. Tôi nhận ra rằng, gốc căn bản của người học Phật phải là bộ kinh Nykaya. Phải đọc tụng bộ Nykaya để có căn bản, để tu có gốc. Bởi mình là người tri thức phải hiểu rõ lời Phật dạy để thực hành chứ đâu có phải tụng đọc kinh như đọc chú.

Thế rồi may mắn tôi có trong tay bản “Nhật tụng thiền môn” của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là bản kinh mà chúng ta có thể tụng mỗi ngày. Trong cuốn này, thiền sư hướng dẫn rất rõ cách tụng, thậm chí lại có đầy đủ các bài dâng dương cúng Phật, rồi xưng tán công đức Phật. Tôi thích nhất là 100% các kinh được Việt Hóa và mỗi thời đều có một đến 2 kinh để tụng, ngày 2 thời sáng và tối. Thời lượng tụng kinh cũng chỉ quãng hơn nửa tiếng. Nếu thêm ngồi thiền thì nếu dành ra một tiếng cho buổi sáng và một tiếng cho buổi tối thì rất tuyệt vời.

Điểm tôi muốn nhấn mạnh nữa trong cuốn “Nhật tụng thiền môn” là các bài kinh được thiền sư Thích Nhất Hạnh chọn khá kỹ và rất hợp với tuổi trẻ, nhất là giới tri thức như chúng tôi. Như chúng ta đã biết, kinh Phật nói ra rất nhiều. Đó là những gì Ngài giảng trong suốt 45 năm nên làm sao mà đọc tụng hết được. Tôi hiểu rằng đức Phật tùy căn cơ của từng người hay nhóm người nghe mà có bài thuyết riêng. Giống như bác sỹ, khám mỗi người hay nhóm bệnh nhân khác nhau thì cho các loại thuốc khác nhau. Chúng ta sơ cơ biết đọc kinh nào, biết tụng kinh gì, biết chọn kinh gì mà ứng dụng.

Viết đến đây tôi lại nhớ đến câu chuyện của một trong 10 đại đệ tử của đức Phật đã chọn 2 bài kinh hình như là quán xác chết và quán niệm hơi thở cho 2 vị Phật tử là người coi nghĩa trang và người thợ mộc. Sau một thời gian dài tu tập đều không có kết quả, ngài Xá Lợi Phất mới bạch Phật. Phật nói nên đổi 2 bài kinh đó của 2 người cho nhau. Quả nhiên, ngay sau đó có kết quả liền.

Cuốn “Nhật tụng thiền môn” rất có ý nghĩa, rất dễ hiểu, dễ ứng dụng mang tính thực tiễn rất cao và dành cho mọi đối tượng. Tuy nhiên, tôi nhấn mạnh rằng, kinh này hợp nhất cho người trẻ, doanh nhân, trí thức và những người bận rộn. Tuy nhiên trong cuốn này thiền sư Thích Nhất Hạnh lại thay từ Phật bằng từ Bụt, đôi khi sẽ làm cho những ai quen dùng từ Phật thấy vương vướng, hơi trái thói quen lâu đời.

Tôi cũng được một em học trò tặng cho cuốn “Kinh Phật cho người tại gia” của Thượng tọa Thích Nhật Từ. Theo tôi được biết đây là người thứ 2 đã Việt hóa kinh tụng hàng ngày để thuận tiện cho người Việt. Tôi nhắc lại là để tụng hành ngày chứ không phải để đọc và nghiên cứu, bởi Hòa thượng Thích Minh Châu (người thầy lớn và vô cùng đáng kính mà tôi hay tự gọi là đường tăng của Việt Nam) đã cất công dịch rất tuyệt vời từ tiếng Pali ra tiếng Việt rồi. Tôi đọc cuốn của thầy Nhật Từ cũng thấy rất thích. Tuy nhiên cuốn này dày quá (tận 900 trang) nên hơi ngại cho mang đi xa và việc chọn kinh tụng cho mỗi ngày.

Tôi cũng là người đi nhiều, trong đó có vài chuyến đi Trung Quốc theo các chương trình Phật Pháp. Không hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng chùa Việt Nam copy từ chùa Trung quốc. Phần lớn các nét chính của chùa Việt Nam vẫn giống chùa Trung Quốc và nếu là người nước ngoài (thậm chí cả người Việt Nam ta mà không nghiên cứu kỹ) vẫn khó phân biệt chùa ta với chùa tàu. Tôi lại bạo gan và mạo muội trong si mê nghĩ rằng Phật giáo Việt Nam giống Phật giáo Trung Quốc quá! Rồi tự nghĩ , nên chăng chúng ta cần xây chùa mới, từ nay trở đi, hoàn toàn Việt Nam. Từ nay ta chỉ xây chùa hoàn tòa Việt Nam, 100% Việt Nam. Ngay cả các chữ trong chùa mới xây cũng nên là tiếng Việt.

Quay lại câu chuyện về kinh tụng hàng ngày, vào mỗi sáng tối, ít nhất là cho Phật tử tại gia, Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên thống nhất 1 bản kinh để tất cả cùng biết và cùng tụng. Tôi nhấn mạnh rằng cần Việt hóa hoàn toàn để ai cũng hiểu và thực hành lời dạy của đức Phật, tránh nhiều người biến việc tụng đọc kinh thành tín ngưỡng, và chỉ là tín ngưỡng.

Một tin vui cho những ai muốn nghiên cứu Phật giáo: bộ kinh Nykaya bằng tiếng Việt đầy đủ đang được in bởi một nhóm Phật tử tín tâm. Cuối tháng 6 này in xong. Như vậy những ai thật sự muốn có bộ kinh qý giá này sẽ không phải mất công tìm khắp các nhà sách trên cả nước nữa. Tôi là dân làm xuất bản mà còn chẳng tìm nổi một bộ đầy đủ cho mình nói chi đến mọi người, nhất là các bạn trẻ và những người ở xa.

Nguyện mong sớm có bản kinh tụng hàng ngày hoàn toàn bằng tiếng Việt.

TS Nguyễn Mạnh Hùng – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty sách Thái Hà 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/09/2010(Xem: 3378)
Quán đảnh đã được định nghĩa một cách khái quát là “hành động hay nghi thức ban ý nghĩa tôn giáo (thánh phước) cho những đồ vật, nơi chốn, hoặc con người; thường bằng năng lực và sự thánh thiện” (Bowker, tr. 234). Trong Phật giáo, quán đảnh đã được miêu tả như một nghi thức biến đổi một pho tượng hoặc một ngôi tháp từ một vật thể thế tục thành tinh tủy của một đức Phật (Bentor 1997).
09/09/2010(Xem: 15947)
5 bài kệ hô canh ngồi Thiền được áp dụng vào mùa An Cư, Kiết Hạ hằng năm của của Chư Tăng, hoặc trong trường hợp khai Đại Giới Đàn của xưa và nay.
08/09/2010(Xem: 5062)
Lễ nghi trong Phật giáo là bày tỏ lòng thành kính đối với các đấng thành kính. Họ là thầy tổ, là ông bà, cha mẹ và tất cả những người thân, kẻ sơ đã qua đời.
07/09/2010(Xem: 5504)
Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
31/08/2010(Xem: 7134)
Trước cửa Phật lập đàn phổ thí, Cho trọn đều quân lợi âm dương, Quang minh tỏ khắp mười phương, Kính dâng một nén tâm hương ngạt ngào. Cơn mưa tuệ dồi dào tưới khắp, Bóng mây từ che rợp mọi nơi, Lọt đâu dưới đất trên trời, Từ bi tế độ muôn đời viên thông. Trên đức Phật rất công rất chính, Dạy cho đời luyện tính tu tâm, Thương người đọa kiếp tối tăm, Giáo Hội chỉ dẫn khỏi lầm khỏi mê.
27/08/2010(Xem: 44695)
Đi thuyết linh nhiều nơi, thấy nhiều trường hợp oan gia trái chủ hiển bày rất rõ nét, cần phải giải trừ để có một đời sống an lạc. Rất nhiều Phật tử, thấy tâm tư không an khi nhìn lại đời sống đã gây nên tội lỗi oan trái muốn giải trừ, mà chưa có nhận thức đúng đắn.
05/08/2010(Xem: 4061)
Thiết dĩ, thể tánh hư hàm, bí thảo điêu tàn du vị tử, Thiền cơ diệu ngộ, đàm hoa lạc khứ hữu dư hương. Xuất một tự như, Khứ lai vô ngại. Cung duy - Tôn sư: Đạo phong trác thế, Giới đức siêu trần.
04/08/2010(Xem: 6578)
Có rất nhiều đám tang, không chỉ trong cộng đồng Phật Giáo mà cả trong các cộng đồng tôn giáo khác, khi đăng cáo phó thường ghi là: “Xin Miễn Phúng Điếu” và có một số cáo phó khác còn ghi rõ là: “Xin Miễn Phúng Điếu và Tặng Vòng Hoa”. Vậy xin hỏi: ý nghĩa của việc miễn phúng điếu này như thế nào? Nếu tang gia nhận tiền và tràng hoa người ta mang đến phúng điếu, thì người qua đời có mang nợ hay không? Và có nên nhận hay không nhận phúng điếu?
05/06/2010(Xem: 3167)
Sám Ngã Niệm - Cư Sĩ Hạnh Cơ dịch - Ngã niệm tự tùng vô lượng kiếp, Thất viên minh tánh tác trần lao, Xuất sanh nhập tử thọ luân hồi, Di trạng thù hình tao khổ sở, Túc ư thiểu thiện sanh nhơn đạo, Hoạch ngộ di phong đắc xuất gia,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567