Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Sáu cửa suy vong cho người cư sĩ

07/02/201107:45(Xem: 12831)
20. Sáu cửa suy vong cho người cư sĩ

THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CƯ SĨ GIỚI PHÁP
Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn
PL. 2550 - TL. 2006

CHƯƠNG II

CÁC PHÁP MÔN THUYẾT CHO CƯ SĨ

II.20. SÁU CỬA SUY VONG CHO NGƯỜI CƯ SĨ, SÁU NGÕ ĐI DẪN ĐẾN THIỆT TÀI SẢN VÀ BỊ KHỔ LỤY

Đức Phật đã thuyết điều này cho gia chủ tử Siṅgālaka nghe. Gia chủ tử Siṅgālaka là người theo hạnh lễ bái lục phương theo truyền thống của cha. Khi gặp Đức Phật, gia chủ tử này đã yêu cầu Đức Phật giảng cho nghe hình thức lễ bái lục phương theo pháp bậc thánh.

Trước hết, Đức Phật giảng về sáu cửa suy vong mà người cư sĩ phải tránh:

1- Say sưa rượu chè (Surāmerayamajjapamā daṭṭhānānuyogo), người sống say sưa có sáu điều nguy là tài sản bị tiêu hao, gây ra sự tranh cãi, phát sanh nhiều bệnh tật, tự đánh mất danh dự, thân lõa lồ trâng tráo, làm suy giảm trí tuệ.

2- Du hành đường phố phi thời (Vikālavisikhā cariyānuyogo), người đi chơi đêm có sáu điều nguy là không giữ được mình, không giữ được vợ con, không giữ được tài sản, dễ bị tình nghi, thành nạn nhân tin đồn, chuốc lấy ưu phiền.

3- La cà chỗ hí trường (Samajjhābhicaraṇaṃ), người thường lui tới chỗ vui chơi có năm điều nguy là công việc bị đình trệ, thối thất sự siêng năng, lãng phí nhiều thời gian, làm tốn hao tiền bạc, bận tâm tìm nhạc hội.

4- Đam mê cờ bạc (Jūtappamādaṭṭhānānuyogo), người cờ bạc có sáu điều nguy là thắng sinh ra thù oán, thua lỗ bị khổ đau, tài sản bị tổn thất, lời nói không hiệu lực, bạn bằng hữu khinh rẻ, không ai dám cưới gả.

5- Giao du ác hữu (Pāpamittānuyogo), người chơi với bạn xấu có sáu điều nguy là ảnh hưởng thói cờ bạc, ảnh hưởng thói đàng điếm, ảnh hưởng thói rượu chè, ảnh hưởng thói gian xảo, ảnh hưởng thói lường gạt, ảnh hưởng thói côn đồ.

6- Sống biếng nhác (Àlassànuyogo), người có tật lười biếng sẽ thối thác, không làm việc, viện lý do lạnh quá, nóng quá, sớm quá, trễ quá, đói quá, no quá. Do vậy, người ấy không thu hoạch được tài sản chưa có, sẽ cạn kiệt tài sản đã có. -- D. III.182.184.




I.6. VAI TRÒ CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO

Đức Phật có tâm đại bi với chúng sanh, Ngài thuyết pháp vừa theo trình độ và hoàn cảnh của mỗi người, để họ có thể thực hành theo giáo pháp hầu được an vui hạnh phúc và giải thoát khỏi khổ luân hồi như Ngài.

Giáo pháp của Đức Phật ứng dụng cho cả hai giới xuất gia và tại gia.

Người cư sĩ trong Phật giáo cũng có trách nhiệm nặng nề đối với việc tồn vong của chánh pháp.

Đức Phật có thuyết rằng:

"Ở đây, sau khi Như Lai nhập diệt, các tỳ kheo, các tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và qui thuận bậc Đạo Sư, sống tôn trọng và qui thuận giáo pháp, sống tôn trọng và qui thuận Tăng chúng, sống tôn trọng và qui thuận học giới, sống tôn trọng và qui thuận lẫn nhau. Đây là nguyên nhân chánh pháp được tồn tại lâu dài sau khi Như Lai viên tịch" (A.III.247).

Người cư sĩ Phật giáo, đúng nghĩa là cận sự nam và cận sự nữ không phải là người chi đến với Phật giáo như một học giả nghiên cứu triết học Đông phương. Mà phải nhận thức rõ vai trò của mình đối với Phật pháp, phải thiết tha sống theo tinh thần lời dạy của Đức Phật để hướng tìm mục đích giải thoát, thành tựu hạnh phúc thật sự.

Người cư sĩ chân chánh trong Phật giáo có hai vai trò:

1. Vai trò người hộ pháp (Dhammarakkhaka).
2. Vai trò người thừa tự pháp (Dhammadāyadaka).

Vai trò hộ pháp

Hộ pháp tức là hộ trì Tam bảo: hộ trì Phật bảo, hộ trì Pháp bảo, hộ trì Tăng bảo.

Hộ trì Phật bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Đức Phật là bậc giác ngộ chân lý, bậc đã tìm ra pháp giải thoát, bậc kính trọng chánh pháp. Do vậy, sự hộ trì Phật bảo cũng gọi là hộ pháp.

Hộ trì Pháp bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng giáo lý của Đức Phật là pháp đem đến sự an vui cho chúng sanh thiết thực hiện tại, lợi ích tương lai, và thoát khỏi luân hồi. Giữ vững giáo pháp cho đúng tinh thần chánh pháp, không để bị mai một, bị sai lệch văn cú ý nghĩa lời dạy của Đức Phật. Đó gọi là hộ pháp.

Hộ trì Tăng bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Tăng chúng là những vị đệ tử thừa hành giáo lý của Đức Phật, truyền thừa Phật pháp tồn tại trong thế gian ngay khi Đức Phật còn tại thế và sau khi Đức Phật níp bàn. Tăng chúng còn là Giáo pháp còn, do đó sự hộ trì Tăng bảo cũng là hộ pháp.

a) Hộ trì Phật Bảo

Người cư sĩ hộ trì Phật bảo bằng bốn hình thức sau đây:

1- Giữ vững niềm tin đối với Đức Phật, không có hoài nghi sự giác ngộ của Ngài.
2- Hằng tán dương Đức Phật và hoan hỷ người khác tán dương Đức Phật.
3- Thường xuyên lễ bái Đức Phật qua hình, tượng, xá lợi.
4- Xây dựng đền tháp, tôn thờ Phật cảnh trang nghiêm để tôn vinh Đức Phật. Nếu không có khả năng tự mình làm thì ủng hộ người khác cùng làm.

Việc thờ phụng Đức Phật, người cư sĩ làm vai trò ấy là hợp lý hơn các vị xuất gia. Khi Đức Thế Tôn sắp viên tịch, tôn giả Ānanda đã bạch hỏi Ngài về việc xử sự đối với thân Xá Lợi của Thế Tôn phải như thế nào? Đức Phật bảo rằng:

"Này Ānanda, các ngươi chớ bận lo việc thờ phượng Xá Lợi của Như Lai; hãy tinh tấn tự lợi, hãy chuyên cần tự lợi, hãy sống nỗ lực nhiệt tâm, không dể duôi. Này Ānanda, có các hiền trí Sát đế lỵ, các hiền trí Bà la môn, các hiền trí gia chủ tín ngưỡng Như Lai, những người ấy sẽ thờ phượng thân xá lợi của Như Lai" (D.II.141).

b) Hộ trì Pháp bảo

Người cư sĩ hộ trì Pháp bảo bằng năm hình thức sau đây:

1- Giữ vững niềm tin đối với giáo pháp, không có hoài nghi về hiệu năng hướng thượng của Giáo pháp.
2- Siêng năng học hỏi giáo pháp, thọ trì đúng chánh pháp, không mê tín dị đoan, không xu hướng ngoại đạo.
3- Hoan hỷ cúng dường đến các vị tỳ kheo, sa di là bậc đa văn, những vị học pháp, hành pháp và duy trì giáo pháp.
4- Có sự ưu tư trong việc chấn hưng Phật pháp khi thấy có dấu hiệu bi suy thoái, bị phá hoại.
5- Tùy khả năng của mình, hỗ trợ chư Tăng kết tập kinh điển, in ấn sách kinh, mở trường lớp Phật học v.v...

Từ thời Đức Phật đã có những tấm gương cư sĩ hộ pháp như ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, vua Pasenadi, sau này có vua Asoka ... chẳng những họ cúng dường vật chất hộ độ Đức Phật và Tăng chúng mà họ còn rất quan tâm để hộ trì chánh pháp, cũng cố Phật pháp, làm sao cho giáo pháp hưng thịnh.

Người cư sĩ hộ trì chánh pháp nổi bậc nhất là đức vua Asoka (A Dục vương). Với quyền hành của mình, nhà vua đã cố gắng học Phật pháp cho thông suốt để sàng lọc ra những vị tu sĩ giả danh gây xáo trộn trong Phật giáo, nhà vua cũng đã nhiệt tâm hộ độ chư Tăng kết tập kinh điển lần thứ ba, nhà vua cũng tận tâm giúp đỡ chư Tăng đi hoằng pháp mở mang Phật giáo đến các nước lân bang ...

c) Hộ trì Tăng bảo

Người cư sĩ hộ trì Tăng bảo bằng năm hình thức sau đây:

1- Có niềm tin vững chắc nơi Tăng chúng, không vì lý do một vài phần tử cá nhân xấu mà mất niềm tin với Tăng chúng.
2- Thường xuyên hộ độ cúng dường các nhu cầu vật chất đến chư tăng.
3- Luôn luôn bảo vệ uy tín và thanh danh cho Tăng chúng.
4- Quan tâm đến sự an nguy thịnh suy của Tăng chúng, đồng vui cộng khổ với chư tăng.
5- Đối xử với Tăng chúng bằng sự kính trọng và nhu thuận.

Các cư sĩ thời Đức Phật như ông Jīvakakomārabhacca, bà Visākhā, vua Pasenadi ... là những người hộ Tăng tiêu biểu, vừa hộ độ thực phẩm, vừa bảo vệ thanh danh chư tăng, vừa khéo góp ý nhắc nhở những vị có hành vi sai trái để chấn chỉnh giáo hội tốt đẹp.

Vai trò thừa tự pháp

Thừa tự (dāyada) là sự kế thừa, thừa hưởng, như là thừa tự tài sản, thừa hưởng gia sản v.v... thừa tự pháp là kế thừa Giáo pháp của Đức Phật.

Trong kinh Trung Bộ, Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này các tỳ kheo, các ngươi hãy là người thừa tự pháp của ta, đừng là người thừa tự tài vật - Dhamma-dāyādā me bhikkhave bhavatha mā āmisadāyādā" -- (M.I.12).

Ở vai trò thừa tự pháp, người cư sĩ có ba phận sự:

- Học hỏi giáo lý
- Thực hành giáo pháp
- Duy trì Phật giáo

a) Học hỏi giáo lý

Để lãnh hội những tinh hoa Phật pháp và có được chánh kiến, người cư sĩ phải siêng năng học hỏi giáo lý, ưa thích tìm hiểu Phật pháp. Sự học hỏi giáo lý cho thông suốt, gọi là thừa tự pháp. Ví như một người con kế thừa sự nghiệp của ông cha, là phải biết được giá trị những gì mà ông cha đã để lại, cũng vậy, giáo pháp mà đấng từ phụ đã để lại, đệ tử xuất gia hay tại gia phải chuyên cần học tập để biết được giá trị của giáo pháp ấy, như thế mới đáng gọi là đệ tử thừa tự pháp.

Người cư sĩ học hỏi giáo lý bằng nhiều phương tiện, có thể bằng cách nghe chư Tăng thuyết Phật pháp.

Hoặc có thể học hỏi bằng cách nghiên cứu tham khảo kinh sách Phật giáo.

Hoặc có thể học hỏi bằng cách tìm gặp nhau để đàm luận Phật pháp.

Các cư sĩ thời xưa khi đến viếng thăm Đức Phật hay các vị Tỳ kheo, bao giờ họ cũng hoan hỷ nghe pháp, thiết tha học giáo pháp, như vua Pasenadi, ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā v.v... Có vậy mới xứng đáng gọi là cư sĩ thừa tự pháp.

b) Thực hành giáo pháp

Người cư sĩ không phải chỉ đơn thuần là người có tín ngưỡng tôn giáo, là người theo đạo Phật. Người cư sĩ phải sống theo pháp, thực hành giáo pháp, chấp nhận giáo pháp ứng dụng vào đời sống như là một nhu cầu không thể thiếu. Người cư sĩ có thực hành như vậy mới hưởng được hương vị tuyệt vời của giáo pháp, như khi có nếm qua món ăn rồi mới thưởng thức được hương vị của món ăn đó. Gọi là người cư sĩ thừa tự pháp, phải thật sự cảm nhận được sự đặc thù của chánh pháp qua kinh nghiệm tu tập.

Người cư sĩ ngoài việc học hỏi giáo lý thông suốt, còn phải thực hành nữa. Khi nào còn người thực hành theo giáo pháp thì khi đó Phật pháp còn tồn tại, bởi thế vai trò thừa tự pháp của người cư sĩ cũng rất quan trọng.

Sự thực hành giáo pháp, tức là hành theo ba điều căn bản:

"Không làm các điều ác" (Sabbapāpassa akaraṇaṃ). Nghĩa là người cư sĩ sống né tránh không làm điều tội lỗi như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói độc ác, nói vô ích, tham lam, sân hận và tà kiến.

"Thực hiện các việc lành" (Kusalassa upasampadā). Nghĩa là người cư sĩ thiết tha làm những điều thiện như bố thí, trì giới, tu tiến, cung kính, phục vụ, thính pháp, nói pháp, hồi hướng phước, tùy hỷ phước và cải chánh tri kiến.

"Thanh lọc nội tâm" (Sacittapariyodapanaṃ). Nghĩa là người cư sĩ tinh tấn thiền định để rèn luyện nội tâm, làm cho tâm trong sạch không bị ô nhiễm bởi phiền não tham, sân, si.

Sự tu tập của người cư sĩ theo ba điều trên, gọi là người cư sĩ thực hành giáo pháp.

c) Duy trì Phật giáo

Người cư sĩ thừa tự pháp, ngoài hai phận sự là học hỏi giáo lý và thực hành giáo pháp, còn có một phận sự nữa cũng rất quan trọng, đó là duy trì Phật giáo.

Phật giáo được tồn tại lâu dài là nhờ vào tứ chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ hết lòng phụng sự duy trì chánh pháp. Trong tứ chúng ấy, tỳ kheo và tỳ kheo ni là hàng xuất gia; cận sự nam và cận sự nữ thuộc hàng tại gia cư sĩ. Bậc xuất gia đóng vai trò chính trong phận sự duy trì Phật pháp vững bền; còn đối với hàng cư sĩ chỉ là vai trò phụ.

Tuy người cư sĩ đối với phận sự duy trì Phật pháp là vai trò phụ nhưng không phải là không quan trọng. Vì nếu người cư sĩ không xuất gia hoặc cư sĩ cha mẹ không hoan hỷ cho con cháu xuất gia thì làm sao có tỳ kheo, tỳ kheo ni để duy trì Phật pháp? Lại nữa, nếu người cư sĩ không ủng hộ cúng dường hoặc bảo vệ Tăng chúng Phật giáo thì làm sao các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều kiện thuận lợi làm phận sự duy trì Phật pháp?

Bởi thế, người cư sĩ cũng có phận sự duy trì Phật giáo là gián tiếp. Và người cư sĩ duy trì Phật giáo được gọi là người thừa tự giáo pháp.

Một thời, khi đức vua Asoka (A Dục vương) trở thành Phật tử, đức vua đã ra sức xây cất 84.000 chùa tháp để tôn thờ Xá lợi Đức Phật. Đức vua bạch hỏi chư Thánh Tăng: Sự đại thí như vầy, không biết có ai đã từng làm chưa?

Trưởng lão Moggalliputtatissa thay mặt chư Tăng đã trả lời rằng:

"Thưa Đại vương, dù khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền và cho đến nay cũng chưa có một ai làm được việc đại thí như thế này. Chỉ có Đại vương là nguời duy nhất làm được việc đại thí này thôi".

Đức vua Asoka lắng nghe trưởng lão Moggalli-puttatissa trả lời, lòng tràn ngập phỉ lạc. Vua đã suy nghĩ, nếu ta là người đã làm được đại thí này chắc hẳn ta là người thừa kế Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) chăng? Nghĩ vậy, Đức vua bèn bạch hỏi vị trưởng lão nữa.

"Kính bạch Tôn giả, trẫm đã làm được đại thí như thế, vậy trẫm có phải là người kế thừa của Phật giáo chăng?"

Trưởng lão đáp:

"Thưa đại vương, người chỉ bố thí bốn món vật dụng, dù có là đại thí chăng nữa cũng chỉ gọi là thí chủ vật dụng (paccayadāyaka), chứ chưa phải là người kế thừa Phật giáo (sāsanadāyada).

Đức vua liền hỏi vị trưởng lão, người thế nào mới gọi là kế thừa Phật giáo. Trưởng lão đáp:

"Những người cha mẹ nào hoan hỷ cho phép con của mình xuất gia trở thành tỳ kheo trong Phật giáo, như vậy, người cha mẹ ấy mới được gọi là người kế thừa Phật giáo."

Đức vua Asoka nghe vậy khởi tâm tịnh tín bèn cho phép hai người con là hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā xuất gia làm tỳ kheo và tỳ kheo ni trong Phật giáo. Sau khi xuất gia, cả hai vị đều đắc quả A la hán, và chính Đại Đức Mahinda đã mở đầu công cuộc hoằng hóa giáo pháp tại xứ Tích Lan.

Các bậc xuất gia duy trì Phật pháp bằng cách hoằng pháp, còn đối với người cư sĩ thì duy trì Phật pháp bằng cách hộ độ chư Tăng hoằng pháp, và tạo người nối truyền hoằng pháp, tức là nếu con em có ý muốn xuất gia thì mình khích lệ, động viên, và hoan hỷ cho phép.

DỨT CHƯƠNG I

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/12/2019(Xem: 15674)
Theo thông lệ hằng năm, Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu đã quy định Khoá An Cư Kiết Đông 10 ngày, được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry - Paris - Pháp quốc vào dịp đầu năm Dương Lịch. Thời tiết đã vào Thu, hoa lá đã chuyển màu, không mấy chốc nmùa Đông sẽ trở về trên xứ Âu Châu và thời gian chỉ còn hai tháng rưởi nữa là hết năm 2019. Bước qua năm 2020, nhưng đặc biệt Giao Thừa - Nguyên Đán Canh Tý sang năm rơi vào quý tuần tháng 01 năm 2020 tức là 24 & 25/01/ 2020. Cho nên Hội Đồng Điều Hành quyết định mở Khoá An Cư Kiết Đông bắt đầu từ ngày 02 tháng 01 năm 2020 đến ngày 11 tháng 01 năm 2020, sớm hơn những năm trước, vì để thời gian cho các Bổn Tự chuẩn bị đón Tết Nguyên Đán Canh Tý.
31/07/2019(Xem: 10116)
Trong tiết trời giá lạnh của mùa đông xứ Úc, mùa Vu Lan lại trở về với những người con Phật trên khắp Năm Châu. Mùa Hiếu Hạnh nhắc nhở cho con cháu tưởng nhớ đến công ơn giáo dưỡng của ÔNG-BÀ-CHA-MẸ nên Lễ VU LAN cũng là Mùa BÁO ÂN ĐÁP NGHĨA, giáo dục đạo đức nhân sinh, xây dựng nếp sống THANH LƯƠNG tiến đến CHÂN-THIỆN-MỸ, góp phần tạo sự an lành trong gia đình và xã hội.
30/06/2019(Xem: 3916)
Mark Unno là vị tăng sĩ trong truyền thống Phật Giáo Tịnh Độ và cũng là Phó Giáo Sư dạy về Phật Giáo tại Đại Học University of Oregon, Hoa Kỳ. Ông là tác giả của cuốn sách “Shingon Refractions: Myoe and the Mantra of Light” [Những Tia Sáng Chân Ngôn Tông: Minh Huệ và Thần Chú Của Ánh Sáng], và ông cũng là chủ bút của Tạp Chí Buddhism and Psychotherapy Across Cultures [Phật Giáo và Tâm Lý Trị Liệu Xuyên Qua Các Nền Văn Hóa].
01/06/2019(Xem: 5602)
Kinh Phật căn bản là tuyển tập 13 bài kinh, trong đó 11 bài có xuất xứ từ kinh điển Pali và 2 bài thuộc kinh điển Đại thừa. Các bài kinh này, trong mười năm qua, tôi thường sử dụng trong các chuyến hành hương chiêm bái Phật tích Ấn Độ và Nepal do tôi hướng dẫn. Thay vì mang theo nhiều bài kinh riêng biệt, trong ấn bản này, tôi quyết định gộp chung thành một tuyển tập, theo đó người đọc tụng sẽ tiện sử dụng khi ngồi trên xe, lúc có mặt tại các Phật tích hoặc đọc tụng tại chùa hay tại tư gia. Kinh tiểu sử đức Phật giúp ta ôn lại cuộc đời đức Phật lịch sử qua năm giai đoạn: (i) Từ lúc đản sanh đến lúc lập gia đình, (ii) từ bỏ cơ hội làm vua, trở thành nhà tâm linh, (iii) sáu tháng trải nghiệm hai pháp thiền của đạo sa môn và năm năm rưỡi tu khổ hạnh theo đạo Bà-la-môn, (iv) giác ngộ thành Phật nhờ phương pháp Bát chánh đạo do Phật khám phá, (v) truyền bá chân lý, cứu độ nhân sinh suốt 45 năm.
14/03/2019(Xem: 21766)
Chùa Thiên Ấn do TT Thích Như Định thành lập năm 1992 (Nhâm Thân) tại thành phố Wollongong, tiểu bang New South Wales, cho đến ngày 14 tháng 4 năm 1993, nhân duyên đầy đủ, chùa chính thức dời về Canley Vale thuộc thành phố Fairfield. Chùa Thiên Ấn hiện tọa lạc tại số 69-71 Delamere St, Canley Vale (bao gồm lô đất số 56-58 Cadwell St, Canley Vale), Sydney, New South Wales với diện tích tổng quát là 3,600m2. Chùa Thiên Ấn tại Úc được đặt theo tên của Tổ Đình Thiên Ấn, Quảng Ngãi là quê hương của Thầy Trụ Trì Thích Như Định. Tổ Đình tọa lạc trên núi Thiên Ấn, phía dưới là sông Trà Khúc.
17/08/2018(Xem: 5183)
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo Việt Nam đã phát huy những giá trị tốt đẹp vào đời sống xã hội và góp phần quan trọng đối với văn hóa cộng đồng, trở thành tôn giáo hoà hợp với bản sắc dân tộc. Qua bao thăng trầm của lịch sử, Phật giáo Việt Nam nói chung và nghi lễ Phật giáo nói riêng, có vị trí không nhỏ trong quá trình hình thành văn hóa của dân tộc. Bài viết khảo cứu về nghi lễ cầu an, cầu siêu tại Thừa Thiên – Huế, gắn liền với nhu cầu tâm linh của con người, vừa mang sắc thái riêng của vùng miền, vừa chịu tác động bởi yếu tố truyền thừa, tiếp biến trong thực hành nghi lễ. Trên cơ sở đó, bài viết chỉ ra những tồn tại, bất cập trong nghi lễ cầu an, cầu siêu và đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao ý thức đối tượng thực hành và tạo sự nhất quán trong thực hành nghi lễ. Từ khóa: cầu an, cầu siêu, thực hành, nghi lễ, nhạc lễ, Phật giáo, tâm linh.
19/12/2017(Xem: 6616)
Khánh Hòa: Đại Trai đàn bạt độ giải oan, cấu siêu nạn nhân tử nạn trên biển do bão số 12 tại Van Ninh, Ngày 17/12/2017 (nhằm ngày 30/10 /Đinh Dậu), được sự đồng thuận cho phép của UBND Huyện Vạn Ninh, BTS GHPGVN huyện Vạn Ninh đã long trọng tổ chức Đại Trai đàn bạt độ giải oan cấu siêu cho bà con xấu số tử nạn trên biển trong cơn bão số 12 tại huyện Vạn Ninh. Quang lâm chứng minh có HT. Thích Minh Thông - Uỷ Viên HĐTS GHPGVN, Phó Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà; HT Thích Nguyên Quang - Uỷ Viên HĐTS GHPGVN, Phó BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà, Trưởng BTS GHPGVN huyện Vạn Ninh; TT Thích Thiện Phước - Uỷ Viên HĐTS GHPGVN, Phó BTS, Chánh Thư Ký BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hoà và chư tôn thiền đức Tăng Ni trong huyện.
15/12/2017(Xem: 76908)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121242)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
01/11/2017(Xem: 9973)
Sen quý nở đài giác ngộ Hào quang chiếu rạng mười phương Trí huệ vượt tầm pháp giới Từ bi thấm nhuận non sông Vừa thấy dung nhan Điều Ngự Trăm ngàn phiền não sạch không Hướng về tán dương công đức Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567